Monday, December 29, 2014

Việt Nam, Mỹ, và Nhật Bản ở Biển Đông (Alexander L. Vuving - The Diplomat)





Alexander L. Vuving  -  The Diplomat
Trà Mi lược dịch

Triển vọng cho an ninh khu vực tùy thuộc rất nhiều vào các quốc gia có liên quan đến vấn đề Biển Đông.

Tranh chấp Biển Đông. Nguồn: www.theaustralian.com.au

Giữa tháng 5 và tháng 7 năm 2014, Trung Quốc đơn phương đưa một giàn khoan khổng lồ vào vùng biển đang tranh chấp trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Hành vi này đã dẫn tới một cuộc đối đầu khốc liệt giữa các tàu của chính phủ Trung Quốc và Việt Nam và quan hệ giữa hai nước xấu đi, xuống đến mức thấp nhất kể từ năm 1988. Sự bế tắc này cũng là một phép thử để xác định ai sẽ đứng về phía ai trong cuộc xung đột này. Trong khi hầu hết thế giới vẫn trung lập, một số quốc gia đã hỗ trợ Việt Nam ở hình thức này hay hình thức khác. Trong số những nước ủng hộ, Hoa Kỳ và Nhật Bản là hai nước hỗ trợ mạnh nhất và đáng tin cậy nhất.

Đường ranh giữa Việt Nam, Mỹ, và Nhật Bản ở một bên và Trung Quốc phía bên kia có thể được xem như là ranh giới hai nhóm muốn giữ nguyên hiện trạng và nhóm đòi xét lại. Nhóm trước chia sẻ mục tiêu muốn duy trì sự cân bằng quyền lực đã giữ hòa bình khu vực trong hai mươi năm qua. Trung Quốc, với khoảng thời gian dài của sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong ba mươi năm qua, dường như muốn sử dụng sức mạnh mới để khẳng định tuyên bố chủ quyền của mình, nhằm kết quả sau cùng là chiếm lấy vị thế thống trị trong khu vực. Triển vọng an ninh trong khu vực tùy thuộc rất nhiều vào các nước có liên quan đến vấn đề Biển Đông.

Quyền lợi và thử thách

Câu chuyện hiện hành miêu tả vấn đề Biển Đông như làn một tranh chấp lãnh thổ do xung đột về tài nguyên thiên nhiên giữa các quốc gia ven biển. Đó là một bức phác họa rất thô sơ không làm rõ căn cước và động cơ của các nước liên quan. Bên cạnh giá trị kinh tế của nó, Biển Đông cũng có giá trị chiến lược to lớn đối với nhiều quốc gia và một giá trị tượng trưng ngày càng tăng cho một số quốc gia đang trong cuộc tranh chấp.

Trung Quốc đợn phương tuyên bố chủ quyền trong một khu vực rộng lớn ở Biển Đông nằm trong đường 9 gạch hình chữ U, trong khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa với vùng EEZ và thềm lục địa dọc bờ biển. Biển Đông được cho là giàu trữ lượng cá, dự trữ năng lượng, và các loại quặng khoáng sản. Một số ước tính cho thấy dự trữ dầu và khí đốt ở Biển Đông bằng khoảng 80 phần trăm dự trữ của Saudi Arabia. Với khoảng mười phần trăm số lượng thủy sản trên thế giới, khu vực này cũng là một nơi có nhiều loại cá nhất trên thế giới.

Biển Đông tạo thành một trong những vùng biển bên trong vùng mà những nhà hoạch định chiến lược và các nhà phân tích của Trung Quốc “chuỗi đảo đầu tiên.” Vùng biển này là con đường đến các trung tâm công nghiệp của Trung Quốc dễ nhất, khu vực hàng hải này rất quan trọng đối với việc bảo vệ Trung Quốc chống lại quân xâm lược đến bằng đường biển. Biển Đông thậm chí còn quan trọng hơn cho việc phòng thủ của Việt Nam. Đôi khi nó được ví như sân sau của Trung Quốc, và nó đúng là cửa trước của Việt Nam.

