25.02.2015
Mới
đây mà đã 40 năm. Thời gian đi quá mau!
Trong
cuộc đổi đời 40 năm trước, hầu như mỗi người có câu truyện riêng, có khi cùng một
gia đình, truyện mỗi người một khác. Nhân kỷ niệm 40 năm mất Sài Gòn, xin kể lại
sau đây đoạn đầu cuộc ra đi của tôi, Từ Sài Gòn đến Guam. Những gì tôi đã trải
qua, được ghi lại theo trí nhớ. Những gì không trực tiếp trải qua, được viết
theo những tài liệu đã xuất bản.
Mối
lo đảo chánh
Từ
tháng Ba, 1975, tin xấu đến dồn dập. Ngày 10, mất Ban Mê Thuột. Bốn ngày sau,
Quân Đoàn 2 rút khỏi Cao Nguyên trong kinh hoàng. Ngày 25, Cộng quân tràn ngập
Huế. Ngày 26-27, Đà Nẵng hấp hối trong hoảng loạn.
Trong
cuốn Decent Interval do Random House xuất bản năm 1977, tác giả Frank
Snepp, nhà phân tích chiến lược hàng đầu của CIA ở Việt Nam, sau khi mô tả cảnh
hỗn loạn tìm đường sống tại Đà Nẵng vào ngày 27 tháng Ba, 1975, đã viết về buổi
chiều hôm đó tại Sài Gòn, như sau:
Vào
đầu buổi chiều cùng ngày, Tổng Thống Thiệu lên đài truyền hình quốc gia với bài
phát biểu chỉ lâu có năm phút, thúc dục toàn dân hãy “chận đứng đà tiến của địch”.
Sự công khai tái xuất hiện của ông cũng đáng chú ý như thông điệp của ông, vì
trên hai tuần trước ông hầu như biệt tăm, chỉ xuất hiện hai lần ngắn ngủi trên
TV, khiến tin đồn loan truyền trong thành phố rằng ông đã bị giết, hay bị loại.
Sau
màn truyền hình, ông Thiệu rời Dinh trong xe limousine chống đạn, tới một nơi ẩn
náu riêng tư gần khách sạn Majestic ở bờ sông. Ông ngồi tới khuya thảo luận với
những phụ tá thâm niên. Về những chuyện còn kinh khủng hơn cả tin từ mặt trận,
đó là những tin đồn đảo chánh do Kỳ manh động, xem chừng vẫn ám ảnh và khiến
ông lo ngại. Trước đó trong ngày, Kỳ đã táo bạo công bố lời hiệu triệu quốc
dân, một lần nữa kêu gọi Thiệu từ chức. Nhưng Tổng Thống đã sẵn sàng cho chuyện
này. Chỉ trong khoảng một tiếng đồng hồ, các sĩ quan chọn lựa từ lực lượng Cảnh
Sát Quốc Gia đã bắt giữ nhiều người liên minh với Kỳ, ba nhà báo và bốn “chính
khách chầu rìa” (fringe politicians) đã bị tố “âm mưu lật đổ chính quyền”.
Không có nhân vật chính nào quanh Kỳ bị đụng tới, ít nhất là chưa, nhưng những
vụ bắt giữ này rõ ràng có nghĩa là cảnh báo cuối cùng cho họ (Decent Interval,
trg: 242, 243).
Tướng
Thiệu nhìn Tướng Kỳ: (Chà … đeo kính đen, mặc áo Mao, đi boots, còn bắt chân chữ
ngũ. Muốn đảo chánh hả?)
Vụ
bắt người nói trên đã xảy ra tối 26, không phải 27, và số bị bắt hôm đó không phải
chỉ có 7 người. Tôi là một trong ba nhà báo bị bắt.
Khoảng
nửa đêm 26 tháng Ba, các con đã ngủ yên từ lâu, tôi đang ngồi viết bài cho
Chính Luận, bỗng có tiếng chó sủa, rồi tiếng gọi mở cổng để cảnh sát vào xét sổ
gia đình.
