Đông
Bình
dịch
Được
đăng ngày Thứ hai, 01 Tháng 12 2014 16:22
Bài
viết đề nghị Mỹ tăng cường giúp các nước ven Biển
Đông tăng cường năng lực an ninh, thực hiện cam kết
đồng minh, tăng cường hiện diện hải không quân...
Tờ
"Hoàn Cầu" Trung Quốc ngày 28 tháng 11 dẫn trang
mạng War on the Rocks ngày 25 tháng 11 đăng bài viết của
Thiếu tướng nghỉ hưu Hải quân Mỹ Michael McDevitt, nhà
nghiên cứu cấp cao CNA Công ty điều tra nghiên cứu Mỹ.
Bài
viết cho rằng, khi mọi người suy nghĩ về một cuộc
xung đột lớn sẽ nổ ra ở đâu, thường sẽ để mắt
tới Biển Đông - khu vực có tính chất bùng nổ nhất,
khó quản lý nhất trên thế giới, chủ trương chủ quyền
của nhiều nước chồng lấn lên nhau ở đây. Đứng
trước tình hình căng thẳng giữa Trung Quốc, Philippines
và Việt Nam cùng với xung đột trực tiếp giữa Trung-Mỹ,
Mỹ nên làm thế nào mới có thể tìm được sách lược
giải quyết hòa bình ?
Đối
với vấn đề này, bài viết kiến nghị Mỹ phản hồi
với đề nghị của các nước Châu Á-Thái Bình Dương,
giúp họ cải thiện năng lực an ninh và duy trì trật tự
trên biển, đồng thời thông qua nỗ lực tập trung và
lâu dài để cam kết cải thiện sức mạnh trên biển cho
lực lượng vũ trang Philippines.
Hơn
nữa, Washington cần hiện diện để thúc đẩy sự ổn
định, không thể tìm cách trực tiếp đối đầu với
Trung Quốc. Sự hiện diện của Hải quân và Không quân
Mỹ ở Biển Đông phải trở thành trạng thái thường
xuyên.
Hải
quân Mỹ cũng cần gia tăng thời gian diễn tập với các
nước ven biển, đồng thời mở rộng quốc gia tham gia
diễn tập tới các nước Châu Á khác có liên quan tới
sự ổn định khu vực như Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc
và Ấn Độ.
Tranh
chấp lãnh thổ Biển Đông ngày càng nghiêm trọng
Những
vấn đề này của Biển Đông hoàn toàn không mới mẻ,
chính sách đầu tiên có liên quan đến tranh chấp Biển
Đông của Mỹ được đưa ra vào năm 1995. Chính sách hiện
nay cũng hầu như không thay đổi gì, đó chính là sử
dụng phương thức ngoại giao hòa bình, phi cưỡng chế để
bảo vệ ổn định khu vực, bảo đảm tự do và thông
suốt tuyến đường hàng hải bận rộn nhất thế giới
này.
Điểm
khác ở chỗ, sau khi trải qua 10 năm tương đối yên tĩnh,
Biển Đông đã trở thành khu vực tranh chấp nổi cộm,
khả năng nổ ra xung đột tiềm tàng tăng lên, đã tạo
ra nhân tố bất ổn cho khu vực Đông Nam Á. Mỹ có thể
sẽ trực tiếp can dự, bởi vì, Philippines - quốc gia có
đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông là đồng minh ký hiệp
ước với Mỹ.
Ở
khu vực Biển Đông, có khoảng 180 đặc trưng địa mạo
nổi trên mặt nước khi có thủy triều. Những nham thạch,
chỗ nước cạn, cồn cát, đá ngầm, san hô cùng với
những đất bồi và địa mạo dưới nước vô danh phân
bố ở 4 phương vị địa lý khác nhau ở vùng biển này.