Biển Đông có giá trị chiến lược không chỉ cho các quốc gia ven biển mà còn cho các cường quốc ở khu vực và các nước lớn khác từ bên ngoài. Đường vận chuyển ngắn nhất giữa Ấn Độ và Thái Bình Dương, những đường hàng hải đi qua Biển Đông vận chuyển gần một phần ba số hàng thương mại trên thế giới và một nửa dầu khí toàn cầu. Không những chỉ có nền kinh tế của các nước trong khu vực Đông Nam Á mà kinh tế vùng Đông Bắc Á cũng phụ thuộc nhiều vào những đường thương mại hàng hải này. Khoảng 80 phần trăm dầu và khí đốt nhập khẩu của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đều được chuyển qua Biển Đông.

Trong khi tất cả nước liên quan đến vấn đề Biển Đông chia nhau một phần lớn đường hàng hải trong vùng, những nước lớn với tham vọng bá chủ như Hoa Kỳ và Trung Quốc có thêm lợi ích khác dựa trên các giá trị chiến lược của những đường hàng hải. Với vị trí của Biển Đông là một nút chận đường dây an toàn ở châu Á và là một trong các động mạch của toàn cầu, việc kiểm soát giao thông ở Biển Đông là một điều tuyệt đối cần có để chiếm được uy quyền tối cao về hải quân ở Tây Thái Bình Dương, và đó lại là một trụ cột quan trọng của vai trò bá chủ trong khu vực Đông Á.

Bên cạnh giá trị kinh tế và chiến lược của nó, Biển Đông còn có một giá trị tượng trưng rất lớn đối với Trung Quốc và Việt Nam. Xung đột và quyền lợi trong khu vực này đã làm cho nó trở thành một biểu tượng lớn cho căn cước của cả hai nước. Ví dụ, Việt Nam đã tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của mình trong hiến pháp mới năm 2013.

Chiến lược của Việt Nam

Không có chiến lược duy nhất nào có thể mô tả Việt Nam đối phó với các vấn đề Biển Đông ra sao. Thay vào đó, Việt Nam theo đuổi nhiều biện pháp dùng một loạt các cơ chế từ quyền lực cứng đến quyền lực mềm. Việt Nam có ít nhất bảy chiến lược khác nhau có thể xác định được.

Ở phía cực quyền lực cứng, Việt Nam sẽ cố gắng để tăng cường sự hiện diện và các lực lượng, cả quân sự và phi quân sự, ở Biển Đông. Trong “cuộc tranh giành quần đảo Trường Sa” vào năm 1988, khi Bắc Kinh và Hà Nội giành giữ những vị trí trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam đã thiết lập đơn vị đồn trú quân sự thường trực trên 11 vị trí ở quần đảo, tăng lãnh thổ của mình ở đây lên 21 căn cứ. Từ năm 1989 đến năm 1991, Việt Nam đã đi ra biển để chiếm sáu bãi cát ngầm dưới nước trên thềm lục địa phía tây nam của quần đảo Trường Sa bằng cách đặt các trụ cột cao và phòng thủ bằng những đơn vị đồn trú. Chậm mà chắc, Việt Nam tiếp tục củng cố và tăng cường sự hiện diện của mình trong khu vực bằng cách đưa thêm quân, cơ sở vật chất, trang thiết bị, và thường dân. Từ năm 2007, Việt Nam bắt đầu đưa dân đến cư ngụ trong vùng kiểm soát lớn nhất của mình ở quần đảo Trường Sa. Làm đúng y một chiến thuật của Trung Quốc, năm 2012 Việt Nam đã quyết định thiết lập lực lượng giám sát nghề cá như một lực lượng thứ ba, sau hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển, để tuần tra vùng biển của mình, và vào năm 2014, sau cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu, đã vũ trang nhẹ cho tàu của lực lượng giám sát nghề cá. Để xây dựng một sức mạnh răn đe tối thiểu trên biển, Việt Nam tiếp tục hiện đại hóa hải quân và không quân. Một yếu tố quan trọng trong lực lượng răn đe này là một hạm đội tàu ngầm đang được xây dựng với sáu tàu ngầm hạng Kilo.

