Trong
chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh
Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt
Nam bài học”. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình
Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại
Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó “Tôi không bao giờ có thể
quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền
hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan” – tức du
côn, côn đồ.”
Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó?
Đảng
CS Trung Quốc đầu tư quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN
nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc
không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc
lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li
liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt
Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung
Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không
(SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội
Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM,
xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của
Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt
vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư
đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967,
có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Trong
số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc
Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng
Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ
Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và
cũng biết một cách tường tận và chính xác những “hy sinh” của
Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của
Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình
chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh
không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn
như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4,
1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực
tiếp tham chiến.
Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều
Theo
báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Quốc, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới
giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ
trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các
vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do chính, những đụng độ quân sự
cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp
quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su
Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Cambodia và Tướng Xu Shiyou,
Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ ngã Quảng Tây. Chính sách
xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm Trung Quốc khó chịu về bang
giao và khó khăn về kinh tế.
Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực
Đặng
Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH
Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu
Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không
đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và
Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ
Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều
còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng
căng thẳng. Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á
và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15
tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch
hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Quốc trong thời kỳ mới.
Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ
thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.
Nỗi sợ bị bao vây
Tuy
nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ cá lý do trên mà chính từ nỗi
sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung
Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là
nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều
bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.
Cựu
Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất
bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc
viếng thăm Trung Quốc của họ Phạm vào năm 1968. Chu Ân Lai: “Trong một thời
gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại
trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm
để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó
chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến
thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành
quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”.
Chính
sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự
bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa đối với hòa bình”. Khi Việt
Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký
ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm
Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.
Cambodia, giọt nước tràn ly
Không
những Trung Quốc sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả
khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chận khối Việt Miên Lào
liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu
Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một
siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng
đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc
trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời
tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane
nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba, 1976. Tháng Sáu, 1978, Việt
Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu
nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm
1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập
chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và
quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài
học”. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.
Quyết định của Đặng Tiểu Bình
Hầu
hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẽ trong nội bộ Bộ Chính Trị, quyết
định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình.
Tại
phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị
thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành viên tham dự chẳng
những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai
mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn
công vào Điện Biên Phủ từ ngã Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp
đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh
cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu
Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.
Soạn
kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng
Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và
quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định
vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối
ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất
là Mỹ.
Lên đường thuyết khách tìm đồng minh
Cuối
năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch
sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa
và vừa dọn đường đánh Việt Nam.
Họ
Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai,
Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa
ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn
định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978:
“Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc... mà là một âm
mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung
Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ
bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình
Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.”
Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam
Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.
Trong
các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất.
Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng
Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung Quốc thông báo cho Mỹ biết ý định
bình thường hóa ngoại giao. Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số
tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với
Trung Quốc vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp
bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong
hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ
bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên
quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ
trước khi xăm lăng Việt Nam.
Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ
Ngày
28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Y nghĩ
rằng Mỹ và Trung Quốc đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Sô Viết trên
phạm vi toàn cầu nhưng không có gì chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến
chống Việt Nam sắp tới. Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống
Jimmy Carter ba lần. Chỉ trong vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng
yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề
nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và
phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp
TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống
Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski.
Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết Trung Quốc đã quyết định
chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng
hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay,
ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế khi đương đầu với tình trạng khó
khăn”.
Ngày
hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ý cản
ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Quốc có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng
không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Quốc sa lầy. TT Carter cũng nhắc
việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Quốc cổ võ cho một
viễn ảnh hòa bình trên thế giới.
TT
Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A
President, Ngô Bắc dịch: “Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội
kiến tại Văn Phòng Bàu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đã đọc to
và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản
một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ
quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời
gian ngắn - và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và
có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một
lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu
mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết
định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.”
Ngày
30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter, Đặng Tiểu Bình cho biết
việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ không có gì làm thay đổi. Tuy
nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong vòng giới hạn.
Đặng
Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ để đánh Việt Nam
nhưng ít ra không phải về tay trắng. Tổng thống Carter để lấy lòng “khách hàng
khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô” đã đồng ý cung cấp tin tức
tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc
Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những
tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học
trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống
Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt
Việt Nam”. Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng
chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Trên đường
về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.
Hai
ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979 Đặng triệu tập phiên họp mở
rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt
Nam. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn
quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam. Nhiều tài liệu Việt, Hoa và
quốc tế đã phân tích về chiến tranh biên giới Việt Trung 1979.
Lãnh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Quốc tràn qua biên giới?
Trong
khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc
tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng
người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn
em CSVN. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận
đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và
Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn
toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.”
Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ Tướng
CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang
viếng thăm Campuchia. Tình
báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc và cũng
không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân Trung Quốc. Tác
giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979
“Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng”
và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh,
các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin “nước xã hội chủ nghĩa anh em” có
thể đánh họ.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều
tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa
khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin
tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy
Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn
ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân đội
Trung Quốc học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese
Army đã mô tả quân Trung Quốc chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều
Tiên mấy chục năm trước.
Nếu
ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS
và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng
Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại
hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Bài
học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979
Từ
đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ
nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến
Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Quốc bằng mọi phương tiện sẽ
buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị, là một phần
không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc và độc
chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo
Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Đặng
Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẵn sàng dùng bất cứ phương
tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản
đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy).
Đừng
quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ
nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi”.
Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt
tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm
này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng
Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực
trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc... Nếu cần thiết,
Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của
Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng
Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời
vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn
công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống
trả.
Cựu
Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ
lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ
lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền
kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc
tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ
khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.
Việt
Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước
một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước,
dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết
đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn
minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một
tinh thần bạc nhược, đầu hàng.
Lịch
sử đã chứng minh, Trung Quốc giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ.
Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt
qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của
các thế hệ con cháu mai sau.
______________________________
Tham
khảo:
-
Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang,
MIT Press 2010.
-
China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang.
-
Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011.
-
Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001.
-
Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia.
-
Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989.
-
Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow
Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999.
-
Wikipedia Đặng Tiểu Bình.
-
Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979.
-
Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009.
-
A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259, Xiaobing Li (U.
Press of Kentucky, 2007).
-
Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt
Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch.
-
“Côn đồ” Đặng Tiểu Bình trong quan hệ Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo.
-
Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo.
No comments:
Post a Comment