Toàn
bộ hoặc một phần những địa mạo này do Trung Quốc,
Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei tuyên bố có chủ
quyền. Yêu sách của Trung Quốc bao trùm tất cả địa
mạo của Biển Đông. Nguyên tắc căn bản trong chính sách
của Mỹ chính là Washington hoàn toàn không giữ lập
trường đối với pháp lý của những chủ trương khác
nhau này.
Tại
sao có người quan tâm, đặc biệt là Trung Quốc muốn có
nhiều hơn những đảo đá hoang vu này ? Đối với những
nước đòi hỏi chủ quyền này, một phần đặc trưng
địa mạo lại có giá trị chiến lược quan trọng, đủ
để xây dựng đường băng có thể cất hạ cánh máy bay
phản lực chiến thuật, hơn nữa có thể kết nối với
tuyến đường thương mại trên biển bận rộn nhất thế
giới.
Nói
tóm lại, giành được chủ quyền những địa điểm này
có nghĩa là đã tìm được điểm đứng chân để can
thiệp thương mại của Trung Quốc hoặc các nước khác
của khu vực Đông Bắc Á. Mặc dù không có nhiều khả
năng lắm, nhưng bất kể thế nào, ý nghĩa chiến lược
của những hòn đảo trên Biển Đông này từ Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất trở đi luôn làm cho các nhà
chiến lược ghi nhớ.
Ngoài
ra, có chủ quyền còn có thể chiếm hữu tài nguyên ở
vùng biển xung quanh - hoặc là lãnh hải 12 hải lý, hoặc
là vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (nếu coi địa
mạo này là đảo). Những đặc trưng địa mạo nổi trên
mặt nước khi có thủy triều này liên quan chặt chẽ tới
quyền lợi hàng hải, bao gồm có quyền sử dụng nghề
cá, hydro carbon và tài nguyên khoáng sản dưới lòng biển.
Vì vậy, chủ nghĩa dân tộc là rất quan trọng (đặc
biệt là đối với Trung Quốc), bởi vì giương cao ngọn
cờ lớn "chủ quyền lãnh thổ" thì có thể hạn
chế quyền lựa chọn của nước chủ trương chủ quyền
khác.
Trung
Quốc đã kiểm soát tất cả khu vực có tranh chấp ở
phía bắc Biển Đông. Năm 1974, Trung Quốc cất quân xâm
lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (bài báo xuyên
tạc là "xua đuổi cưỡng ép lực lượng Việt Nam
cộng hòa") và đã kiểm soát nó (một cách bất hợp
pháp), đồng thời bất chấp chủ trương chủ quyền liên
tục của Việt Nam, chưa từng có dấu hiệu muốn rút
lui.
Năm
2012, Trung Quốc tiếp tục "kiểm soát an toàn" bãi
cạn Scarboroug ( thực chất là cướp đoạt từ tay
Philippines), hơn nữa không có nhiều khả năng từ bỏ
trước sự phản đối của Manila. Điều này cho thấy,
quần đảo Trường Sa là địa mạo tranh chấp còn lại
chưa bị Trung Quốc xâm chiếm thực tế trên Biển Đông.
Hành
động của Trung Quốc ở Biển Đông đã giải thích "rất
tốt" cái gì là "cưỡng chiếm hòa bình".
Trung Quốc thận trọng tránh để hải quân trực tiếp
can thiệp, chuyển sang dựa vào lực lượng hải cảnh và
tàu cá để thực hiện chiến lược "cắt xúc xích",
những thủ đoạn nho nhỏ và dần dần gia tăng này sẽ
không gây ra "đáp trả quân sự" của nước đòi
hỏi chủ quyền khác, nhưng về lâu dài có thể làm "thay
đổi hiện trạng theo ý đồ của Trung Quốc".
Trung
Quốc đánh dấu "đường chín đoạn" trên bản
đồ Biển Đông (một cách bất hợp pháp) đã làm gia
tăng rất lớn tính nghiêm trọng của vấn đề chủ
quyền, nó đã bao quát 80% diện tích Biển Đông, đồng
thời đã xâu xé vùng đặc quyền kinh tế của các bước
ven biển khác.
