Hạ Mai
Viet Studies 23-2-2015
Trần
Đức Thảo và những va đập hiện thực nghiệt ngã
(Qua
cuốn sách “Trần Đức Thảo – những lời trăng trối”)
Hạ
Mai
Trần
Đức Thảo thuộc “thế hệ vàng” trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự
nghiệp của ông gắn liền với những bàn luận, tranh cãi mâu thuẫn, thậm chí đối lập
nhau.
Năm
1951, để lại đằng sau kinh thành Paris hoa lệ, chọn đứng về “phe nước mắt”, quyết
định trở về nơi chiến tranh và cách mạng đang diễn ra cuồng nhiệt, nóng bỏng đến
độ trần trụi, hy vọng tìm thấy một con đường cho triết học cũng như thực tại,
có lẽ Trần Đức Thảo không bao giờ tưởng tượng ra rằng, hiện thực không giàu chất
thơ và sự dã man của chính trị là khôn cùng…
1-
“Tai bay vạ gió” vì khát vọng
Khi
Trần Đức Thảo trở về Việt Nam qua ngả Trung Quốc, một cán bộ giỏi cả tiếng Quảng
Đông và Quan thoại là Trần Lâm được cử đi đón ông. Dọc đường, hai người thường
xuyên tâm sự và trở nên thân thiết như anh em. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ và
“bàn giao” Trần Đức Thảo cho “cấp trên”, Trần Lâm nhận được yêu cầu phải báo
cáo tỉ mỉ, chính xác, không thiếu dù chỉ một chi tiết nhỏ toàn bộ những gì hai
người đã trao đổi lúc đi đường. Hy vọng có thể làm cho cách mạng chú ý tới tài
năng và trọng dụng Trần Đức Thảo, Trần Lâm thành thật nhận xét Trần Đức Thảo
“là người có học thức, có trình độ suy nghĩ cao, rất có tinh thần yêu nước, có
lý tưởng trong sáng, rất mong được phục vụ cách mạng”[1]. Đánh giá cao
Trần Đức Thảo, Trần Lâm khẳng định đây là người luôn “ao ước được góp tim, óc để
xây dựng một cuộc cách mạng huy hoàng ở quê hương, để có thể làm một mẫu mực
cho các nước đang tranh đấu giành độc lập cho Tổ quốc và dân tộc của các nước bị
trị”[2].
Bản
báo cáo ấy được mang đọc cho cố vấn Trung Quốc, “các đồng chí cố vấn” ghi vào
đó cảm nghĩ rồi hỏa tốc gửi về Trung ương. “Trung ương” không chỉ không hài
lòng vì “một kẻ chưa hề sống với cách mạng một ngày mà dám mưu tính về dạy người
của cách mạng làm cách mạng”[3], mà còn nêu
nghi vấn Trần Đức Thảo có thể “là người do thực dân gián tiếp đưa về, là một thứ
siêu gián điệp trí thức mà thực dân mưu toan cài vào hàng ngũ cách mạng”[4].
Kết
quả là khát khao xây dựng “một mô hình cách mạng hoàn chỉnh, trong sáng và nhân
đạo mà cả loài người chờ đợi”[5] của Trần Đức
Thảo bị quy là “ý đồ chính trị độc hại!”. Thay vì đưa Trần Đức Thảo về trường Đại
học ở Khu Tư, người ta lệnh đưa ông về An toàn khu ở gần Trung ương để dễ bề kiểm
soát.
Một
ước mơ nhân bản có phần mộng mị được rưới thêm một chút nước sốt ca ngợi đầy
thành ý của Trần Lâm thoắt cái đã biến thành sợi dây oan nghiệt, thít chặt một
cách không thương tiếc cuộc đời và số phận triết gia tài danh. Trần Đức Thảo
chua chát kết luận: “Sự nghi ngờ của lãnh đạo khi đi xuống tới cấp thừa hành
thì nó đã trở thành một xác định”[6]. Ông chỉ còn
được phân làm mấy việc vớ vẩn như dịch những tài liệu cũ kỹ vô tác dụng, hoặc
được cử theo chân một vài phái đoàn thanh tra Trung ương như một vật trang trí.
Trần Đức Thảo biết rằng mình đã bị biến thành thứ tô điểm, trang hoàng, quảng
bá để bên ngoài nhìn vào tưởng chế độ “có nền tảng đoàn kết quốc gia và dân chủ
rộng rãi”[7]. Ông buộc phải
đi tiếp con đường đã chọn nhưng với hình hài “bù nhìn đứng giữa ruộng dưa”.
Bằng
một cú hích tàn nhẫn, hiện thực đã kéo triết gia đang lơ lửng trong những khát
vọng đem “hiểu biết đúng” của mình, đem ánh sáng tinh thần lành mạnh, sâu sắc
nhen góp cho sự tiến bộ của đất nước, buộc phải đặt chân xuống mảnh đất bỏng rẫy
than hồng, lởm chởm gai góc và đá tai mèo sắc nhọn. Từ đây, trên mảnh đất ấy,
dù không là kẻ tuẫn nạn, song mỗi bước chân ông đi đều rớm máu. Ông bắt đầu lờ
mờ hiểu ra rằng, nhân tài không thể và không bao giờ có chỗ đứng trong vương quốc
tôn thờ chủ nghĩa độc quyền chân lý.
