15/02/2015
TUYÊN
BỐ
Của
UỶ
BAN BẢO VỆ SỰ VẸN TOÀN LÃNH THỔ VIỆT NAM
Về
MỘT HỆ THỐNG
CĂN CỨ HẢI QUÂN MỚI
TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA &
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Bản
dịch từ Anh Ngữ của Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam
Trong
các thập niên qua, Trung Cộng đã dần dần khẳng định chủ quyền của chúng trên Biển
Đông (Eastern Sea) của Việt Nam. Trong năm 1988, Trung Cộng đã phái các lực
lượng hải quân của chúng đến xâm chiếm sáu rạng san hô tại Quần Đảo Trường
Sa. Sau đó, Trung Cộng đã xây dựng các cấu trúc kiên cố trên đó để xác định
chủ quyền của chúng. Trong Tháng Sáu 2007, Trung Cộng đã vẽ một bản đồ chữ
U bao trùm 80% diện tích Biển Đông, tuyên bố rằng vùng đó thuộc chủ quyền của
chúng. Trong Tháng Mười Một 2007, Trung Cộng đà thiết lập Huyện Hoàng Sa tại Đảo
Phú Lâm (Woody) thuộc Quần Đảo Hoàng Sa (Paracels) để quản trị các Quần Đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Đây
là một hành vi sát nhập một cách chính thức các quần đảo này vào lãnh thổ của
Trung Cộng.
Trước
sự vi phạm trắng trợn vào lãnh hải của Việt Nam bởi Trung Cộng, các lãnh đạo
ĐCSVN (VC) đã tỏ ra không mấy quan tâm đến sự bảo vệ lãnh thổ quốc gia của họ.
Không hành động tích cực nào đã được đưa ra để phòng vệ lãnh thổ. Ngược lại,
họ đã động viên toàn thể guồng máy chính quyền [bao gồm cảnh sát, tòa án, nhà
tù, nhân viên quân sự, với sự hỗ trợ của các chi bộ đảng địa phương] để đàn áp
các sự phản đối của các sinh viên đã biểu tình trên các đường phố Hà Nội và
Sàigòn để chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng
Lãnh
đạo VC càng nhượng bộ nhiểu đối với lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(TC) , thì Trung Cộng lại càng gia tăng nhiều hơn nữa các hoạt động để khẳng định
các yêu sách về chủ quyền của chúng trên Biển Đông. Trong Tháng Năm 2014 vừa
qua, Hệ Thống Căn Cứ Hải Quân Trung Cộng (HTCCHQTC) đã được thiết lập như một
bước tiến hơn nữa nhằm đạt được mục đích của của chúng: làm chủ thực sự
và duy nhất toàn thể vùng biển này.
I.
ÂM MƯU BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG CỘNG
Đầu
Tháng Năm 2014, truyền thông quốc tế loan truyền tin tức cảnh báo rằng Trung Cộng
đang xây cất một hòn đảo nhân tạo khổng lồ trên Rạng Đá Ngầm Gạc Ma (Johnson
South Reef: JSR) để biến cải toàn thể khu vực thành một căn cứ hải quân, nhằm
kiểm soát hải phận Á Châu.
Đảo
Đá Ngầm Gạc Ma là của Việt Nam. Trong Tháng Ba 1988, Trung Cộng đã
phái bốn khu trục hạm thuộc lực lượng hải quân của chúng tại đảo Hải Nam đến
chiếm đoạt đảo này, hạ sát khoảng 64 binh sĩ cộng sản Việt Nam không vũ trang
trong khi đang bơi và chuyển vận đồ tiếp tế cho các chiến hữu của họ đồn trú tại
đó để phòng thủ rạng đá ngầm này. Điều đáng nói là sau khi sử dụng các vũ
khí hạng nặng để tấn công các người đang bơi lội, lính Trung Cộng đã đến nơi
trên các tàu PT, tìm kiếm các người vẫn còn sống sót để giết họ bằng súng nhỏ.
Rạng
Gạc Ma cấu thành bởi san hô, nằm ở chóp đỉnh của chuỗi Sinh Tồn về phía Tây
Nam, và là một trong sáu đảo đá ngầm mà Trung Cộng đã cướp đoạt của Việt Nam
hôm 14 Tháng Ba.
Khu
vực này tọa lạc phía nam của Quần Đảo Trường Sa.
Vào
ngày 5 Tháng Năm 2014, Hoàn Cầu Thời Báo (Global Times) của Trung Cộng.
tiết lộ (một cách nửa bí mật) rằng “Trung Cộng đã tạo lập một hòn đảo nhân tạo
“có thể là Đảo Gạc Ma” thuộc Quần Đảo Trường Sa, trên đó có một phi trường
hải quân và một hải cảng để tiếp nhận các tàu của Trung Cộng sẽ được sử dụng để
“đáp ứng mau lẹ trong trường hợp chiến tranh”. Sau đó, một cơ quan truyền
thông khác tại Trung Cộng có nói rằng đảo Gạc Ma là một trạm cung cấp đồ tiếp
liệu cho các ngư phủ không thôi. Các văn phòng, nhà nghỉ, và các nông trại
cùng một hải cảng đủ lớn để phục vụ cho các tàu có trọng tải đến 5,000 tấn cũng
sẽ được xây dựng.
Vào
ngày 7 Tháng Sáu, 2014, từ South China Morning Post (SCMP) có tường thuật
rằng Trung Cộng đã biến đảo Gạc Ma thành một đảo nhân tạo vĩ đại. Trên
đó, phi trường hải quân, các hải cảng riêng biệt cho các tàu quân sự và dân sự
sẽ được xây dựng. Các nhà ở cho thường dân, các cơ sở du lịch cũng được dự
trù. Các tàu nạo vét đang hút cát từ đáy biển cho mục đích đó.