Trẻ
con vẫn ngủ yên. Không hỏi thẻ căn cước nhà tôi, cũng không kiểm điểm người
theo sổ gia đình, cảnh sát chỉ mời tôi “ra đầu đường xác nhận lý lịch rồi về”.
Bước ra khỏi cổng chừng vài chục mét, người ta ra hiệu cho tôi lên một chiếc xe
Jeep đợi sẵn. Vừa ngồi xuống ghế xe, có tiếng nói: “Chúng tôi được lệnh bắt
ông”. Cùng lúc, từ đằng sau, hai cánh tay đưa mảnh vải đen qua đầu, bịt mắt
tôi. Xe chuyển bánh, tôi bị đưa đi chỉ với bộ quần áo sơ sài trên người, không
mang theo bất cứ vật dụng gì. Không đọc lệnh bắt, không nói nguyên do. Ở nhà
không biết đi đâu. Với các con, tôi như người bỗng nhiên biến mất; tối đi ngủ
còn bố, sáng dậy không thấy bố đâu.
Di
chuyển trong giờ giới nghiêm, cảnh vật yên tĩnh, ngoài tiếng nổ đều của động cơ
là tiếng gió lật phật tạt vào hông xe mui vải. Xe đi chừng nửa giờ, một người
trong bọn lên tiếng bâng quơ “chắc sắp tới Biên Hòa”. Tôi biết họ muốn đánh lạc
hướng, có lẽ để gây hoang mang. Biết, vì họ là những người phải rõ đang đi trên
con đường nào, và sẽ tới đâu. Họ đâu phải khách du lịch mà phỏng đoán đang ở
đâu, hay sắp tới đâu. Hơn nữa, từ nhà tôi đi Biên Hòa, phải qua cầu xa lộ khá
cao. Qua cầu này, dù bị bịt mắt, vẫn có thể cảm nhận khi xe lên và xuống dốc.
Tôi chưa cảm thấy đã qua cầu này, không thể có chuyện sắp tới Biên Hòa.
Đi
chừng mươi phút nữa, xe ngừng. Người ta dắt tôi xuống, lên mấy bậc thềm, đi ít
bước nữa, rồi nói có thể gỡ miếng vải bịt mắt. Sau khi hết loá mắt vì ánh đèn,
thấy mình đứng trong căn phòng giam, chừng 4×5 mét. Đã có một người ở đó, qua
nhân dạng và giọng nói, tôi đoán anh ta là người Tầu. Hỏi đây là đâu? Đáp “An
Ninh Quân Đội”. Vừa lúc ấy, tôi nhác thấy bên ngoài bóng dáng của viên Đại Uý
mà tôi từng biết là nhân vật số hai của Cảnh Sát Đặc Biệt Đô Thành. Thế là anh
Tầu chung phòng lộ tẩy là tay sai cảnh sát, được cài vào theo dõi, không phải
tù thường. Tôi không nói gì.
Hôm
sau, trời sáng mới có dịp quan sát cảnh vật. Nơi giam tôi nằm ở đầu một dẫy
phòng nối tiếp nhau, ngoài cửa ra vào đóng kín, phòng nào cũng có cửa sổ nhìn
ra hành lang. Góc phòng có nhà vệ sinh trên bệ cao, không cửa, để tiện theo dõi
từ bên ngoài. Quan sát những vết tích quanh phòng, thấy tên “Huỳnh Tấn Mẫm”,
cao bằng chiều dầy ngón tay, viết hằn trên một bức tường. Tôi đang bị giam cùng
căn phòng trước đây đã giam anh sinh viên y khoa Sài Gòn về tội theo cộng sản.
Chính quyền Sài Gòn không phân biệt đối xử, thân cộng hay chống cộng, cũng như
nhau.