2-
Chủ nghĩa lý lịch và thói dối trá
Chưa
hết bàng hoàng bởi cú sốc vì mộng ước “hoàn toàn tan vỡ ngay từ đầu khi chưa đặt
chân trở lại mảnh đất quê hương”[8], Trần Đức Thảo
đã phải đối diện ngay với một thứ chủ nghĩa man rợ - chủ nghĩa lý lịch.
Trở
về từ trời Tây, chân ướt, chân ráo xuống tới Nam Ninh (Trung Quốc), Trần Đức Thảo
được một cán bộ quân sự tên Hùng tới hướng dẫn làm hồ sơ trước khi “hành quân”
về nước. Cầm trên tay bản “Tự khai”, “Trích ngang”, bộ óc triết học
nổi tiếng thông tuệ bỗng đông cứng, chuyển từ trạng thái choáng váng sang kinh
hoàng, lo sợ. Nếu như bản “Trích ngang” rối rắm có 15 cột[9] cùng khá nhiều
nội dung vô nghĩa, vô giá trị đối với phẩm giá và nhân cách con người, thì bản
“Tự khai” thực chất là một văn bản phản giá trị khi nó yêu cầu “đánh
giá, tố cáo tất cả mọi người thân thích từ mấy đời trong đại gia đình bao quanh
mình”[10].
Khó
có lời lẽ, ngôn từ nào có thể diễn tả được tâm trạng rối bời và hoảng loạn của
Trần Đức Thảo lúc đó. Những câu hỏi nhức nhối cứ quay cuồng trong đầu óc triết
gia: Có thật sự cần thiết phải phán xét công tội đối với cách mạng của cả bố mẹ,
ông bà nội ngoại, anh em họ hàng…? Liệu có người nào đó muốn bao che cho bố mẹ,
họ hàng? Liệu có thể lợi dụng tố giác để làm hại người mình ghét?
Những
giải thích mang tính “khai trí” cho Trần Đức Thảo của người cán bộ tên Hùng khiến
ông bất ngờ và sửng sốt: Phán xét là “cách chứng tỏ mức độ giác ngộ cách mạng của
mình. Nó giúp cách mạng đánh giá bản thân người khai”[11];
“vì ai cũng muốn tỏ lòng thành với cách mạng, nên có khi họ còn cố khai khống
lên là có bố mẹ, ông bà là thành phần phản động để có cơ hội lên án, để tỏ vẻ
là mình đã khai rất thành khẩn!”; “cách mạng bảo mình khai thế thì cứ thế mà
làm. Còn chuyện lo ngại làm hại người khác, hay lo có thể khai gian dối v v…
thì để cách mạng xét. Ta đã theo cách mạng, theo “đảng” thì để “đảng” suy xét hộ
ta”[12].
Chỉ
bằng bấy nhiêu lời lẽ, một cách vô tình, không trực tiếp, người cán bộ tên Hùng
đã chạm tới tầng sâu bản chất sự việc, “hồn nhiên” gọi tên, chỉ mặt những tha
hóa đạo đức sinh ra từ những lề luật, những quy tắc vụn vặt song lại có sức nặng
ngàn cân để nắm lấy, kiểm soát và kiềm tỏa từng con người. Ẩn đằng sau thứ chủ
nghĩa lý lịch mà Trần Đức Thảo hoàn toàn xa lạ là một thực tại nham nhở đến đau
đớn, hãi hùng: Thói gian dối, đạo đức giả, thói a dua, hèn hạ đạp lên quá khứ,
chối bỏ nguồn cội, phản bội chính mình…tất cả chỉ để được “cách mạng” ưu ái hoặc
thậm chí chỉ để được yên thân.
Bứt
khỏi căng thẳng và ngột ngạt, con người lý tính trong Trần Đức Thảo lên tiếng đối
thoại với chính mình: “Trong thâm tâm ta có thấy bố ta đáng bị lên án là kẻ làm
“tay sai cho Pháp” hay không?”; “Cảnh giác cách mạng buộc ta phải chơi trò dối
trá?”; “Cứ nói dối như mọi người thì có lợi cho ta không? Thì ta có còn là ta
không?”[13].
Tư duy, luận giả một cách logic, chặt chẽ, gẫy gọn, con người lý tính kết luận:
“Khai và lên án bố thực ra là đã nói dối, mà là nói dối với chính ta! Dù đây là
một sự nói dối bắt buộc nhưng vẫn là nói dối, dù cho cách mạng muốn vậy, bắt phải
làm như vậy!”; “khai khống như vậy là cách mạng dạy ta xảo trá!”[14].