Vào
ngày 13 Tháng Năm, 2014, Bộ Ngoại Giao Phi Luật Tân đã tố giác rằng Trung Cộng
đang xây cất một đảo nhân tạo mang tên JSR, gồm cả một phi trường quân sự.
Trả
lời sự tố giác của Phi Luật Tân, vào ngày 15 Tháng Năm 2014, phát ngôn viên Bộ
Ngoại Giao Trung Cộng, Hoa Xuân Oánh tại Bắc Kinh đã tuyên bố rằng “Trung
Cộng có chủ quyền không tranh cãi trên vùng này, kể cả Rạng San Hô Gạc Ma; vì
thế, Trung Cộng có quyền xây dựng bất kỳ điều gì mà TC muốn làm”.
***
Trung
Cộng đã xây dựng một đảo nhân tạo khác tại khu vực Rạng San Hô Chữ Thập (Fiery
Cross Reef: FCR). Rạng San Hô Chữ Thập ở phía Tây của Đảo Gạc Ma.
Vào ngày 6 Tháng Một 2015, Tướng Gregorio Catapang Jr., Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Đội Phi Luật Tân tuyên bố: “Khoảng 50% hòn đảo nhân tạo đã được hoàn
tất … Nó được xây cất trên rạng san hô [FCR] mà Trung Cộng đã chiếm đoạt của Việt
Nam hồi năm 1988 … Đây là một điều quan ngại nghiêm trọng, bởi nó có thể được sử
dụng cho một mục đích khác hơn hòa bình …”
Một
trang mạng Phi Luật tân có tên Rappler hôm 6 Tháng Một, 2015 đã trích dân một
nguồn tin từ quân đội Phi Luật Tân nói rằng phi đạo được xây dựng trên đảo Chữ
Thập dài 2000 mét và sẽ được hoàn tất vào cuối năm.
Trong
Tháng Mười Một 2014, Tạp Chí HIS Jane Review có công bố một hình chụp bằng
vệ tinh cho thấy một phi đạo và một hải cảng trên hòn đảo đang khai hoang có chiều
dài 3 cây số và chiều ngang 300 mét.
Đối
với một chuyên viên quân sự Phi Luật Tân, không còn gì để nghi ngờ rằng phi đạo
sẽ được sử dụng cho các máy bay phản lực quân sự Trung Cộng trợ giúp vào việc đặt
toàn vùng dưới sự kiểm soát của Trung Cộng, trong khi hải cảng sẽ để tiếp nhận
các tàu tiếp tế và các tàu khác giúp Trung Cộng thực hiện các kế hoạch bành trướng
của chúng.
Các
đảo nhân tạo JSR và FCR trong HTCCHQ đã được thành hình để đáp ứng các nhu cầu
của Trung Cộng muốn bành trướng lãnh thổ xuống phía Nam.
Vì
căn cứ hải quân Trung Cộng đã được thiết lập trên đảo Phú Lâm thuộc Quần Đảo
Hoàng Sa dùng làm bộ chỉ huy cho toàn vùng có các hạn chế
và không thể đảm đương trách vụ như Trung Cộng nhắm đến, nên Trung Cộng cần
xây dựng các căn cứ hải quân xa hơn về phía nam.
Căn
cư Phú
Lâm
Văn
Phòng Bộ Chỉ Huy, Căn Cứ Phú Lâm
Kết
quả, sáu rạng đá ngầm mà Trung Cộng chiếm đoạt của Việt Nam năm 1988 là sự lựa chọn
của chúngaw
Hạn
Chế 1:
Khoảng cách từ đảo Phú Lâm đến JSR là 800 cây số. Và khoảng cách giữa đảo
Phú Lâm và Barque Canada (đảo Thuyền Chài) nằm ở điểm cực nam của Quần Đảo Trường
Sa tại vĩ tuyến thứ 3 là 1,780 cây số. Do đó, Trung Cộng không thể kiểm
soát hải phận khối ASEAN và xa hơn về phía Nam.
Hạn
Chế 2;
Kích thước của đảo Phú Lâm thì quá nhỏ để sử dụng làm một căn cứ hải quân. Diện
tích đảo Phú Lâm từ 1.3 đến 2 cây số vuông, trong khi căn cứ JSR vĩ đại sau khi
hoàn tất sẽ lớn hơn căn cứ hải quân Hoa Kỳ Diego Marcia tại Ấn Độ Dương.
Hạn
Chế 3:
Các tham vọng của Trung Cộng rất lớn. Ý đồ của chúng là muốn sáp nhập
toàn thể Á Châu vào lãnh thổ của nó. Chinh phục Á Châu chỉ là một bước tiến
trước khi di chuyển đến Phi Châu và các châu lục khác. Vì thế cần đến một
căn cứ lớn hơn.
Sau
khi căn cứ JSR được nối liền với Đảo Chữ Thập đang được xây cất và với các đảo
khác, hệ thống căn cứ sẽ trở thành một chuỗi các tiền đồn kiên cố trải dài trên
44 cây số.
Vào
lúc này, 3 hay 4 cấu trúc kiên cố đã được xây dựng từ trước trên Rạng
Vành Khăn (Mischiefs) ở về phía Đông của JSR, nằm ngoài chu vi của
HTCCHQ. Trong số đó, một số cấu trúc được nhìn thấy lớn như một khách sạn
đồ sộ được dựng lên từ mặt biển. Chuỗi các tiền đồn kiên cố sẽ hỗ trợ cho
các cấu trúc trên Rạng đá ngầm Vành Khăn để kiểm soát các tuyến hàng hải, đặc
biệt để theo dõi các tàu quân sự thuộc Hạm Đội số 7 của Hoa Kỳ di chuyển từ Ấn
Độ Dương xuyên qua Eo Biển Malacca đến vùng Đông Á dọc theo bờ biển phía Tây của
Phi Luật Tân (Xem các hình tại Phần III bên dười đây).