Chính quyền Việt Nam biết rõ rằng họ không thể chỉ dựa vào lực lượng quân sự để ngăn chặn Trung Quốc. Một chiến lược để bù đắp cho sự yếu kém này là kéo nước lớn trong thành phần thứ ba vào cuộc. Việt Nam, tuy nhiên, chỉ áp dụng được chiến lược này trong ngành công nghiệp dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông. Nhưng có lẽ Hà Nội không có lựa chọn nào khác ngoài việc nhượng bộ trong các lô dầu khí nằm trong đường chữ U cho các công ty lớn từ các cường quốc, là những việc Việt Nam đã thực hiện cho đến nay với ExxonMobil của Hoa Kỳ, ONGC của Ấn Độ, và Gazprom của Nga. Mức độ hạn chế mà Việt Nam đã theo đuổi chiến lược này là đáng kể; Việt Nam đã nhiều lần cam kết sẽ không liên minh với bất kỳ nước nào khác chống lại một nước thứ ba, một tuyên bố được mã hóa để trấn an Trung Quốc về vị trí không-liên kết của Việt Nam.

Thay vì liên minh với các đối tác mạnh, Việt Nam chú trọng nhiều hơn về mặt quốc tế hóa vấn đề để khóa và ngăn chặn Trung Quốc. Trong hầu hết các năm 1990 và 2000, phần lớn Việt Nam vẫn khiêm tốn trong nỗ lực quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Nhưng để phản công lại sự quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực kể từ năm 2008, Việt Nam đã trở nên ngày càng chủ động và quyết tâm đưa vấn đề đến dể được sự chú ý của thế giới và tranh thủ sự ủng hộ của các đối tác nước ngoài. Ví dụ, các hội nghị quốc tế về vấn đề Biển Đông đã trở thành một ngành công nghiệp phát triển mạnh ở Việt Nam từ năm 2009. Hà Nội cũng đã cố gắng đưa các vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự trong các cuộc đàm phán của mình – và như là một công cụ khoa trương, trong tuyên bố chung – với hầu hết các chính phủ nước ngoài. Bắt đầu với ASEAN và các cuộc họp ARF, diễn đàn quốc tế như EAS, APEC, LHQ, ASEM đã trở thành chiến trường ngoại giao cho Việt Nam trong cuộc tranh chấp Biển Đông.

Nỗ lực của Việt Nam nhằm quốc tế hóa và đa phương hóa vấn đề này không gây hại đến cuộc đối thoại song phương với Trung Quốc. Việt Nam không những chỉ tận dụng lợi thế của tất cả các kênh để có thể nói chuyện với Trung Quốc, mà còn tự hào về việc họ có thể để duy trì những kênh đối thoại này. Bên cạnh các kênh giữa chính phủ với chính phủ, Việt Nam cũng nuôi dưỡng các mối quan hệ giữa hai Đảng Cộng sản và quân đội hai nước tiếp tục quan hệ đặc biệt tới Trung Quốc. Đặc thù của quan hệ giữa hai đảng và hai quân đội giữa Việt Nam và Trung Quốc nằm trong thực tế rằng cả hai bên nhấn mạnh đến sự liên kết ý thức hệ của họ và đặc biệt đối với quân đội, là lợi ích chung của họ trong việc chống lại phương Tây. Về mặt đàm phán để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ, Việt Nam chấp nhận cách giải quyết song phương đối với quần đảo Hoàng Sa, trong khi kiên định đòi giải quyết đa phương trong vấn đề của quần đảo Trường Sa, lập luận rằng bản chất đa phương của cuộc tranh chấp này đòi hỏi phải có đàm phán đa phương.