Cuối
cùng, bất chấp lời khuyên “phải lên án mạnh mẽ cha mẹ họ hàng đã từng đi theo
phong kiến, chạy theo thực dân!” của người cán bộ tên Hùng, con người đạo đức
trong Trần Đức Thảo quyết định không đi theo lối mòn của đám đông nhút nhát được
chăn dắt. Dù biết rằng mình đang làm một điều cực kỳ nguy hại cho bản thân, bước
vào con đường chông gai mà tất thảy mọi người đều muốn tránh, Trần Đức Thảo vẫn
dứt khoát không “bắt đầu bằng thái độ cúi đầu nói dối, khai man”. Bản “Tự
khai” của Trần Đức Thảo được viết ra với tất cả tấm lòng thành thật, khai
đúng những gì ông biết, ông nghĩ, ông tin, không núp dưới mác “giác ngộ cách mạng”
mà lừa dối chính mình, mà “xỉ vả ông bà, cha mẹ” - những người, như Trần Đức Thảo
giải thích, “đã dạy tôi nên người lương thiện, yêu nước, yêu đồng bào, yêu Tổ
quốc…”[15].
Thay
vì khai lý lịch theo kiểu tỏ ra “giác ngộ cách mạng”, Trần Đức Thảo viết một bản
“Tự bạch” - một bài luận kín bốn trang của tờ đôi vở học trò, giải thích
sự thành thực của mình, nêu rõ quan điểm không thể nhắm mắt lên án quá khứ chỉ
vì chưa có ý thức cách mạng. Ông phân tích: “Thời đó tổ tiên dân tộc đã biết tạo
ra bao nhiêu thế hệ sống lương thiện, biết xây dựng những con người dũng cảm,
đã biết tạo dựng và biết bảo vệ non sông gấm vóc, Tổ quốc vinh quang… mà ngày
nay không ai có thể chối bỏ dĩ vãng lịch sử, chối bỏ non sông gấm vóc và Tổ quốc
này”[16].
“Tổ
chức” quyết định gửi hồ sơ của Trần Đức Thảo về Trung ương với dòng chữ:
“Hồ sơ chưa hoàn tất vì lý do đặc biệt, đang chờ Trung ương cứu xét”.
Còn đang trong nghi án “siêu gián điệp trí thức” lại mắc thêm cái tội “ngoan cố,
cứng đầu”, không chấp nhận khuôn mặt ma quái của “giác ngộ cách mạng” theo lối
“nói và làm đúng theo yêu cầu của cách mạng”[17],
số phận của Trần Đức Thảo coi như đã được định đoạt. Sau cơn địa chấn với “giấc
mơ vỡ vụn”, hiện thực tàn nhẫn lạnh lùng phóng tay châm lửa thiêu cháy rụi chút
hy vọng mong manh còn sót lại nơi triết gia đã đánh cược đời mình hòng thắp lên
những tư tưởng đúng với lương tri, thấm đẫm sự thật.
Thoát
ra khỏi vòng xoáy gọt mình dối trá để đáp ứng “Tổ chức”, song Trần Đức Thảo đã
không thoát khỏi những cái vòi bạch tuộc bền bỉ, dai dẳng quấn chặt, trói buộc
từng cá nhân, không thoát khỏi cỗ máy xay cần mẫn nghiền nát rồi nhào nặn, đúc
khuôn những hình hài, buộc chúng phải thuộc về và lẫn trong đám đông, không đi
chệch đám đông và không đi xa hơn đám đông. Định mệnh đã an bài cho ông một con
đường đau khổ chỉ vì ông có chính kiến, có tư duy độc lập và phê phán. “Cách mạng”
không cần những đầu óc độc đáo, những góc nhìn tỉnh táo, những tâm hồn mạnh mẽ.
“Cách mạng” cần “nghe” và “thực hiện” hơn là “sáng tạo” và “phản biện!
Tuy
nhiên, đó vẫn chưa phải là tất cả. Hiện tại nghiệt ngã vẫn chưa thôi cười cợt
nhà Hiện tượng học uyên bác về lý luận, nhưng lại ngây thơ, cả tin trong thực
tiễn. Vị đắng dằn vặt, day dứt, chua xót nhấn chìm nội tâm vẫn còn ở phía trước…
3-
Con sóng dữ cải cách ruộng đất
Có
lẽ một trong những sự kiện để lại dấu ấn nặng nề nhất trong ký ức và tâm khảm
Trần Đức Thảo là cuộc cải cách ruộng đất theo mô hình thổ cải của Trung Quốc mà
ông buộc phải tham gia và trở thành chứng nhân bất đắc dĩ.
Ngay
từ hôm đầu tiên tiếp xúc với những từ “lạ tai” như “bắt rễ”[18],
“xâu chuỗi”[19]
trong công việc của đoàn cải cách ruộng đất tại Chiêm Hoá (Tuyên Quang), ở Trần
Đức Thảo đã nảy sinh những thắc mắc về đạo lý, công lý. Ông nhận thấy ngay rằng,
phương pháp cải cách này là kết quả của tư duy méo mó được Lenin và Mao tùy tiện
khai triển, đẩy nó đi xa một cách hết sức nguy hiểm so với những gợi ý đấu
tranh giai cấp của Marx.