BẢN
ĐỒ CHỈ HỆ THỐNG CĂN CỨ HẢI QUÂN MỚI CỦA TRUNG CỘNG
HTCCHQ
được hợp thành bởi 5 hòn đảo nhân tạo dặt trên các rạng dđá ngầm kể sau: 1)
Gaven (Bãi Đá Ngầm Gaven); 2) Bãi Đá Collins (Johnson North); 3) Bãi Đá Gạc-Ma
(Johnson South Reef); 4) Bãi Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và 5) Bãi Đá Châu
Viên (Cuarteron).
CÁC
HOẠT ĐỘNG CẢI TẠO CỦA TRUNG CỘNG TRÊN NĂM BÃI ĐÁ CHIẾM ĐOẠT CỦA VIỆT NAM
Ít
nhất, tàu nạo vét Tian Jiang Hao, Nina Hai Tao và một tàu vét thư
ba đã hoạt động từ Tháng Chín 2013 đến Tháng Sáu 2014 giữa 5 rạng dá ngầm kể
trên, được hộ tống bởi tàu chiến thuộc hạng Miên Dương, có trang bị các hỏa tiễn
và các khí giới khác kể cả một tàu đổ bộ để bảo vệ.
Cuateron
Reef:
9-28 Tháng Chín 2013; 4-8 Tháng Ba 2014; 10 Tháng Tư đến 22 Tháng Năm 2014; Union
Reefs South: 17 Tháng Mười Hai 2013 đến 3 Tháng Ba 2014; Union Reefs North:
20 Tháng Ba đến 3 Tháng Tư 2014; Fiery Cross Reef: 7-14 Tháng Mười Hai
2013 và 9-17 Tháng Ba 2014; Gaven Reefs: 24 Tháng Năm đến 15 Tháng Sáu
2014
Tian
Jiang Hao,
tàu nạo vét khổng lồ của Trung Cộng, dài 127 mét. Nó có khả năng thực hiện
việc hút cát từ biển nước sâu. Nó có thể hút 4,500 tấn cát mỗi giờ.
Tian Jiang Hao là chiếc lớn nhất trong ba chiếc tàu nạo vét hoạt động
trong khu vực.
Hình
một tàu khác, hạng Giang Vệ, được trang bị các hỏa tiễn để bảo vệ cho sự xây cất,
với các tàu đổ bộ để tiếp tế có hiện diện tại các địa điểm xây cất.
CÁC
ĐE DỌA ĐẶT RA BỞI HTCCHQ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ASEAN VÀ THẾ GIỚI
Rolio
Golez, nguyên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Phi Luật Tân đã cảnh cáo rằng căn cứ quân
sự mà Trung Cộng đang xây dựng trên đảo JSR sẽ là một mối đe dọa lớn lao đối với
các nước Á Châu và Thái Bình Dương. Vào hôm 6 Tháng Mười 2014, Băng Tần
ANC của Truyền Hình Phi Luật Tân cho thấy rằng toàn thể Đông Nam Á sẽ gặp nguy
hiểm sau khi Chính Quyền Cộng Sản Trung Quốc hoàn tất sự xây dựng trái phép căn
cứ quân sự trên đảo JSR tại Quần Đảo Trường Sa với một phi đạo. Đảo JSR
thuộc về Việt Nam.
Ông
Golez đã xác nhận rằng Chính Quyền Trung Cộng muốn thay đổi cán cân quyền lực tại
Đông Nam Á xuyên qua sự xây dựng căn cứ hải quân mới. “Chính Quyền
Trung Cộng muốn củng cố quyền lực của chúng tại Biển Nam Trung Hoa và biến nó
thành hồ nước của riêng chúng. Chúng khẳng định rằng chúng sở hữu lãnh hải
hình chữ U mà chúng tự đã vẽ ra trong năm 2007. Chúng muốn sự thay đổi
quyền lực, bởi vì Hoa Kỳ đang đóng một vai trò chế ngự ở đó. Trung Cộng bắt
đầu thách đố vị thế của Hoa Kỳ …
“Căn
cứ quân sự JSR sẽ được dùng để tái tiếp tế và hỗ trợ cho các khu trục hạm của
chúng. Ngoài ra, người ta có thể nhìn thấy một phi đạo với chiều dài 1.6
cây số. Điều này rất nguy hiểm bởi đây là một căn cứ cho các máy bay quân
sự, chẳng hạn như máy bay J-11 của Trung Cộng có tầm hoạt động xa tới 3,200 cây
số. Đảo JSR là một trung tâm điểm và đường kính của khu vực lớn hơn 1,600
cây số. Chính vì thế các nước láng giêng tại Á Châu đều nằm trong tầm hoạt
động của chúng. Do đó, tất cả các căn cứ quân sự của chúng tôi sẽ bị đe dọa”.
Cựu
Đại Sứ của Phi Luật Tân, Paranaque, đã ghi nhận rằng khi căn cứ quân sự ấy
được hoàn tất, các máy bay phản lực của Trung Cộng sẽ dễ dàng tiếp cận đến Phi
Luật Tân, Việt Nam và một phần của Mã Lai nằm trong phạm vi 1000 dặm.
Về
đảo nhân tạo FCR, phi đạo của nó sẽ giúp cho các phản lực cơ Trung Cộng kiểm
soát toàn vùng trong khi hải cảng của chúng sẽ trở thành bến đỗ cho các tàu tiếp
vận và các tàu khác.
II.
CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG CỘNG VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong
vài thập niên qua, yêu sách của Trung Cộng tại khu vực tranh chấp ngày càng khẳng
quyết hơn: từ chối không cho các ngư phủ Việt Nam sinh hoạt tại các biển truyền
thống của họ bằng cách “hạ sát, bắt giữ và cầm tù vì lý do vi phạm vào hải
phận Trung Cộng”; các tàu hải quân Trung Quốc đánh đắm thuyền của họ; các tàu hải
giám Trung Cộng cắt đứt dây cáp của các tàu khảo sát địa chấn trên thềm lục địa
Việt Nam; tạo áp lực trên nhà chức trách Việt Nam phải bắt giữ và giam cầm các
sinh viên kêu gọi bảo vệ các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay những người phản
đối lại các hoạt động của Trung Cộng trong sự khẳng định chủ quyền trên các đảo
…; đe dọa và đòi hỏi các tổ hợp dầu hỏa ngoại quốc đang khai thác dầu hỏa tại hải
phận Việt Nam phải rời đi….