Ở phần cuối chuỗi chiến thuật là sự tự kiềm chế và tự chế để trấn an Trung Quốc cũng là một yếu tố quan trọng trong cách giải quyết vấn đề Biển Đông của Việt Nam. Giới lãnh đạo chính trị và chiến lược quân sự của Hà Nội lý luận rằng Trung Quốc biết rõ họ có sức mạnh vượt trội, sẽ chụp lấy cơ hội nếu Hà Nội để bị kích động nhằm leo thang xung đột và áp đảo Việt Nam. Nhưng đối với Hà Nội, tự kiềm chế và tự chế không chỉ là một chiến thuật để tránh bị kích động; đó là một cách giải quyết vấn đề có hệ thống dựa trên niềm tin rằng họ có thể thuyết phục được Bắc Kinh về tính ôn hòa của Hà Nội. Thí dụ, Hà Nội đã cố gắng để xóa ký ức của dân chúng về các cuộc xung đột quân sự giữa Việt Nam với Trung Quốc, cả trên vùng biên giới đất liền và ở Biển Đông trong những năm 1970 và 1980. Để trấn an Bắc Kinh, Hà Nội cũng đã đơn phương tự thiết lập giới hạn chặt chẽ về mặt hoạt động quốc phòng. Một thí dụ là chính sách “ba không”, theo đó Việt Nam thề không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, không cho phép có bất kỳ căn cứ quân sự nước ngoài nào trên lãnh thổ Việt Nam, và không liên minh với bất kỳ nước nào khác chống lại một nước thứ ba.

Mềm hơn so với chiến thuận tự kiềm chế, chính sách thần phục cũng là một yếu tố chính của chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc. Nhiều người lãnh đạo và các chiến lược gia Việt Nam cho rằng việc kết hợp sức đề kháng với sự thần phục là chìa khóa để sinh tồn trong cái bóng đè của Trung Quốc từ ngàn năm trong lịch sử Việt Nam. Hành động thần phục là dấu hiệu chấp nhận vị trí chư hầu của Việt Nam đối với Trung Quốc trong một hệ thống phân cấp quốc gia, và Hà Nội tiếp tục thần phục Bắc Kinh. Hai ví dụ gần đây là chuyến viếng thăm Trung Quốc của Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh trong lúc đang có cuộc khủng hoảng giàn khoan. Ông Minh đã mượn hội chợ thương mại tại Nam Ninh, để sang thăm Trung Quốc trước khi đến Hoa Kỳ vào tháng chín năm 2014. Trong tháng Mười, ông Thanh dẫn đầu một phái đoàn mười ba sĩ quan cao cấp sang Trung Quốc, trước chuyến thăm Việt Nam, đã lên kế hoạch từ lâu, của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong tháng Mười Một.

Trong khi chuẩn bị dự phòng cho một cuộc thách đố quân sự với Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam hy vọng rằng liên kết về mặt ý thức hệ sẽ tránh được kết quả tệ hại và giúp cô lập, chia ngăn, và làm giảm bớt xung đột. Khẳng định dựa trên tình đoàn kết giữa hai chế độ cộng sản, chiến lược này được giới lãnh đạo quân đội và phe bảo thủ trong đảng Cộng sản ủng hộ mạnh mẽ. Những suy nghĩ cơ bản này đã được tướng Lê Văn Dũng, lúc đó là người đứng đầu Tổng cục Chính trị của Quân đội Nhân dân Việt Nam, phát biểu rõ ràng. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 12 năm 2009, ông Dũng cho biết:

“Về vấn đề của chúng tôi với Trung Quốc ở Biển Đông, chúng tôi đang cố gắng hết sức để giải quyết, và trong tương lai gần, chúng tôi sẽ thảo luận, đàm phán, và phân định ranh giới trên biển với người bạn của chúng tôi. Vì vậy, tình hình sẽ dần dần được ổn định và chúng tôi tiếp tục tăng cường quan hệ với Trung Quốc để chống lại kẻ thù chung.”

Mặc dù với sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là việc đưa giàn khoan HSYS-891 vào vùng biển Việt Nam trong mùa hè năm 2014, đã phá vỡ niềm tin của Việt Nam với Bắc Kinh, giới lãnh đạo quân sự tại Hà Nội vẫn tiếp tục bám víu vào sự đoàn kết như một chiến lược để đối phó với Bắc Kinh và vấn đề Biển Đông.