Theo
như Trần Đức Thảo mô tả, cải cách ruộng đất được chia thành nhiều “công đoạn”
khác nhau, từ “động viên, giáo dục bần cố nông” tức là dạy cho họ biết “hạch tội,
trừng trị”, thậm chí bịa tội cho giai cấp được coi là từng “cưỡi lên đầu lên cổ”,
“bóc lột, hành hạ, đánh đập bần cố nông từ đời này qua đời khác”, cho đến dám
đưa tay đấm thẳng vào mặt những “kẻ thù giai cấp” ấy. Trần Đức Thảo nhận xét:
“Sự thành công của công tác cải cách ruộng đất tùy thuộc vào tài tổ chức, động
viên và huấn luyện bần cố nông thành những nhân chứng luận tội nhân dân,
để nhân dân biết vùng lên tiêu diệt giai cấp đã bóc lột họ”[20].
“Tài tổ chức, động viên và huấn luyện” ở đây được hiểu là “tài” kích động tinh
thần bần cố nông, là “tài’ sử dụng phương pháp kích thích hận thù để họ có ý
chí căm thù cao độ, biến hận thù thành hành động, thẳng tay trừng trị, tiêu diệt,
đòi xử tử “những tên nặng tội nhất, ngoan cố nhất, có nợ máu nhiều nhất với
giai cấp bần cố nông”. Động lực kích thích bần cố nông chính là “quả thực” -
càng vạch mặt chỉ tên cũng như trừng trị được càng nhiều thành phần phản động
thì càng tịch thu được nhiều của cải, ruộng đất, nhà cửa và họ càng được chia
nhiều những thứ tịch thu được. Bằng cách ấy, “người cách mạng” chẳng những
không bài trừ cái xấu, cái hủ lậu như sứ mệnh họ hằng tuyên truyền, mà còn góp
phần cài cấy những mầm mốc độc ác, dối trá, thậm chí “bón thúc”, ươm trồng để
chúng nảy nở, sinh sôi.
Bệnh
quan liêu, thành tích, thờ ơ, vô cảm đã xuất hiện ngay từ ngày ấy khi để hoàn
thành nhiệm vụ, người ta đã “đôn” những hộ nông dân có vài mẫu ruộng đủ ăn lên
thành phú nông. Với “nỗ lực” của đội cải cách, ở cái làng quê nghèo xác xơ
quanh năm ăn độn, dân thưa thớt, ruộng đất phân tán, chen lấn quanh núi rừng,
người ta cũng đã “lôi” ra được sáu địa chủ, trong đó có một bà cụ tuổi ngoài
sáu chục, là mẹ bộ đội đóng lon trung úy của “Trung đoàn Thủ đô”.
Sau
một tuần lễ chuẩn bị, phiên toà đấu tố được tổ chức vào khoảng hai giờ trưa, tại
sân gạch lớn của đình làng dưới trời nắng chói chang với la liệt biểu ngữ lên
án “bọn” trí, phú địa hào, quy “chúng” là “tàn dư phong kiến, thực dân, là kẻ
thù của giai cấp công nông, là kẻ phá hoại xã hội, là kẻ nối giáo cho giặc…”[21].
Bàn chủ toạ được đặt phía trong đình làng, trên sân là một cột cờ cao sáu thước
và một hàng cọc tre dành cho tội nhân. Ngay bên trái đình là một mô đất nâu sậm
mới đắp cùng một hàng cọc khác có tấm bảng ghi dòng chữ: “Trường bắn”. Toàn bộ
khung cảnh của phiên tòa ngay từ đầu đã sặc mùi tử khí. Giữa thanh thiên bạch
nhật và cái nắng gay gắt, bầu không khí chợt trở nên u ám, ngột ngạt, đặc quánh
sợ hãi.
Cuối
cùng phiên tòa cũng bắt đầu. Trước đám “bần cố nông” nói cười ồn ào “bồng bế
nhau đi coi xử tội địa chủ”, một toán “thanh niên và nhi đồng cải cách” được dẫn
vào và bắt đầu thực hiện công tác tuyên truyền “tạo không khí cách mạng”. Sau
màn lấy khí thế gồm có hô khẩu hiệu chen lẫn vỗ tay ca hát và sau màn chào cờ
long trọng là đến phần chính của “phiên toà cải cách”. Ba tiếng trống thình
thình, rờn rợn là hiệu lệnh cho một cuộc “nồi da xáo thịt” vừa mang sắc thái
trung cổ, vừa đậm đặc màu sắc “thổ cải” Trung Hoa.