Vào
hôm 1 Tháng Năm 2014, Trung Cộng đã đi đến việc có một hành động mạnh bạo hơn:
bất ngờ hạ đặt dàn khoan dầu khổng lồ HD 981 trên thềm lục địa của Việt Nam để
thăm dò. Dàn Khoan Dầu được hộ tống bởi một ham đội ban đầu vào khoảng 90
tàu mọi loại kể cả các chiến thuyền được trang bị các hỏa tiễn, một số tàu hải
giám, tàu tuần cảnh biển … và về sau số lượng các tàu gia tăng lên tới 135 chiếc.
Khi dàn khoan xâm nhập, phía Trung Cộng đã đưa ra các cảnh cáo cho cảnh sát biển
Việt Nam phải rời khỏi khu vực và giới hạn là 3 dậm tính từ dàn khoan. Tướng
Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng tức thời đáp ứng các yêu cầu của Trung
Cộng, đã ra lệnh cho các đơn vị cảnh sát biển triệt thoái khỏi địa điểm.
Các tàu cảnh sát Việt Nam khi đó hoạt độ cách xa dàn khoan và canh chừng.
Tuy nhiên một số tàu của họ bị đánh đắm bởi các tàu Trung Cộng mặc dù họ đã ở
cách xa khoảng 10 dặm. Các tàu khác đã bị tổn hại khi bị đâm húc bởi các
tàu Trung Cộng. Tổng số tổn thất là 24 chiếc tàu. Một số nhân viên
của lục lượng cảnh sát biển bị giết chết, và các người khác bị thương. Trung Cộng
tuyên bố rằng dàn khoan hoạt động trong hải phận.của chúng.
Đây là một sự khiêu khích và xâm lăng thực sự bằng vũ lực.
Đây là một sự khiêu khích và xâm lăng thực sự bằng vũ lực.
Về
phía Việt Nam, không biện pháp cụ thể tích cục nào được thực hiện để phòng vệ
lãnh thổ. Phẫn nộ trước sự bất động của chính phủ chống lại quân ngoại
xâm, và cũng lo sợ về các sự nhượng bộ lãnh thổ hơn nữa được trao cho Trung Cộng
như đã xảy ra trong quá khứ, vào khoảng năm mươi nghìn người Việt Nam đã tụ tập
tại Bình Dương trong một vụ phản đối chống quân xâm lược. Một số cơ xưởng
sở hữu bởi Trung Cộng bị đốt cháy và hủy hoại. Tại Hà Tĩnh, các người phản
đối trở nên bạo động. Hai công nhân Trung Cộng đã bị giết chết, và bốn
người bị thương.
Sự
kiện Trung Cộng di chuyển dàn khoan vào hải phận Việt Nam đã đặt giới lãnh đạo
ĐCSVN vào một vị thế khó xử: một mặt, họ không thể đối kháng lại đòi hỏi của
nhân dân Việt Nam nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia chống lại quân xâm lược; mặt
khác, họ nằm dưới áp lực nặng nề từ Trung Quốc để đưa ra các sự nhượng bộ hơn nữa
bằng việc chấp nhận sự kiện rằng dàn khoan HD 981 hoạt động tại hải phận mà
Trung Cộng tuyên bố là của chúng. Dưới tình huống này, điều quan trọng nhất
cho các lãnh đạo ĐCSVN là phải tìm cách để làm giảm bớt tình hình sôi sục bên
trong Việt Nam.
Vào
ngày 11 Tháng Năm, tại một phiên họp của khối ASEAN ở Miến Điện, Thủ Tướng Việt
Cộng Nguyễn Tấn Dũng đã tố cáo rằng hành động của Trung Cộng cấu thành một mối
nguy hiểm to lớn cho sự an toàn và quyền tự do lưu thông hàng hải xuyên qua Biển
Nam Trung Hoa. Vào ngày 21 Tháng Năm, 2014, ông ta đến Manila. Ông
đã nói về một biện pháp pháp lý với Tổng Thống Phi Luật Tân Aquino là kẻ đã nạp
đơn kiện Trung Cộng vì các sự vi phạm đến hải phận của Phi Luật Tân. Cuộc
thảo luân được phổ biến sâu rộng bởi truyền thông Việt Nam khiến cho dân chúng
nghĩ rằng ông Dũng đang cứu xét đến một hành động pháp lý nhằm chặn đứng sự xâm
lăng của Trung Cộng. Nhưng thực sự không phải như vậỵ. Đây
chỉ là một loại chiến thuật cũ kỳ mà ông ta đà sử dụng để tạm thời xoa dịu căng
thẳng bên trong nước.
Tại
sao các lãnh đạo ĐCSVN lại chấp nhận một chính sách thỏa hiệp trước đòi hỏi của
Trung Cộng về lãnh thổ, thay vì tìm cách để phòng vệ? Tại sao họ đã giữ
im lặng và giả vờ không hay biết bất kỳ điều gì về sự kiện rằng từ năm 2013,
Trung Cộng đã công khai xây dựng một đảo nhân tạo trên Rạng Đá Ngầm JSR với các
tàu nạo vét khổng lồ di chuyển qua lại trong một thời khoảng lâu dài ở Quần Đảo
Trường Sa, trong khi chính phủ Phi Luật Tân đã lên tiếng chống lại chính sách
bành trướng của Trung Cộng nhân danh họ?