Tôi
không biết bị bắt một mình, hay cùng với ai nữa. Nhân viên trại giam tiếp xúc đầu
tiên cho biết: “bị bắt vì lý do chính trị, được đối xử theo quy chế đặc biệt,
không phải ăn cơm tù. Cơm được mua đem vào từ bên ngoài. Mỗi ngày, công quỹ đài
thọ mỗi người 150 đồng, là tiền ăn uống cho ba bữa. Sáng gồm bao thuốc lá và ly
cà phê sữa. Trưa và tối là hai bữa cơm; muốn ăn với thịt, hay cá, phải cho biết
trước để đặt cho người ta cung cấp.
Tôi
nói trại giam không cần bận tâm về chuyện ăn, vì tôi sẽ không ăn gì cả, chỉ uống
nước. Nhân viên này đi kiếm một viên chức cấp trên, tới nói tôi không được làm
thế. Nếu không ăn, họ sẽ cưỡng bách bơm thực phẩm lỏng vào dạ dầy. Tôi nói tôi
không chủ trương tuyệt thực để phản đối hay làm to chuyện. Lý do không ăn, vì
tôi đã từng tập nhịn ăn vài lần, từ một tuần đến hai tuần, không hề hấn gì. Hơn
nữa, trời nóng, cơm với thịt cá, mua từ ngoài bỏ bao ni-lông mang vào, dễ bị
nhiễm độc. Và lý do thứ ba, tôi muốn nhịn ăn để đỡ phải dùng nhà vệ sinh. Nhưng
người ta nhất định không cho nhịn. Cuối cùng, tôi đề nghị: Buổi sáng, chỉ cho
tôi ly cà phê sữa, còn bao thuốc lá, ai dùng cũng được, tôi không cần biết.
Buổi
trưa và tối, thay vì cơm với thịt hay cá, mỗi ngày mua cho tôi một cái bánh mì,
và mấy quả chuối. Người ta đã làm đúng như vậy trong suốt thời gian tôi bị
giam.
Xong
chuyện ăn uống, tôi hỏi nhân viên trại giam về người ở phòng bên cạnh, hy vọng
biết thêm có ai quen bị bắt cùng với mình không. Người ấy trả lời, đây là vụ rất
bí mật, chúng tôi không được quyền biết. Ngay tên ông, chúng tôi cũng không biết,
chỉ được biết qua bí danh là “T1”, người ở phòng bên cạnh là “T2”, tiếp đến là
“T3”, thế thôi. Như vậy, ít nhất tôi cũng biết được, cùng bị giam ở đây, ngoài
tôi, còn hai người khác, cùng mang bí danh T, chưa biết là ai.
Vì
là tù không ăn cơm tù, mỗi lần cung cấp thực phẩm, người ta đưa một tờ giấy để
người nhận ký làm bằng. Lần đầu ký nhận, thay vì ngoáy bút ký như thường lệ,
tôi viết rõ tên mình, hy vọng ở phòng bên cạnh, nếu là người quen, sẽ nhận ra.
Chỉ mấy tiếng sau, dự tính của tôi đã có kết qủa. Nhìn vào tờ ký nhận khi người
ta đem thực phẩm tới vào buổi trưa, thấy người ở phòng bên cạnh, và phòng kế tiếp
cũng làm như vậy. Người mang bí danh “T2” ký là “Dương”, “T3” là “Lục”. Thế là
tôi biết riêng báo Chính Luận, có ba người bị bắt giam ở đây. Ngoài tôi, là các
anh Nguyễn Hữu Dương, từng là chánh án toà sơ thẩm Sài Gòn, chuyên viết tham luận
đăng ở trang 2, và Đậu Phi Lục, phụ tá chủ nhiệm.
Lúc
đầu, tôi không hiểu tại sao người ta đặt tên cho chúng tôi bằng bí danh mang chữ
T, cho đến một hôm, nhìn tấm bìa đựng hồ sơ thẩm vấn, thấy có mấy chữ “Chiến Dịch
Trường Giang”. Chúng tôi bị bắt nằm trong khuôn khổ một chiến dịch, không phải
một vụ án.