Có
lẽ cái ngày định mệnh đó đã chém một nhát sâu đau đớn vào tinh thần của Trần Đức
Thảo, trở thành nỗi ám ảnh đằng đẵng đeo bám, nên ông đã nhớ ghi gột đến từng
chi tiết. Sau nhiều năm, qua mô tả của Trần Đức Thảo, nỗi ám ảnh ghê rợn ấy lại
hiện ra sừng sững, vừa đóng vai nhân chứng, vừa đóng vai quan tòa: “Kẻ thù giai
cấp” quần áo xốc xếch vương vết bùn, máu bị buộc thành một chuỗi bởi những khúc
dây thừng to vòng quanh cổ được mang ra cho đám đông ngu muội, cuồng nộ và quá
khích hành hạ bằng báng súng, cùi chỏ và những lời buộc tội ngô nghê, mơ hồ
theo lối mớm cung, ngụy tạo. Nạn nhân bị vu cáo những tội lỗi giời ơi từ trên
trời rơi xuống, bị đánh đập, bị vả vào mặt theo cùng một cách đã được huấn luyện.
Không có văn bản điều tra, không có một điều luật nào được viện dẫn để lấy đó
làm cơ sở buộc tội - lần đầu tiên trong đời, Trần Đức Thảo chứng kiến một
“phiên toà” lạ lùng đến vậy với sự đánh đập thô bạo tới mức khủng khiếp. Một ý
nghĩ lướt nhanh qua đầu ông: “Đây là một trò hề công lý chứ có luật lệ gì
đâu!”.
Thật
vậy, trong sáu kẻ bị đấu tố có lẽ chỉ có tên lý trưởng là gian ác, còn lại thì
đều bị oan, đều là người dân hiền lành. “Tội” của họ chỉ là có chút của ăn, của
để, mà thứ “của ăn, của để” ấy có được cũng là nhờ vào lao động vất vả[22].
Kết
thúc “phiên tòa”, các tội nhân bị tuyên tử hình, bị tịch thu toàn bộ tài sản để
chia lại cho nhân dân trong xã. Mặc dù làm dữ như vậy song cuộc đấu tố vẫn bị
đánh giá là “không thành công”, là “một phiên xét xử không đạt tiêu chuẩn về mọi
mặt”. Nguyên nhân sai sót được “cán bộ cố vấn” chỉ ra là do “không ai hiểu rõ
được mục tiêu của phiên toà” - kết án tử hình mấy tên phản động, phản cách mạng
ấy chỉ là chuyện nhỏ, chúng có thể bị xử tử, xử bắn một cách dễ dàng, bất cứ
lúc nào mà không cần triệu tập đông đảo nhân dân đến chứng kiến. Vấn đề là ở chỗ
phải dứt khoát biến “quần chúng nhân dân” thành “quần chúng cách mạng”. Vì thế,
“phải xử sao cho quyết liệt, sao cho gây chấn động trong từng cái đầu (…). Phải
xử sao cho có khí thế để phát huy uy quyền của bạo lực cách mạng trong đầu mọi
người (…). Phải chứng tỏ bạo lực cách mạng là dứt khoát, không gì lay chuyển nổi!”[23].
Vì mục tiêu ấy, phiên tòa được quyết định mang ra xử lại cho thật có khí thế,
“trừng trị mấy tên phản động ấy cho thật ròn rã, vang dội, để dập tắt mọi tư tưởng
phản động trong đầu quần chúng. Phải làm cho tư tưởng phản động, phản cách mạng
không bao giờ có thể bùng lên trong đầu mỗi con người. Họp phiên toà để xử án
là vì quần chúng! Xử tử bọn phản cách mạng là để giác ngộ tập thể!”[24].
Kết
luận chắc nịch như đinh đóng cột, như dao chém đá của “đồng chí cố vấn” Trung
Quốc dẫn đến một phiên xử lại được sắp đặt kỹ lưỡng từng chi tiết vào buổi đêm
ba ngày sau đó – một phiên tòa nghiêm trang và áp đảo hơn phiên trước với phần
hạch tội dữ dội hơn, số nhân chứng đứng ra kể khổ, kể tội đông hơn, thuộc bài
hơn và tỏ ra hung hãn hơn. Đây thực sự là một cuộc biểu dương lực lượng rầm rộ,
uy hiếp tinh thần đúng theo khẩu hiệu “Quyết tâm tiêu diệt tàn dư phong kiến,
thực dân!”.
Phán
quyết từ hình tất cả sáu tội nhân được thi hành ngay tại chỗ trước một bãi đông
nghẹt người trong đêm lờ mờ ánh trăng, dưới ánh lửa bập bùng ma quái của những
bó đuốc. Thời gian như ngưng lại. Và rồi…loạt súng nổ vang dội làm rung chuyển
cả núi rừng trong phút chốc đã biến sáu mạng người thành những cái xác không hồn.
Ngay
từ những buổi đầu được giao nhiệm vụ “bắt rễ” với một gia đình bần cố nông, Trần
Đức Thảo đã nhận thấy ngay tình thế vừa nguy nan, vừa khôi hài, tiến thoái, lưỡng
nan mà ông rơi vào. Tình thế đó khiến Trần Đức Thảo từng cười như nổi cơn điên
rồi lại tủi phận mình mà bật khóc, rồi lại cười đến tràn nước mắt. Ông đã có những
giấc ngủ không yên, tâm thần ngày càng suy yếu, mộng mị, hoảng hốt như chính
mình là bị cáo trước một thứ toà án không luật lệ, không công lý. Cảnh xử bắn
hãi hùng bồi thêm một đòn chí mạng, chực làm Trần Đức Thảo gục ngã. Những phát
súng chát chúa của phiên tòa hôm ấy như bắn vào chính thân xác ông, “vĩnh
viễn đập tan tành giấc mộng trở về góp công sức xây dựng một mô hình cách mạng
mà nhân loại trông chờ”[25].