Câu
trả lời sẽ như sau:
Trở
lùi về Tháng Tư 2011, Tướng Quách Bá Hùng, phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương Đảng
Cộng Sản Trung Cộng (ĐCSTC), đến Hà Nội và gặp gỡ các lành đạo ĐCSVN: Tổng Bí
Thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ Tịch Nước Nguyễn minh Triết
… Các lãnh đạo hai đảng đã đồng ý trên một số nguyên tắc theo đó hai bên sử dụng
để “giải quyết các vấn đề tranh chấp” liên quan đến Biển Nam Trung Hoa;
1)
Tham khảo thân hữu và song phương để tìm một giải pháp cho sự xung đột;
2)
Không để bất kỳ nước thứ ba nào can thiệp vào việc giải quyết các vấn đề Quần Đảo
Trường Sa;
3)
Hướng dẫn công luận và cảnh giác không đưa ra những lời phát biểu hay có bất kỳ
hành động nào có thể dẫn đến việc làm tổn hại tình hữu nghị hay làm mất lòng
tín nhiệm của dân chúng hai nước.
Trong
Tháng Mười cùng năm, các điểm này đã được phê chuẩn một cách chính thức vào một
Hiệp Ước có tên là “Thỏa Thuận Hỗ Tương Về Giải Pháp Cho Các Sự Tranh Chấp Tại
Biển Nam Trung Hoa” được ký kết bởi Hồ Xuân Sơn, Thứ Trưởng Ngoại Giao Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và đối nhiệm Trung Cộng là Cui Tiankhai (Thôi Thiên
Khải) dưới sự “giám sát” của Đới Bỉnh Quốc, Phó Thủ Tướng Trung Cộng phụ trách
ngoại giao.
Tinh
thần của Bản Thỏa Thuận cho thấy rằng ĐCSVN và ĐCSTC không ở thế bình đẳng với
nhau. Nó trông giống như một mối quan hệ giữa một “ông chú” và một “đầy tớ”,
hay mối quan hệ giữa một Đế Triều và một nước chư hầu thời phong kiến.
Trong
bản Thỏa Thuận, chỉ có mệnh lệnh một chiều từ Trung Cộng, và Việt Cộng phải
thi hành nó, mà không có cả quyền được phàn nàn hay khiếu nại.
Trung
Cộng đã hạ đặt dàn khoan HD 981 trong hải phận Việt Nam ngoài khơi Quảng Ngãi,
nhưng lại tuyên bố nó nằm trên hải phận của Trung Cộng. Dĩ nhiên, Việt Cộng
đã không được tham khảo về việc đó. Cũng thế, sau khi dàn khoan đã được hạ
đặt và dưới áp lực của dân chúng Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng đã xin gặp Tập Cận
Bình, lời yêu cầu của ông ta bị cự tuyệt. Sự xây dựng 14 dự án trên năm rạng
đá ngầm tại Quần Đảo Trường Sa chiếm đoạt từ Việt Nam đã diễn tiến trong hơn
hai năm, có lẽ không có sự ưng thuận của ĐCSVN, và lãnh đạo Đảng này không dám
lên tiếng phản đôi. Theo Bản Thỏa Thuận, phía Trung Cộng có mọi đặc ưu
quyền và quyền hạn, mà không có bổn phận nào trong khi Việt Nam không được
phép, hay bị cấm khiếu nại: “Việt Nam không thể đưa ra các lời tuyên bố có
thể làm mất sự tín cậy của Trung Cộng”.
Trung
Cộng đã nghĩ rằng các lãnh đạo ĐCSVN bị ràng buộc chặt chẽ bởi bản thỏa thuận,
và rằng trong những năm trước, họ đã hăng hái thực hiện những gì mà tự họ đã
cam kết và rằng họ có thể kiểm soát một cách thành công tình hình bên trong
cùng như bên ngoài Việt Nam.
Trong
thực tế, bên trong nước, công luận đã bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi ĐCSVN
để thỏa mãn các đòi hỏi của Bắc Kinh. Các kỳ thuật Leninit đã được sử dụng
trọn vẹn để đập tan sự chống đối Trung Cộng. Các người phản đối tích cực
và mạnh mẽ chống lại Trung Cộng trong động tác khẳng định chủ quyền của nó đã bị
hoặc cô lập hay giam cầm. Phần lớn họ bị đối xử một cách thô bạo hay dữ tợ
Hình
một sinh viên phản đối xâm lược Trung Cộng tại Sàigòn bị trấn áp theo kỹ thuật
Leninist bởi một cảnh sát mặc thường phục
Các
tiếng nói kêu gọi sự bảo vệ các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị bóp nghẹt.
Ngay cả các kẻ cầm một bích chươing với khẩu hiệu “Hoàng Sa & Trường Là Của
Việt Nam” cũng bị bỏ tù. Việt Khang, một nhạc sĩ trẻ, người chỉ
sáng tác một bài ca ngắn chống Trung Cộng đã bị bắt 3 năm trước đây và cho đến
nay không ai hay biết nơi giam giữ anh ta ở đâu.
Các
lãnh đạo ĐCSVN đã huy động thành công toàn thể guồng máy chính quyền với sự hỗ
trợ của các tổ đảng địa phương (cảnh sát, tòa án, nhà tù, tổ đảng địa phương,
nhân viên quân sự) trong việc duy trì “trật tự công cộng” như được quy định
trong bản Thỏa Thuận.
Trên
bình diện quốc tế, các lãnh đạo ĐCSVN đã không đưa ra bất kỳ lời tuyên bố nào
hay có bất kỳ hành động nào có thể “làm tổn hại đến tình hữu nghị với Trung Cộng”:
không bình luận/ý kiến/hành động nào có thể gây tổn hại cho nó. Các ngư
phủ của Việt Nam liên tục bị quấy phá một cách thô bạo. Một số trọng họ bị
giết chết. Nhiều người khác bị bắt giữ và giam cầm vì các sự vi phạm vào
hải phận Trung Cộng mặc dù họ đang hoạt động trong hải phận Việt Nam.