Khi
ấy, tôi không hiểu tại sao báo Chính Luận bị bắt tới ba người, và chẳng biết
còn ai khác nữa không. Trước đó, chuyện nhà báo bị bắt không hiếm, nhưng thường
vì bị coi là làm lợi cho cộng sản. Chính Luận là nhật báo có lập trường chống cộng
rõ ràng, Tổng Thư Ký Từ Chung đã bị cộng sản ám sát, vậy chúng tôi bị bắt vì lý
do gì?
Buổi
trưa, vào lúc hành lang vắng bóng người qua lại, có tiếng đập tường ra hiệu từ
phòng bên cạnh. Anh Dương lên tiếng: “Cụ ơi! Bây giờ mình có đòi luật sư theo
luật định không?” Tôi trả lời, nếu người ta trọng luật, đã không bắt mình vào
đây. Có lẽ cũng nhận thấy hiểu biết luật pháp của một chánh án chẳng giúp được
gì trong hoàn cảnh này, anh để tâm trí vào việc khác. Ngoài khả năng xử án và viết
báo, anh Dương còn có tài coi tướng số. Chiều hôm sau, anh lại đập tường gọi:
“Cụ ơi! Tôi bấm độn xong rồi. Tụi mình không ở đây lâu đâu. Chậm lắm là ngày 28
tháng tới sẽ về.
Lời
đoán của anh trễ hai ngày. Chúng tôi ra khỏi trại giam vào ngày Thứ Bảy, 26
tháng Tư.
Ra
tù rồi lo ra đi ngay, không còn thời gian tìm hiểu có bao nhiều người bị bắt
cùng vụ chúng tôi. Mấy hôm sau, gặp anh Nguyễn Văn Chức trên tầu, được biết anh
và các anh Phạm Nam Sách, Thái Lăng Nghiêm cũng bị bắt cùng ngày và bị giam ở Tổng
Nha, khác chỗ chúng tôi. Ngoài ra, không biết chắc có thêm ai nữa.
Âm
mưu lật đổ
Gần
bốn chục năm sau, con trai tôi tìm trong tài liệu đã được giải mật của Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ, thấy có bức điện văn nói rõ, tất cả mười người bị bắt. Nội dung điện
văn như sau:
Điện
văn mật SAIGON 03636 272203Z
Đại
Sứ Quán Mỹ gửi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 27/3/75.
Về
việc: Bắt những người bị coi là âm mưu và tin đồn liên hệ tới Nguyễn Cao Kỳ.
1-
Tóm tắt: Mười người bị coi là âm mưu chống chính quyền bị bắt hôm 26 tháng Ba
có một số liên hệ với Nguyễn Cao Kỳ, người đã mở một cuộc họp đối lập cùng
ngày, trong đó, có mặt hai trong số người bị bắt. Những người khác nghĩ rằng vụ
bắt này là do Thiệu ra tay để răn đe đối lập, những người gia tăng đòi thành lập
chính quyền dân sự. Người đứng đầu ngành cảnh sát quốc gia cho chúng tôi biết bị
bắt là những người âm mưu thay thế chính quyền hiện hữu bằng chính quyền khác sẵn
sàng thương thảo về nền độc lập của Nam Việt Nam, nhưng Nguyễn Cao Kỳ không can
dự, cũng như các nhà đối lập khác được biết đã công khai thảo luận về việc mở rộng
chính quyền hiện tại. Tất cả những người bị bắt đều là những khuôn mặt tương đối
không quan trọng.
2
– Bộ Nội Vụ ra thông báo ngày 27 tháng Ba nói rằng nhiều người đã bị bắt vì âm
mưu chống chính quyền.