Mặc cảm đồng lõa với tội ác hành hạ Trần Đức Thảo, gay gắt, quay cuồng chất vấn,
đòi ông “phải tỏ thái độ, phải có lập trường rõ rệt; không thể im lặng a dua đồng
loã một cách mù quáng”[26].
Từ giờ phút ấy, Trần Đức Thảo “ý thức rất rõ rằng, lúc này, ở nơi đây, mình sẽ
không có một cơ hội nào để góp một chút gì tốt đẹp cho cách mạng”[27].
Thực
tại tàn nhẫn đặt cho Trần Đức Thảo những câu hỏi hết sức hóc búa: “Có thể nào cản
ngăn được thứ bạo lực thô bạo này, khi nó đang trong đà phát động với tất cả
hăng say, cuồng nộ, cuồng tín như thế?”; “Tất cả những gì đang làm kia có thật
là để cải tạo xã hội, giải phóng con người hay không?”; “Để cái ác cứ tiếp tục
phát triển như nó vẫn được khai triển trong suốt chiều dài lịch sử?”; “Một ý thức
hệ không bảo vệ được người vô tội thì có còn lý do để tồn tại hay không?”[28]...
Rõ ràng, phải hết sức nguỵ biện mới chứng minh được rằng, “thiên đường xã hội
chủ nghĩa có thể xây dựng bằng phương pháp giả dối”[29].
Như thế, triết gia đã mắc kẹt vào tình thể dở cười, dở khóc: Giữa một bên là lý
tưởng, là lý luận biện chứng mạch lạc và một bên là thực tiễn cách mạng đầy sai
trái, thô thiển, cổ lỗ, tăm tối, mâu thuẫn, thô bạo như ở thời sơ khai, man rợ.
Có
một điều đáng lưu ý là trong tối tăm, tuyệt vọng vẫn có một khoảng sáng huyền ảo
khiến Trần Đức Thảo càng thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình trước hiện tại.
Đó là nhận thức của một bộ phận người nông dân thể hiện qua suy nghĩ của một cá
nhân cụ thể - bần cố nông Lê Tư. Cái cách mà người nông dân này đóng kịch giả
câm, giả điếc, trốn tránh để không phải trở thành “bần có nông nổi dậy” (đội
viên cải cách) đứng lên tố đấu tố nhà giàu trái với luân thường, đạo lý đã lay
động những suy nghĩ của Trần Đức Thảo. Lý luận của một bần cố nông hết sức đơn
giản, không cao siêu, rắc rối, không biết đến những khái niệm trừu tượng, siêu
hình song lại hết sức thuyết phục, vì nó chính là những giá trị nhân bản truyền
thống luôn tàng ẩn trong tiềm thức mỗi con người. Nó là đạo lý giữa con người với
con người được gieo trồng, vun đắp qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử người Việt
- một bản năng hiền hòa, một thứ lương tri tự nhiên của đạo làm người: “Sống hiền
lành để phúc cho con”, “trời có mắt, trời quả báo”, “sống gian ác trời không
dung tha”, “đời này mình không phải trả thì đến đời con, đời cháu mình chúng sẽ
phải trả”….
Nhận
thức rằng, bạo lực, hận thù, máu và nước mắt của nhân dân không thể đặt nền
nóng cho một xã hội lý tưởng, không thể tạo nên một trật tự ổn định, Trần Đức
Thảo cho rằng phải xem xét lại toàn bộ các vấn đề bắt đầu từ học thuyết, trên một
nguyên tắc đơn giản, khoa học: Gột rửa tâm thức giáo điều sùng bái ý thức hệ một
cách lố lăng, vứt bỏ trò chơi dân chủ giả hiệu, trả lại quyền dân chủ cho dân.
4-
Lối thoát từ trong va đập hiện thực
Định
mệnh dai dẳng đeo bám và không buông tha Trần Đức Thảo, lạnh lùng khoác vào số
phận ông hai từ “oan nghiệt”.
Ít
năm sau khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, Trần Đức Thảo vướng vào kỳ án “Nhân
Văn - Giai Phẩm”. Hưởng ứng việc giới văn nghệ muốn thoát ra khỏi chế độ quản
lý theo kiểu trại lính, đòi “trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ”, Trần Đức Thảo
có hai bài viết bàn về dân chủ, tự do đăng trên tờ Nhân Văn và Giai
Phẩm Mùa Đông. Bị quy cho “tội danh” âm mưu chống Đảng, Trần Đức Thảo
bị cấm giảng dạy, rồi bị bắt. Được thả về, sống trong cô đơn và điều kiện vật
chất hết sức ngặt nghèo, chịu đựng ánh nhìn ghẻ lạnh của những người xung
quanh, song Trần Đức Thảo không đầu hàng nghịch cảnh. Trong cơn xoay vần của số
phận, tố chất triết gia, tư duy triết học đã giúp Trần Đức Thảo nhìn nhận những
bể dâu cuộc đời, những vận động của xã hội và thời cuộc quanh mình như một dịp
may sống động để trải nghiệm, để tìm hiểu, để lý giải hướng vận hành, cách thức
vận hành của cách mạng và xã hội.