Trong nhiều trường hợp, tàu của họ bị đâm húc và đánh đắm vởi tàu Hải Quân
Trung Cộng. Truyền thông đại chúng chính thức của ĐCSVN chỉ dám nói rằng
“tàu lạ” đã gây ra việc đó. Họ không dám chỉ danh các tàu hải quân Trung
Cộng, mặc dù các nạn nhân đều hay biết căn cước của các tàu ấy. Tất cả
“các tàu lạ” rời bỏ hiện trường mà không hề cứu vớt các nạn nhân trên
tàu. Vì thế, không nước nào có thể quy trách Trung Cộng về các hành vi bất
hợp pháp và vô nhân đạo của ho. Cũng vậy, tuân hành bản Thỏa Thuận,
CHXHCNVN đã không có hành động pháp lý chống lại dàn khoan HD 981 “mặc dù nó hoạt
động một cách bất hợp pháp trong hải phận Việt Nam”. Hay, ĐCSVN giữ im lặng
trong khi Hải Quân ĐCSTC xây dựng các đảo nhân tạo tại Quần Đảo Trường Sa.
Trung Cộng cảm thấy
thỏa mãn với những gì ĐCSVN đã làm.
Tin
tưởng nơi các kết quả thỏa đáng mà các lãnh đạo ĐCSVN đã làm trong việc thi
hành các bổn phận được quy định trong bản Thỏa Thuận Hỗ Tương, Trung Cộng đã bước
một bước tiến bạo dạn hơn đến việc khẳng định chủ quyền của nó trên Biển Đông:
hạ đặt dàn khoan HD 981 trong hải phận Việt Nam hồi Tháng Năm 2014. Nếu
việc này thành công, toàn thể Biển Nam Trung Hoa mau chóng trở thành lãnh thổ
Trung Cộng.
***
Sự
kiện các lời tuyên bố của Nguyễn Tấn Dùng tại Miến Điện và Manila trái ngược với
Bản Thỏa Thuận Tháng Mười 2011, khiến ĐCSTC nghĩ rằng các lãnh đạo ĐCSVN đã cố
gắng tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của chúng.
Hậu
quả, Trung Cộng đã phái Dương Khiết Trì, Phó Thủ Tướng phụ trách ngoại giao đến
Việt Nam hôm 16 Tháng Tám, 2014.
Những
gì mà họ Dương nói với Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang không
được tiết lộ. Tuy nhiên, hai ngày sau đó khi ông ta trở về Bắc Kinh, truyền
thông TC tường thuật rằng ông đã chỉ trích một cách thẳng thừng các lãnh đạo
ĐCSVN về việc không tuân thủ các nguyên tắc trong bản thỏa thuận mà cả hai bộ
ngoại giao đã ký kết hồi Tháng Mười 2011.
Điều
cùng được tường thuật rằng họ Dương có nói với truyền thông Trung Cộng rằng ông
ta đã đến Hà Nội để mang “các đứa con hoang đàng trở về với cha mẹ đang khổ
đau”, và rằng các lành đạo ĐCSVN phải thi hành đầy đủ bốn KHÔNG:
1)
Không được đánh giá thấp sự quyết tâm vững chắc của Trung Cộng và các khả
năng của TC để bảo vệ chủ quyền trên Quần Đảo Trường Sa (dĩ nhiên bằng vũ lực).
2)
Không sử dụng các tài liệu hay dữ kiện mà Việt Nam tuyên bố là các tài liệu lịch
sử để khẳng định chủ quyền “lịch sứ” trên Quần Đảo Trường Sa. Nếu làm như
thế, nó sè tạo ra một sự hiểu lầm đối với cộng đồng thế giới cùng như đối với
nhân dân Việt Nam về vấn đề này.
3)
Không mang bất kỳ nước thứ ba nào can thiệp vào vấn đề này.
4)
Không đi chệch hướng khỏi một tình hữu nghị mãi mài tốt đẹp với Trung Cộng.
Thật
là một sự sỉ nhục!
Một
cách đáng ngạc nghiên, bốn KHÔNG mà họ Dương đã nói với các lãnh đạo ĐCSVN phải
làm đã được tôn trọng nghiêm ngặt. Kể từ đó, mục đích của Trung Cộng là
các lãnh đạo ĐCSVN cố gắng kéo dài vấn đề càng lâu càng tốt, sao cho Trung Cộng
có đủ thời gian để hoàn thành các dự án xây dựng Hệ Thống Căn Cứ Hải Quân của họ
một cách êm thắm và thành công.
***
Tóm
lại, không có gì gây ngạc nhiên rằng các lãnh đạo ĐCSVN đà cố gắng tuân hành
các cam kết nêu trên mà họ đã đưa ra theo Bản Thỏa Thuận Tháng Mười 2011.
Đây là một hành vi thông đồng về phía các nhà lãnh đạo ĐCSVN trong ý đồ bành
trướng của Trung Cộng tại Biển Nam Trung Hoa. Là chủ, Biển Đông mà họ giữ
im lặng, hay không có bất kỳ hành động nào, chẳng hạn như kêu gọi sự giúp đỡ của
quốc tế trong khi quân xâm lược hùng mạnh đang vội vã đẩy nhanh sự xây dựng hệ
thống căn cứ, vì thế không nước nào có thể can thiệp. Khi căn cứ trở
thành một “sự đã rồi”, không ai có thể đảo ngược được tình thế.
