Luật sư Hà Nguyễn
Gửi cho BBC từ Hoa Kỳ
29-05-2015
Giáo sư Nguyễn Huệ
Chi bị cấm xuất cảnh và thu hộ chiếu hôm 18/5/2015 ở phi trường Tân Sơn Nhất.
Ngày
18/5/2015 vừa qua, khi cùng với vợ và con gái ra sân bay Tân Sơn Nhất, thành phố
Hồ Chí Minh, Việt Nam để đi Mỹ thăm gia đình con gái sống tại đó, Giáo sư Nguyễn
Huệ Chi, một trong ba người khởi xướng Bauxite Việt Nam, một blog nổi tiếng về
phản biện Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam, đã bị công an không cho xuất cảnh
đồng thời thu hộ chiếu.
Tại “Biên bản về việc chưa cho xuất cảnh” do công an
lập có ghi:
“Chuyến bay KB 684 của hãng hàng không Korean xuất cảnh
đi Seoul (Hàn Quốc) lúc 23h20’ ngày 18/5/2015. Đồn Công an cửa khẩu sân bay Tân
Sơn Nhất phát hiện ông Nguyễn Huệ Chi là người chưa được xuất cảnh theo Đề nghị
của Công an thành phố Hà Nội.
“Căn cứ vào Nghị định 136/2B007NĐ-CP ngày 17/8/2007
của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về xuất cảnh, nhập
cảnh của công dân Việt Nam, chúng tôi quyết định: lập biên bản chưa cho xuất cảnh
đối với ông Nguyễn Huệ Chi; tạm giữ hộ chiếu số B3934536 mang tên Nguyễn Huệ
Chi chuyển về Cục quản lý xuất nhập cảnh (44-46 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội); yêu
cầu ông Nguyễn Huệ Chi liện hệ Công an thành phố Hà Nội và Cục quản lý xuất nhập
cảnh để giải quyết”.
Trường
hợp nào bị cấm?
Vậy Nghị định 136/2B007NĐ-CP quy định thế nào về việc
công dân Việt Nam không được xuất cảnh?
Theo Điều 21 Nghị định, công dân Việt Nam chưa được
xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên
quan đến công tác điều tra tội phạm.
2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự.
3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế;
đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế.
4. Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường
hợp có đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác để thực hiện nghĩa
vụ đó.
5. Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan.
6. Vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội.
7. Có hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh
theo quy định của Chính phủ.
Ngoài ra, Điều 22 Nghị định tại Điểm d Khoản 1 quy định
“Bộ trưởng Bộ Công an quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại
khoản 6 Điều 21 Nghị định này” và tại Khoản 3 quy định “Cơ quan nào quyết định
chưa cho công dân xuất cảnh thì có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho công
dân đó biết, trừ trường hợp vì lý do đảm bảo bí mật cho công tác điều tra tội
phạm và lý do an ninh”.
‘Không
được thông báo’
Về phần Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, ông đã không được bất
cứ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào thông báo bằng văn bản về việc ông không
được xuất cảnh. Đối chiếu với các quy định nói trên có thể suy đoán ông đang bị
Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang coi là đối tượng có hành vi xâm phạm an ninh
quốc gia hoặc trật tự an toàn xã hội!
Từ đó, có ý kiến cho rằng Công an Hà Nội không cho
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi xuất cảnh vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội là trái Nghị định 136/2B007NĐ-CP vì chỉ Bộ trưởng Công an mới có thẩm
quyền trong trường hợp này đồng nghĩa Công an Hà Nội phải thu hồi đề nghị không
cho giáo sư xuất cảnh. Tuy nhiên cách đặt vấn đề như vậy sẽ không đảm bảo phục
hồi quyền xuất cảnh cho Giáo sư Nguyễn Huệ Chi vì Bộ Công an sẽ công bố quyết định
có liên quan của Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang mà không có bất cứ khó khăn
nào.
Giáo sư Huệ Chi từ
chối ký tên vào biên bản nhưng nêu rõ lý do, theo trang Bauxite Việt Nam.
Quan điểm của tôi là công an Việt Nam không cho Giáo
sư Nguyễn Huệ Chi xuất cảnh là trái pháp luật, cụ thể là trái Hiến pháp – luật
cơ bản của quốc gia, có hiệu lực pháp lý cao nhất – như chứng minh sau đây.
Điều 23 Hiến pháp Việt Nam 2013 (có hiệu lực từ
1/1/2014) quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật quy định”.
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Như vậy, việc không cho công dân thực hiện quyền ra
nước ngoài phải được luật, chứ không phải văn bản pháp luật khác, quy định.
Vả lại câu “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định” tại Điều 23 Hiến pháp có nghĩa pháp luật đưa ra những quy định nhằm bảo
đảm việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân (chẳng hạn, công dân phải
làm hộ chiếu mới được ra nước ngoài…) chứ tuyệt nhiên không có nghĩa đưa ra những
quy định hạn chế các quyền này.
Rõ ràng, việc bảo đảm thực hiện các quyền con người,
quyền công dân và việc hạn chế (không cho) thực hiện các quyền này là khác hẳn
nhau đồng nghĩa việc thực hiện quyền không thể bao gồm việc không được thực hiện
quyền.
Do không phải là luật nên Nghị định 136/2B007NĐ-CP
ngày 17/8/2007 của Chính phủ không thể được công an Việt Nam lấy làm căn cứ để
không cho công dân Việt Nam, trong trường hợp này là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, xuất
cảnh.
Biện
pháp pháp lý
Để bảo vệ quyền ra nước ngoài của mình được Hiến
pháp bảo hộ, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi có thể sử dụng các biện pháp pháp lý sau
đây:
Một là, căn cứ Khoản 1 Điều
30 Hiến pháp (Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân)
cũng như Luật Khiếu nại và Luật tố cáo, khiếu nại với các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền về việc Công an Hà Nội, cụ thể là giám đốc Công an Hà Nội, đã không
cho Giáo sư ra nước ngoài trái Hiến pháp (Điều 23, Khoản 2 Điều 14).
Hai là, căn cứ Luật Tố tụng
hành chính (Khoản 6 – Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ
án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính) và Khoản7 –
Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi
hành chính) khởi kiện giám đốc Công an Hà Nội tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội về việc không cho Giáo sư ra nước ngoài trái Hiến pháp (Điều 23, Khoản 2 Điều
14).
Ba là, khiếu nại rồi khởi
kiện trong trường hợp khiếu nại không được giải quyết hoặc giải quyết khiếu nại
không đáp ứng yêu cầu của Giáo sư.
Lẽ dĩ nhiên những công dân Việt Nam khác bị công an
ngăn xuất cảnh vì lý do “bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội”
hoàn toàn có thể sử dụng lập luận pháp lý nêu trên để khiếu nại hoặc khởi kiện
nhằm bảo đảm quyền Hiến định của mình.
Vấn đề còn lại là sau này khi soạn thảo Luật về xuất
cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Quốc Hội Việt Nam nhất thiết phải quy định
rõ thời hạn không cho công dân ra nước ngoài vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội hoặc lý do khác bởi không có quyền nào của con người,
của công dân bị đình chỉ vô thời hạn ngoại trừ công dân là đối tượng chấp hành
bản án tù chung thân hoặc bản án tử hình.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của
tác giả, một luật sư có bằng hành nghề tại Việt Nam, đang sinh sống tại Hoa Kỳ.
___
Xem
lại:
No comments:
Post a Comment