Thực
hiện công cuộc nghiên cứu thực tại ngay ở hiện trường với tư cách “người quan
sát” từ bên trong (chứ không phải là người nhập cuộc), ở vị trí đứng ngoài quyền
lực, Trần Đức Thảo tỉnh táo phát hiện những điểm thắt, những nút nghẽn của cơ
chế chính sách, những căn bệnh trầm kha của xã hội. Như trong một phòng thí
nghiệm lớn, trước một hiện trường tâm lý - xã hội phong phú, đa dạng, Trần Đức
Thảo chăm chú theo dõi những chuyển biến ở con người, xã hội trên bước quá độ của
cuộc cách mạng vô sản, hiểu những khát vọng, những ước mong thầm kín của họ,
nhìn thấy những bế tắc xã hội. Trần Đức Thảo phân tích chủ nghĩa ngu tín
(obscurantisme), cuồng tín (fanatisme), tình trạng con người bị nô lệ hoá, có mắt
như mù, có đầu mà mất lý trí đang trở nên phổ biến, phân tích mối tương quan giữa
hữu sản với vô sản, quan hệ giữa con người hữu sản và con người vô sản, phân
tích vấn đề xoá bỏ hay không xóa bỏ giai cấp… Những phân tích như thế cho phép
ông khám phá xu thế mà xã hội đang tiến tới.
Để
lý giải, Trần Đức Thảo vẽ một sơ đồ phát triển, từ sự hình thành của ý thức tới
khả năng truyền thông, lý luận, rồi đẩy lý luận qua thực tại bước tới một giai
đoạn tư duy đa chiều, díc dắc. Sơ đồ ấy cho phép ông nhận biết những bước sai lầm
trong phương pháp tư duy dẫn tới lệch lạc trong hành động, trong chính sách, dẫn
tới cách thức hành động tùy tiện và phương hướng phát triển phiêu lưu, không tưởng,
thiếu nền tảng vững chắc. Như vậy, bước đầu Trần Đức Thảo đã “phác họa lộ trình
quá độ hình thành sai lầm trong tư duy sơ đồ toàn cảnh của sự vận động hình
thành con người qua những hoàn cảnh biến đổi của vũ trụ và của xã hội”[30].
Ẩn dấu dưới dáng vẻ cũ kỹ, có chút lập dị, lúc nào cũng ngơ ngác trước cuộc đời
tầm thường là hứng khởi khám phá, là sự say mê đến sôi sục và sự không ngần ngại
lao mình vào công cuộc nghiên cứu của một nhà triết học. Nguồn cảm hứng khoa học
bất tận làm mạnh mẽ thêm nghị lực của Trần Đức Thảo, rót luồng năng lượng vào
trí tuệ vốn đã mẫn tiệp của triết gia khiến nó càng thêm thông tuệ. Trên quan
điểm “những gì xuất hiện trong hiện tại đều có gốc rễ từ quá khứ”[31],
Trần Đức Thảo kiên trì lật từng lớp đất đá kết tụ qua thời gian đi tới tầng sâu
bản chất, sáng tạo lý thuyết “hiện tại sống động”, không mệt mỏi kết nối quá khứ
- hiện tại để nhận thức hiện tại và dự báo tương lai.
Tiếp
cận thực tại đầy mâu thuẫn trong xã hội đã thức tỉnh Trần Đức Thảo, khiến ông
kiên trì phân tích thấu đáo những sự vật, hiện tượng đang diễn ra. Tin tưởng ở
khả năng tư duy mới mẻ, Trần Đức Thảo đơn độc đi tìm thủ phạm của thảm kịch thời
đại, mang trên vai cây thập giá đời những mong hoàn thành mục tiêu phác thảo lớp
lang một cuốn sách vĩ đại đã và đang chiếm lĩnh, ám ảnh đầu óc ông cho tới lúc
nhắm mắt xuôi tay.
*
* *
Là
chứng nhân bao lở bồi, đổi thay, sống trong hiện thực đau xót với những sai lầm
về chính trị, kinh tế, văn hóa kéo dài, song Trần Đức Thảo luôn có một niềm tin
vững chắc rằng, “trong lịch sử, luôn luôn có sự vùng dậy của chân lý và lương
tri”[32]
và “những tư tưởng đúng với lương tri, thấm nhuần thực tại đều có sức mạnh của
sự thật”[33].