Không
còn gì nghi ngờ rằng JSR, FCR và các đảo nhân tạo khác trong hệ thống HTCCHQ sẽ
được hoàn tất trong ít năm. Khi đó nó trở thành cứ địa cho các tàu chiến,
các phản lực cơ, kho vũ khí của Trung Cộng … Các binh sĩ Trung Cộng sẽ đến và
trú đóng ở đó. Một khi các toán quân và trang thiết bị của Trung Cộng được
bố trí tại đó, các lãnh đạo ĐCSVN sẽ được TC bảo hãy rút quân ra khỏi các hòn đảo
và các rạng san hô và chuyển giao chúng cho Trung Cộng. Các lãnh đạo
ĐCSVN sẽ không dám làm như thế bởi họ sẽ bị quy trách về tội “bán Biển Đông cho
quân ngoại xâm”. Và họ sẽ không làm gì cả, ngấm ngầm cho phép Hải Quân
Trung Cộng phái các tàu chiến đến giết hại người của họ như Trung Cộng đã từng
sát hại 64 binh lính Việt Nam hồi năm 1988. Các rạng đá ngầm nằm trong phạm
vi hay gần chu vi HTCCHQ là Rạng Nam Yết (Namyit Reef), Đảo Sinh Tồn (Sin Cove
Island), Đảo Trường Sa (Spratly Island), Đá Tây (West Reef) sẽ là muc tiêu đầu
tiên.
Đây
là cách ĐCSVN chuyển giao quyền sở hữu chủ Quần Đảo Trường Sa cho Trung Cộng.
Sau khi thuộc về Trung Cộng, HTCCHQ khi đó sẽ đặt ra một mối nguy hiểm nghiêm
trọng cho an ninh của tất cả các nước tại Đông Nam Á và kế đó đối với mọi nước
khác trên thế giới.
Trước
tiên, âm mưu của Trung Cộng sẽ vô hiệu hóa một cách trực tiếp lời kêu gọi quyền
tự do lưu thông hàng hải và hàng không được đưa ra bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng
Hoa Kỳ Robert Gates 4 năm trước đây tại Shangri-La. Bộ Trưởng Gates cũng
đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ bảo vệ chúng bằng vũ lực. Các tàu và máy bay của
Mỹ giờ đây không thể tiền vào hay đi ngang qua Biển Đông hay Biển Nam Trung Hoa
đến vùng Đông Bắc của Á Châu từ Eo Biển Malacca nếu không có sự cho phép của
Trung Cộng bởi nó là “hải phận của Trung Cộng”. Và quyền lợi quốc gia
của Hoa Kỳ tại Biển Đông được tuyên bố bởi Bộ Trưởng Ngoại Giao vào cùng
lúc ở Hà Nội, sẽ bị nguy hại.
Thứ
nhì, an ninh của tất cả các nước Đông Nam Á sẽ bị đe dọa một cách nghiêm trọng.
Với
Hoa Kỳ, trị giá hàng hóa xuyên qua Malacca đến Biển Đông trong năm 2010 là
1,300 tỷ Mỹ Kim. Các quyền lợi kinh tế của Hoa Kỳ sẽ gặp khó khăn.
Tổng
trị giá của tất cả các nước cộng lại là 5,000 tỷ. Do đó, nhiều cường quốc khác
bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
III.
HÌNH ẢNH VÀ CHÚ GIẢI BẢN ĐỒ
1)
GAVEN REEF
Theo
dữ liệu của AISLive data, một tàu nạo vét đã ở tại Geven Reef từ 24 Tháng Năm
2014.. Điều này tương hợp với sự trần thuyết căn bản bởi viên chức Phi Luật
Tân, kẻ đã nói với tạp chí HIS Jane’s rằng ba tàu nạo vét – gồm Tian Jing Hao
và một tàu khác có tên là Nina Hai Tuo – đã hiện diện tại Gaven Reef cùng với một
tàu kéo lớn.
Các
đồ án của Chinese Government Institute (CGI) cho thấy một phi đạo, các nhà ga
cho các phản lực cơ bay nhanh, một hải cảng, các máy quạt gió, và các nhà kiếng.
[Nguồn: (China State Shipbuilding Corporation), James Hardy, London and
Krispen Atkinson & Richard Hurley, London and Michael Cohen, Manila – HIS
Jane’s Defence Weekly, 20 June 2014)]
2 & 3 JOHNSON
SOUTH REEF
Một
hải cảng có thể phục vụ các tàu trọng tải đến 5,000 tấn, sẽ cung cấp đồ tiếp liệu
và sự hỗ trợ cho các khu trục hạm và một phi đạo dài 1.6 cây số cho các máy bay
J-11 với tầm hoạt động là 3000 cây số. Các ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy
các hạ tầng cơ sở đã được xây cất: một bến tàu, các đường lộ, các ngôi nhà, các
hàng cây dừa.
Diện
tích của nó là 30 mẫu tây (hestares). Khoảng cách từ JSR đến Việt Nam là
800 cây số, đến Phi Luật Tân là 850 cây số, và đến Eo Biển Malacca là 1000 cây
số.
CÁC
CẤU TRÚC KIÊN CỐ HIỆN HỮU ( đã có từ trước)
9°
42' 50.27" N 114° 17' 9.59" E
09
43 N 114 17 E
Các
cấu trúc quân sự kiên cố đã hiện hữu từ thập niên 1990. Trên mái của tòa
nhà màu trắng, có hai antenna vệ tinh, có đường kính là 2.5 mét và cao 2.4 mét.
09
55 N 114 29 E
Cấu
trúc Chigua không cách xa các cấu trúc được xây cất trên đảo JSR, cũng như Đảo
Johnson North Reef: JNR) -- Số 2 trên bản đồ.
4)
FIERY CROSS REEF
Rạng
đá nầmg này dài 14 dặm (gần 26 cây số), rộng 4 dặm (7.4 cây số), nằm dọc trục
Đông Bắc-Tây Nam. Khi hoàn tất, đảo nhân tạo này lớn gấp đôi Căn Cứ Diego
Garcia của Hoa Kỳ tại Ấn Độ Dương. Diện tích cả vùng rong hệ thống caa8n
cứ là 44 cây số vuông.
Trong
Tháng Mười Một, 2014, Tạp Chí HIS Jane Defense Magazine có phổ biến một ảnh
chụp vệ tinh cho thấy một phi đạo và một hải cảng. Nó dài 3 cây số và rộng
300 mét.