Cảnh
Sát đã báo cho chúng tôi biết mười người sau đây đã bị bắt đêm 26 rạng 27 tháng
Ba: Cụu Nghị Sĩ Nguyễn Văn Chức; Cựu Nghị Sĩ Phạm Nam Sách; Cựu Nghị Sĩ Thái
Lăng Nghiêm (tự Phạm Văn Tâm); Thái Trắng; Công giáo ủng hộ Thành phần Thứ ba,
Giáo Sư Châu Tâm Luân; Nguyễn Hữu Dương; Đậu Thi (sic) Lục của Chính Luận; Cựu
đảng viên VNQDĐ và nhà hoạt động PACM Nguyễn Than (sic) Vinh; Ứng viên Thượng
Viện bị loại (1970) Đinh Từ Thức; và khuôn mặt phụ thuộc Hoà Hảo Trần Hữu Duyên
(người có thể chưa bị bắt nhưng sẽ bị).
3
– Giới truyền thông (như AP) đã liên hệ những người bị bắt này với Nguyễn Cao Kỳ,
người đã cộng tác với vài người trong số này trong qúa khứ, và người đã họp với
22 lãnh đạo đối lập trước đó cùng ngày, trong đó có hai người bị bắt đã tham dự.
Các cựu Nghị Sĩ Chức, Sách, và Nghiêm đều đã tham gia vào cuộc vận động tranh cử
tổng thống của Kỳ năm 1971. Tuy nhiên, những người khác như Giáo Sư Châu Tâm
Luân, không có quá khứ thân cận với Kỳ như chúng tôi được biết. Thiếu Tướng
Nguyễn Khắc Bình, người đứng đầu Cảnh Sát Quốc Gia cho chúng tôi biết những vụ
bắt người không có liên hệ gì với Kỳ.
4
– Hai trong số người bị bắt – các cựu Nghị Sĩ Phạm Nam Sách và Thái Lăng Nghiêm
– đã tham dự cuộc họp 26 tháng Ba của 22 nhà đối lập dưới sự bảo trợ của Nguyễn
Cao Kỳ. Thiếu Tướng Bình cho chúng tôi biết vụ bắt giữ không có liên hệ tới cuộc
họp, trong đó những người tham dự hoạt động công khai. Bình cho rằng những nhà
đối lập này thảo luận về viễn tượng mở rộng chính phủ, thật ra trên thực tế là
điều chính phủ có thiện cảm.
5
– Tuy nhiên, một số lãnh đạo chính trị, chúng tôi được biết kể cả Tướng Kỳ, cho
rằng vụ bắt giữ này liên hệ tới cuộc họp 26 tháng 3 để làm áp lực trên phe đối
lập.
MẬT
Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ giải mật ngày 05, tháng Bảy, 2006.
………….
C
O N F I D E N T I A L SAIGON 3636
DEPT
PASS IMMEDIATE TO IBS/NCA
NOFORN
E.O.
11652: GDS TAGS: PINT, VS SUBJ: ARRESTS OF ALLEGED PLOTTERS AND RUMORED
INVOLVEMENT OF NGUYEN CAO KY
REF:
SAIGON 3611, 3/27/75
1.
SUMMARY: TEN ALLEGED PLOTTERS AGAINST GOVT ARRESTED MARCH 26 HAVE BEEN LINKED
BY SOME WITH NGUYEN CAO KY, WHO HELD MEETING OF OPPOSITION SAME DAY AT WHICH
TWO OF THOSE ARRESTED WERE PRESENT. OTHERS THINK ARRESTS ARE ATTEMPT BY THIEU
TO INTIMIDATE OPPOSITION, WHOSE DEMANDS FOR FORMATION OF CIVILIAN GOVT
EVER
MORE INSISTENT. NATIONAL POLICE CHIEF HAS TOLD US ARRESTED PERSONS WERE
PLOTTING TO REPLACE PRESENT GOVT WITH ONE WILLING TO NEGOTIATE AWAY SVN
INDEPENDENCE BUT THAT NGUYEN CAO KY NOT INVOLVED NOR ARE OTHER OPPOSITIONISTS
PUBLICLY KNOWN TO BE DISCUSSING BROADENING OF PRESENT GOVT. ALL THOSE ARRESTED
ARE RELATIVELY MINOR FIGURES.