Từ thất vọng đến nhìn thấu hiện thực dưới lăng kính triết học, đến cuối cuộc đời,
dù cô đơn và bệnh tật, ông vẫn luôn tự đặt cho mình nhiệm vụ tìm kiếm, vẽ nên một
mô hình xã hội lý tưởng và hoàn bị. Đó là mô hình tràn ngập “tinh thần và lý tưởng
dân chủ của một nền công bằng xã hội chân chính”[34],
con người thể hiện rõ quyền sống, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình. Ở đó,
“con người sẽ khai triển một cuộc cách mạng lý tưởng bằng lương tri, trí tuệ, bằng
luật pháp nghiêm minh với sức mạnh của công lý, công bằng chứ không phải bằng bạo
lực của hận thù”[35].
Mô hình xã hội ấy, như Trần Đức Thảo giải thích, “do hiện thực xã hội đòi hỏi
và đặt nền tảng”, một nền tảng duy vật sử quan; đồng thời, những vấn đề nhân bản,
công lý và dân chủ sẽ được chú trọng, duy trì bằng cơ chế ưu tiên kiểm soát quyền
lực với những cơ sở lý luận và pháp lý phát huy tính thiện, kiềm chế tính ác
trong mỗi con người, giúp con người đạt tới công bằng, bác ái, tự do và hạnh
phúc thật sự. Đó cũng là nội dung cuốn sách mà ông thôi thúc muốn viết ra để trả
món nợ cho triết học, cho dân tộc và nhân loại.
Trần
Đức Thảo đã ra đi về với cát bụi, ôm nỗi ân hận “hoàng hôn đi qua cả một cuộc đời”
và ước nguyện viết sách của ông vẫn còn dang dở. “Lý thuyết hiện tại sống động”
với “lô-gích vừa biện chứng, vừa hình thức” và sự nghiệp triết học trải nghiệm
công cuộc cách mạng Việt Nam của Trần Đức Thảo còn đó như một dấu chấm hỏi mà hậu
thế liệu có mấy người có thể trả lời.
Dẫu
loài người không bao giờ theo được Thập giới của Chúa, thì Trần Đức Thảo cũng
đã đi trọn cuộc đời gió sương, bước qua vui buồn, đau khổ của cõi con người. Sự
nghiệp triết học ông để lại chắc chắn sẽ có một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử,
như cỏ thơm còn mãi với thời gian.
[1] Tri Vũ – Phan Ngọc
Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa
Kỳ, 2014, tr.92.
[9] Trần Đức Thảo mô tả:
Bản “Trích ngang” các cột ghi rõ: Họ và tên, các bí danh, ngày, tháng
năm sinh, quê quán, trình độ học vấn, trú quán, tình trạng gia đình, họ tên vợ
hay chồng, họ tên các con, đã thoát ly theo cách mạng ngày nào, đã vào đảng
ngày nào, vào đảng do ai giới thiệu, hiện đang làm nhiệm vụ gì. Ngoài ra còn có
phần Ghi chú nêu rõ: “Ghi những gì bản thân muốn khai báo thêm với cách mạng” [Trần
Đức Thảo – những lời trăn trối, Sđd, tr.107].
[10] Trần Đức Thảo viết:
Phải khai thật chi tiết từ ba đời nội ngoại trở lại hiện tại, chẳng những phải
khai cả về bên bố, bên mẹ… Rồi cũng y như thế, phải khai cả về vợ và nội ngoại
bên nhà vợ,rồi tới các con cũng với tối đa chi tiết có thể, rồi cả các bên
thông gia” [Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối,
Sđd, tr.107].
[18] “Bắt rễ” là khi tới
địa phương, đội viên phải tìm tới sống chung với một gia đình bần cố nông có
tên trong một danh sách thành phần xã hội nghèo túng, mà chính quyền địa phương
đã lập từ trước. Các đội viên phát động cải cách có nhiệm vụ động viên, giáo dục
bần cố nông, tức là dạy cho họ biết các “quyền” và “lợỉ” của bần cố nông trong
và sau khi tham gia cải cách ruộng đất, giải thích để họ hiểu về quyền và nghĩa
vụ hạch tội, trừng trị địa chủ, phú nông.
[19] Xâu chuỗi” là sử dụng
cách sống chung ấy để kết nạp, thúc đẩy và tổ chức cho bần cố nông ấy trở thành
một tổ viên thi hành cải cách, nghĩa là biết đấu tố, biết hạch tội, biết nhận một
thứ nhiệm vụ công tố y như trong một toà án. Tổ viên này sẽ đứng ra buộc tội,
lên án bọn địa chủ, phú nông, cường hào, ác bá…
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 22-2-15
con người sẽ khai triển một cuộc cách mạng lý tưởng bằng lương tri, trí tuệ, bằng luật pháp nghiêm minh với sức mạnh của công lý, công bằng chứ không phải bằng bạo lực của hận thù... Điều này ngày càng đúng, chỉ có trí tuệ mới có thể tạo nên những cuộc cách mạng của thế kỷ, của nhân loại. Bất kỳ cái sai trái nào cũng dần sẽ bị thay thế, sửa đổi, và những cái gì là sự thật, là ý nghĩa của tương lai thì sẽ được giữ gìn.
ReplyDeleteHãy mơ về tương lai, chứ đừng đấu tranh suông với nhau!