Không có một chiến lược nào được theo đuổi đến tận cùng của khả năng, và cường độ với phạm vi mà chúng đã được áp dụng thay đổi qua thời gian. Phần lớn khoảng thời gian giữa năm 1990 và 2008, Việt Nam đã không làm gì để quốc tế hóa vấn đề này. Chiến lược nổi bật nhất trong giai đoạn này việc yên lặng và từ từ chiếm đóng với sự hiện diện của các lực lượng ở đảo, tự kiềm chế và tự chế, và đoàn kết. Mức độ tăng căng thẳng kể từ năm 2009 đã làm thay đổi cường độ và phạm vi ứng dụng của các chiến lược của Việt Nam, với một tập trung vào việc tăng cường hiện nay về sự hiện diện và các lực lượng và việc quốc tế hóa vấn đề. Nhìn chung, cách giải quyết vấn để Biển Đông của Việt Nam là kết hợp răn đe với sự hợp tác. Trong khi có tác dụng ổn định, biện pháp “bảo hiểm rủi ro” này có vấn đề riêng của nó: Vừa hợp tác vừa đấu tranh làm xói mòn uy tín của cả hai. Với sự căng thẳng ngày càng tăng trong những năm gần đây, phương pháp bảo hiểm rủi ro này đã được chứng minh ngày càng vô hiệu, tạo nên sự thất vọng ngày càng tăng với chính sách này.

Cam kết của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là nước bên ngoài nổi bật nhất trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông vì sự quan tâm đặc của họ tới khu vực. Từ năm 2010, giới lãnh đạo Mỹ đã nhiều lần tuyên bố rằng Washington có “lợi ích quốc gia lớn” trong sự tự do hàng hải và có một “quan tâm lớn” trong việc giải quyết một cách hòa bình và hợp pháp các tranh chấp đó. Cả hai, nền kinh tế Mỹ và thế lực của Mỹ trên toàn cầu và sức mạnh tối cao ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương phụ thuộc vào mức độ của tự do và hòa bình trên đường hàng hải đi qua Biển Đông.

Thực tế, tác động của một cuộc phong tỏa ở Biển Đông vào nền kinh tế Mỹ sẽ đáng kể nhưng không phải là quá cao. Ít hữu hình hơn nhưng quan trọng hơn là vai trò của Biển Đông đối với sức mạnh của Mỹ trên toàn cầu. Uy lực của hải quân của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông là một phần quan trọng, là chìa khóa cho sực mạnh thượng đỉnh của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và đây lại là một cột trụ chính giữ gìn trật tự của khối thế giới tự do mà Mỹ dẫn đầu. Dù quan trọng như thế, liên kết từ Biển Đông đến lợi ích của Hoa Kỳ không trực tiếp và không phải là rất rõ ràng và hữu hình. Vì vậy, thực tế này là một vấn đề gây khó khăn hơn trong việc thuyết phục công chúng Mỹ về tầm quan trọng của Biển Đông đối với lợi ích của họ.

Cam kết của Mỹ ở Biển Đông được giới hạn vì nhu cầu của Mỹ cần thời gian để thở sau hai cuộc chiến tranh tốn kém và một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trung Quốc đã hành động để tận dụng lợi thế của khoảng trống quyền lực ảo này, tăng cường hành động xét lại của họ trong khu vực. Tuy nhiên, khi những hành động của chủ nghĩa xét lại này trở nên rõ hơn với công chúng Mỹ, cam kết của Mỹ đối với khu vực quan trọng này có thể một lần nữa được củng cố.

Vai trò của Nhật Bản

Lợi ích của Nhật Bản ở Biển Đông bắt nguồn chính từ sự phụ thuộc vào đường hàng hải trong khu vực và sự lựa chọn trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu. Nếu Trung Quốc chế ngự điểm nút này, nó sẽ có tùy tiện tắt công tắc khoảng 60 phần trăm các nguồn cung cấp năng lượng của Nhật Bản, và nó có khả năng sẽ thay thế Hoa Kỳ là nước viện trợ và lãnh đạo của một trật tự khu vực mới. Một trật tự khu vực do Trung Quốc dẫn đầu rất có thể sẽ có ít tự do và thuận lợi cho Nhật hơn thứ trật tự hiện nay do Mỹ dẫn đầu. Nhật Bản do đó đã cùng chia sẻ với cả Hoa Kỳ và Việt Nam quan tâm lớn trong việc duy trì hiện trạng trong khu vực. Vai trò Nhật Bản có thể giữ trong việc duy trì sự ổn định ở Biển Đông?