END
SUMMARY
2.
MINISTRY OF INTERIOR ISSUED STATEMENT MAR 27 SAYING SEVERAL PERSONS HAD BEEN
ARRESTED FOR PLOTTING AGAINST GOVT (REFTEL). CONFIDENTIAL
CONFIDENTIAL
PAGE
02 SAIGON 03636 272203Z
POLICE
HAVE INFORMED US THAT FOLLOWING TEN PERSONS ARRESTED
NIGHT
OF MAR 26-27: EX-SENATOR NGUYEN VAN CHUC; EX-SENATOR PHAM NAM SACH; EX- SENATOR
THAI LANG NGHIEM (AKA PHAM VAN TAM); THAI TRANG; CATHOLIC THIRD FORCE PROPONENT
PROF. CHAU TAM LUAN; NGUYEN HUU DUONG; DAU THI LUC OF CHINH LUAN; FORMER VNQDD
ADHERENT AND PACM ACTIVIST NGUYEN THAN VINH; DISQUALIFIED SENATE CANDIDATE
(1970) DINH TU THUC; AND MINOR HOA HAO FIGURES TRAN HUU DUYEN (WHO MAY NOT YET
BE ARRESTED BUT WILL BE).
………
Dù
ai nói thế nào mặc lòng, điều chắc chắn là cả ba chúng tôi từ Chính Luận đều
không có liên hệ gì tới ông Kỳ, cũng chẳng dính lứu gì tới âm mưu đảo chánh
nào.
Không
thực sự có âm mưu đảo chánh, cũng không vì cuộc họp 22 nhà đối lập do ông Kỳ
triệu tập ngày 26 tháng Ba, tại sao 10 người bị bắt đêm đó?
Thật
ra, vào cuối tháng Ba và tháng Tư, nếu có tin đồn đảo chánh, chỉ là chuyện
ngoài cửa miệng. Ví dụ, qua hồi ký của Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân
hồi đó, có nhắc chuyện ông Kỳ nói tới đảo chánh. Trên thực tế, không có kế hoạch
cụ thể nào. Không kế hoạch hành động, không bằng chứng, nên không có người nào
thân cận với ông Kỳ bị bắt. Vì “Chiến dịch Trường Giang” bắt người ngay vào buổi
tối hôm ông Kỳ có cuộc họp đối lập kêu gọi ông Thiệu từ chức, khiến có dư luận
liên hệ hai việc với nhau. Nhưng nếu không vì liên hệ với phiên họp của ông Kỳ,
tại sao ông Thiệu ra lệnh bắt những người đã bị bắt?
Tuy
là câu hỏi chỉ ông Thiệu mới có thể trả lời chính xác, nhưng có hai sự kiện
đáng ghi nhận:
Trước
hết, đảo chánh là nỗi ám ảnh khôn nguây của ông Thiệu trong hơn một thập niên,
từ khi chính ông là người tham gia đảo chánh, đưa đến cái chết thảm của hai anh
em Tổng Thống Diệm. Là người rất mê tín, ông Thiệu luôn lo sợ có người sẽ làm
cho ông điều ông đã làm cho người khác. Có thể vì nỗi ám ảnh này, đã khiến ông
phải hành động ngay, dù chỉ vì một tin đồn. Theo lời kể của Dân Biểu Liên Bang
Mỹ Pete McCloskey — thành viên của phái đoàn Quốc Hội Mỹ tới Việt Nam quan sát
vào tháng 2, 1975, trước khi quyết định có viện trợ cho VN 300 triệu đô la
không – khi thăm Vùng I, ông đã được Tướng Ngô Quang Trưởng cho biết, lực lượng
tinh nhuệ của ông đã bị mất, vì ông Thiệu hoảng loạn, đã kéo về phía Nam, để
phòng đảo chánh ở Sài Gòn (Tears Before The Rain).