Ảnh
chụp từ vệ tinh của Airbus Defence & Apace, chụp hôm 14 Tháng Mười Một,
2014 cho thấy rằng hòn đảo nhân tạo này tại khu vực Fiery Cross lớn hơn nhiều đảo
Itu Aba hiện bị chiếm cứ bởi Đài Loan.
CÁC
CẤU TRÚC KIÊN CỐ HIỆN HỮU TẠI FCR
Bộ
Chỉ Huy
Cơ Sở Tiếp Liệu: Antenna với hệ thống chu kỳ 70-73 có thể hoạt động trong phạm vi đường bán kính 180 cây số. Hai cột antenna được nhìn thấy trên nóc của tòa nhà với trang thiết bị tương đương với RW2-1 của các khu trục hạm Hoa Kỳ.
Cơ Sở Tiếp Liệu: Antenna với hệ thống chu kỳ 70-73 có thể hoạt động trong phạm vi đường bán kính 180 cây số. Hai cột antenna được nhìn thấy trên nóc của tòa nhà với trang thiết bị tương đương với RW2-1 của các khu trục hạm Hoa Kỳ.
Sàn
Phóng Hỏa Tiễn: 116 mét x 96 mét, được dùng làm căn cứ cho các dàn phóng hỏa tiễn
bắn hạ các vệ tinh của Hoa Kỳ. Antenna để truyền tin trên nóc tòa nhà.
Văn
Phòng
Đang xây dựng
5)
CUARTERON
Các
hình ảnh chưa được cung ứng
6)
MISCHIEFS REEF
---------------
Nhân
danh hòa bình, Chúng Tôi, Ủy Ban Bảo Vệ Sư Vẹn Toàn Lãnh Thổ:
a)
Kết án các lãnh đạo ĐCSVN về việc làm tay sai cho các lãnh đạo
Trung Cộng góp phần vào ý đồ bành trướng của Trung Cộng và thông đồng với
chúng trong việc chinh phục các nước Đông Nam Á kể cả Việt Nam.
b)
Đòi hỏi các lãnh đạo ĐCSVN rút lui khỏi vai trò một ngụy quyền
cung cấp dịch vụ làm lợi cho kẻ thù của nhân dân Việt Nam và của các dân tộc
yêu chuộng hòa bình khắp thế giới.
c)
Kết án các lãnh đạo ĐCSTC về âm mưu bành trướng của họ.
Trung Cộng nhắm vào việc chinh phục các nước khác bằng vũ lực, sáp nhập chúng
vào lãnh thổ của Trung Quốc. Các tham vọng của họ là một nguyên nhân gây
bất ổn trong vùng và đối với thế giới.
d)
Kêu gọi một sự can dự quốc tế trong việc đình chỉ các hoạt động bất hợp
pháp của Trung Cộng. Để bảo vệ các nước Đông Nam Á khỏi việc bị thống
trị bởi các tham vọng bành trướng, cần đến một sự ủng hộ mạnh mẽ, tích cực và
khẩn cấp từ toàn thể thế giới cho chính nghĩa này.
e)
Kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ và nhân dân yêu chuộng hòa bình của Hoa Kỳ có một quyết tâm rõ
rệt và mạnh dạn để đối phó với sự kiện rằng Trung Cộng đã tiến bước một cách vừng
chắc đến việc nuốt gọn Á Châu và sau đó toàn thể thế giới. Nước duy nhất
trên toàn thế giới có khả năng đối phó với tình trạng này chính là Hoa Kỳ.
Chính
sách của Tổng Thống Obama về việc “tăng cường các liên minh cũ và trui rèn đối
tác mới để đối phó với các thử thách chung” và sự tái phối trí các lực
lượng quân sự tại các căn cứ khắp Á Châu và Úc Châu, cũng như kể cả đự án Đối
Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhất thiết là cần nhưng chưa
đủ. Lý do bởi sự kiện rằng Tổng Thống đang suy nghĩ về việc xây dựng
sức mạnh quân sự để đối phó với các thử thách theo lối chiến tranh quy ước.
Vì lý do đó BIÊN ĐÔNG NAY GẦN NHƯ NẰM TRONG TAY CỦA ĐCSTC. Nếu điều
này xảy ra, các quyền lợi chính đáng của Hoa Kỳ như được tuyên bố bởi Bộ Trưởng
Quốc Phòng Robert Gates và Bộ Trưởng Ngoại Giao Hilary Clinton vào năm
2010 sẽ bị vô hiệu hóa. Và khó khăn cho Hoa Kỳ và thế giới sẽ khởi diễn
từ đây. Nên nhớ rằng địch thủ tiềm ẩn của Hoa Kỳ có một đầu óc của một
con cáo đang chơi một ván bài chiến tranh đa diện với mọi phương tiện khả hữu,
ngay cả với các phương tiện vô đạo đức. Một “Hoa Kỳ’ Lịch Sự lương thiện
không thể đối phó với nó một cách hữu hiệu.
Chiến
lược chúng ta cần có là một chương trình hành động thổng thể hữu hiệu để
tẩy trừ triệt để căn nguyên của vấn đề./-
Làm tại California, ngày 22, tháng 1 năm 2015
Nguyễn
Văn Canh, Chủ Tịch
THAM KHẢO:
Nguyễn
Văn Canh,
“Paracels & Spratleys and National Sovereignty”, Center for Vietnam
Studies, 5th edition, 2014; và “Territorial Sovereignty and Chinese
Expansionism”, Center for Vietnam Studies, 2010.
GS
Nguyễn Văn Canh
là cựu Giáo Sư, Đại Học Luật Khoa Sàigòn, và Học Giả Thỉnh Giảng tại Viện
Nghiên Cứu Hoover về Chiến Tranh, Hòa Bình và Cách Mạng, Đại Học Stanford
University.
.
No comments:
Post a Comment