Đầu tiên, Nhật Bản – và cả Hoa Kỳ, trong vấn đề này – không thích hợp đóng vai trò một người môi giới lương thiện trong các cuộc tranh chấp. Người nhà môi giới trung dung phải được đôi bên đang tranh chấp tin cậy, và Nhật Bản hẳn không phù hợp trong vai trò đó đối với Trung Quốc, đặc biệt vì những tranh chấp riêng giữa Nhật Bản với Trung Quốc ở vùng biển phía đông Trung Quốc.

Thứ hai, Nhật Bản là không thể đóng vai trò của một lực cản bên ngoài. Thiếu vũ khí hạt nhân và có thể phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế hơn là Trung Quốc phụ thuộc vào mình, Nhật Bản đơn giản là không thể ngăn chặn được Trung Quốc, nói chung.
Giữ thế cân bằng, do đó, vẫn là vai trò duy nhất mà Nhật Bản có thể phụ trách. Nhật Bản sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam chống lại Trung Quốc, bằng chứng là việc cấp tàu bảo vệ bờ biển làm quà Tokyo tặng cho Việt Nam trong cuộc khủng hoảng giàn khoan với Trung Quốc hồi mùa hè 2014. Nhưng Nhật Bản, thậm chí khi kết hợp lực lượng với Việt Nam, liệu có đủ năng lực để cân bằng Trung Quốc hay không? Đây là một câu hỏi thú vị cần nghiên cứu nhiều hơn, nhưng chỉ nhìn vào sức mạnh quân sự và kinh tế tổng hợp của hai nước cho thấy rằng họ không thể kháng cự được với Trung Quốc. Trung Quốc có một số lợi thế quan trong hơn liên minh Nhật Bản-Việt Nam, rõ ràng nhất là các vũ khí hạt nhân của TQ và vai trò trung tâm của nó trong nền kinh tế của châu Á.

Vai trò có hiệu quả nhất vủa Nhật Bản trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông là tạo điều kiện cho một liên minh giữa Hoa Kỳ, Việt Nam, Philippines và các nước khác cùng chia sẻ lợi ích chung trong việc duy trì hiện trạng. Chỉ có một liên minh do Mỹ dẫn đầu có thể cân bằng sức mạnh của Trung Quốc trong khu vực. Với quyền lợi lớn của mình ở Biển Đông – và ý thức về quyền lợi đó trong giới tinh hoa của nó – Nhật Bản có thể sẽ sẵn sàng đóng vai trò này. Nhưng có một vấn đề với giới lãnh đạo liên minh: Với khoảng cách địa lý và tâm lý với Biển Đông, Washington có thể là thành viên ít sẵn sàng nhất của liên minh này. Đây có thể là một yếu tố có thể ngăn chặn liên minh này đơn phương leo thang xung đột, nhưng nó cũng có thể là một yếu tố khuyến khích Trung Quốc đánh giá thấp quyết tâm của đối thủ của mình và trở nên khiêu khích đáng ngại.

Điều đó lại cho thấy tiềm năng của một kỷ nguyên mới của bất ổn và căng thẳng ở Biển Đông, với mỗi phe quyền lợi đóng vai trò riêng của họ.

Alexander L. Vuving là Phó giáo sư tại Trung tâm châu Á-Thái Bình Dương Nghiên cứu về An ninh tại Honolulu. Các quan điểm thể hiện trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trung tâm châu Á-Thái Bình Dương Nghiên cứu về An ninh, Bộ Quốc phòng Mỹ, và Chính phủ Hoa Kỳ.

© 2014 DCVOnline

Nguồn: Vietnam, the US, and Japan in the South China Sea. By Alexander L. Vuving. The Diplomat. November 26, 2014






No comments:

Post a Comment