Thứ
nhì, tất cả những người bị bắt, đều thuộc thành phần chống cộng. Các cựu Nghị
Sĩ Nguyễn Văn Chức, Phạm Nam Sách và Thái Lăng Nghiêm, hồi còn tại chức, các
ông chống cộng rất hăng, và với quyền bất khả xâm phạm đối với những phát biểu
tại nghị trường, các ông cũng thường chỉ trích chính phủ dữ dội, về nạn tham những
và những chính sách sai lầm. Dù không còn làm Nghị Sĩ, dư âm chống đối của các
ông vẫn còn.
Thắc
mắc còn lại là, trong số mấy chục tờ báo của Sài Gòn bấy giờ, tại sao chỉ có
Chính Luận bị bắt, và tới ba người? Và trong số hàng trăm nhà báo xuất sắc của
Chính Luận, tại sao bắt ba người chúng tôi?
Anh
Đậu Phi Lục, với vai trò Phụ tá Chủ Nhiệm, hầu như không bao giờ viết bài, thường
phụ giúp hay thay mặt Bác Sĩ Sung về mặt giao tế, và công việc điều hành tờ
báo. Không phải người chịu trách nhiệm về đường lối hay bài vở. Anh Nguyễn Hữu
Dương cũng như tôi, không làm việc thường xuyên ở toà báo. Anh là một trong những
cây bút viết tham luận, mỗi tuần ghé toà báo một vài lần đưa bài, truyện trò với
anh em vài câu, rồi về. Tôi phụ trách mục Sổ tay thường xuyên, lúc đầu ở
trang ba, sau chuyển ra trang nhất; viết ở nhà, mỗi ngày ghé toà soạn đưa bài,
rồi đi.
Trước
khi bị bắt ít lâu, vào thời phong trào chống tham nhũng lên cao, một hôm cuối
tuần, khi ghé đưa bài, tôi gặp anh Dương đang nói truyện với anh Lục. Bài vở của
số báo trong ngày coi như đã xong, nhân viên toà soạn đã ra về gần hết, chỉ còn
lại vài người. Chúng tôi đang vui chuyện, thấy Bác Sĩ Đặng Văn Sung, chủ nhiệm,
tiến tới, với một ít giấy tờ trong tay. Ông mới nhận được bản “Tuyên Cáo số 2”
của LM Trần Hữu Thanh, tố đích danh ông Thiệu tham nhũng, với lời yêu cầu đăng
nguyên văn của Hội Chủ Báo, và Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn.
Bác
Sĩ Sung đặt vấn đề với chúng tôi, đại ý: Mình vẫn chỉ trích ông Thiệu độc tài,
không tôn trọng tự do báo chí. Nếu bây giờ cúi đầu đăng nguyên văn Tuyên Cáo của
Cha Thanh, theo yêu cầu của Hội Chủ Báo và Tổng Hội Sinh Viên, có khác gì chống
độc tài này để tuân phục độc tài khác. Bình thường, trong trường hợp này, đăng
hay không là quyết định của Tổng Thư Ký Toà Soạn. Hôm ấy, đúng ngày nghỉ hàng
tuần của ông Thái Lân, chúng tôi được yêu cầu góp ý kiến và quyết định ngay,
trước giờ báo lên khuôn.
Chúng
tôi ở thế khó xử. Nếu cho đăng nguyên văn Tuyên Cáo, ngoài việc tỏ ra tuân phục
sự đòi hỏi của Hội chủ báo và sinh viên, còn trách nhiệm của nghề báo. Tố tham
nhũng là điều tốt, nhưng tố đích danh một viên chức tham nhũng, cũng phải dựa
trên sự thật và bằng chứng, huống chi tố đích danh một ông tổng thống. Nhà báo
không có trong tay bằng chứng cụ thể, cũng không kiểm chứng được mức độ khả tín
của nội dung Tuyên Cáo. Nhắm mắt cho đăng nguyên văn, là vi phạm đạo đức nghề
nghiệp.
Nếu
không đăng, ngoài việc bị Hội Chủ Báo và Sinh Viên lên án là “báo gia nô”, “tay
sai chính quyền”, còn bị dư luận coi là hèn nhát và tham lợi, tránh bị tịch thu
để tăng số bán trong khi báo khác bị tịch thu. Cùng lúc, đối với độc giả, bỏ
qua một chuyện “động trời” như Tuyên Cáo số 2, là thiếu sót nghề nghiệp.
Cuối
cùng, chúng tôi đã dung hoà các yếu tố trên, bằng quyết định: Không đăng nguyên
văn Tuyên Cáo mà viết một bản tin phản ảnh sự việc. Tuy nhiên, cả về nội dung
và ngôn từ, bản tin phải đầy đủ để dự trù báo cũng sẽ bị tịch thu, như các báo
đăng nguyên văn Tuyên Cáo trong số báo ra chiều hôm đó – tất cả các nhật báo ở
Sài Gòn thời đó đều ra buổi chiều, đề ngày hôm sau. Bản Tuyên Cáo được trao cho
một ký giả vẫn còn ở toà soạn viết thành bản tin. Nhưng anh ký giả này, ngoài
Chính Luận, còn làm cho Việt Tấn Xã, cơ quan thông tấn của nhà nước. Có lẽ vì vậy,
khi đọc bản thảo của anh, cả ba chúng tôi – anh Lục, anh Dương, và tôi – đồng ý
bản tin quá sơ sài, nếu đăng, báo sẽ không bị tịch thu. Như vậy, Chính Luận vẫn
sẽ bị lên án là tay sai, hèn nhát, và “xé rào” để thủ lợi.
Thời
gian gấp rút, đã gần đến giờ báo lên khuôn, sáu mắt nhìn nhau, bản Tuyên Cáo được
đẩy về phía tôi. Anh Lục nói: “Anh vào bàn Anh Sung, đóng cửa lại cho kín đáo
và yên tĩnh để viết”. Tôi không làm theo, ngồi ngay xuống cái ghế cạnh bàn viết
gần cửa, hối hả viết. Mới viết được vài trang để trước mặt, một anh ký giả trẻ
từ ngoài bước vào, chộp mấy trang bài của tôi, cắm đầu đọc, miệng hỏi lấy lệ
“ông viết cái gì đấy?” Trước thái độ có vẻ kém lịch sự, nhưng đang cố viết cho
xong, tôi không nói gì. Xong việc, anh Lục rầy rà: Tôi đã nói vào phòng anh
Sung viết cho kín đáo, anh không nghe. Anh ký giả đó là tay trong của cảnh sát,
có nhiệm vụ báo cáo mọi việc trong toà soạn, để đổi lấy tình trạng hợp lệ quân
dịch. Tôi vẫn coi thường, nói mình viết bài đăng lên báo cho mọi người đọc, có
âm mưu gì đâu mà phải bí bật.
Đúng
như dự trù. Chiều hôm đó, Chính Luận cũng bị tịch thu như các báo đăng nguyên
văn Tuyên Cáo. Và đúng như sự lo xa của anh Lục, cả ba chúng tôi đã bị bắt. Đến
bây giờ, có lẽ anh ký giả này vẫn chưa biết việc làm của mình khiến ba người
vào tù. Nay, các anh Lục và Dương đều không còn nữa, riêng tôi không bao giờ,
dù chỉ trong lòng, oán trách anh ký giả này, nghĩ rằng anh không chủ tâm hại
ai.
(coi
tiếp phần II)
No comments:
Post a Comment