Trong
mấy năm qua, hành vi cứng rắn (hung hăng, hăm dọa) của
Trung Quốc cho thấy, "đường chín đoạn" không
chỉ là chú thích bản đồ về yêu sách lãnh thổ (bất
hợp pháp) của Trung Quốc, mà là tìm cách tuyên bố Trung
Quốc (cái gọi là) có "quyền lợi mang tính lịch sử"
đối với nghề cá và tài nguyên dầu khí của khu vực
này, ý đồ rõ ràng này của Trung Quốc đã liên tục gây
ra xung đột với các nước láng giềng.
Mỹ
đưa ra nhiều chính sách Biển Đông
Từ
mùa hè năm 2010, chính quyền Obama cho biết rõ, đảm bảo
tính ổn định dựa trên quy tắc ở Biển Đông là quan
trọng hàng đầu trong chính sách quốc gia của Mỹ. Chính
phủ Mỹ một mặt thông qua ngoại giao, một mặt tăng
cường quan hệ quân sự với Việt Nam, Philippines,
Malaysia, Indonesia, hy vọng thông qua phương thức kết hợp
hai con đường trên để thực hiện chính sách quốc gia
này.
Mỹ
còn quan tâm đến quyền đi lại tự do ở Biển Đông.
Washington cho rằng, Công ước Liên hợp quốc về Luật
biển cho phép bất cứ nước nào thực hiện quyền tự
do đi lại ở vùng đặc quyền kinh tế của bất cứ nước
nào. Những quyền lợi tự do này đặc biệt cần áp dụng
cho hoạt động quân sự hòa bình, bao gồm thực hiện
quyền giám sát, theo dõi.
Trung
Quốc không đồng ý đối với vấn đề này, cho rằng,
điều này hoàn toàn không phải là hoạt động hòa bình.
Sự phản đối của Trung Quốc đã gây ra 2 sự kiện
nghiêm trọng: Sự kiện va chạm trên không giữa máy bay
trinh sát Hải quân Mỹ và máy bay chiến đấu đánh chặn
của Hải quân Trung Quốc vào năm 2001 và sự kiện tàu cá
và tàu bán quân sự của Trung Quốc quấy rối tàu
Impeccable của Hải quân Mỹ vào năm 2009. Gần đây, Trung
Quốc đã đánh chặn cự ly gần rất nguy hiểm đối với
máy bay tuần tra hàng hải P-8 của Hải quân Mỹ, tiếp
tục gây ra sự cố ngoại giao.
Mỹ
ký kết Hiệp ước quốc phòng với Philippines là một
nghĩa vụ quan trọng. Một khi Trung Quốc tấn công Hải
quân hoặc tàu cảnh sát biển Philippines, bắn rơi máy bay
quân dụng Philippines hoặc gây thiệt hại cho lực lượng
vũ trang Philippines, điều khoản "tấn công lực lượng
vũ trang Philippines và máy bay, tàu công cộng Thái Bình
Dương" liên quan trong hiệp ước sẽ có hiệu lực.
Cuối
cùng, vấn đề quan trọng khác liên quan đến Washington
cũng liên quan đến Trung Quốc, bao gồm chấm dứt chương
trình hạt nhân của Iran và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên; giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu;
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư
v.v... Sự đan xen của những lợi ích quan trọng này đã
hình thành bối cảnh lớn của quan hệ Mỹ-Trung, rất rõ
ràng, vấn đề Biển Đông không nên trở thành nhân tố
quan trọng của toàn bộ quan hệ Mỹ-Trung.
Hiện
nay, chính sách Biển Đông của Mỹ bao gồm: bất cứ
nước đòi hỏi chủ quyền nào đều không được sử
dụng vũ lực và biện pháp cưỡng chế để giải quyết
tranh chấp chủ quyền hoặc làm thay đổi hiện trạng khu
vực tranh chấp Biển Đông; tự do đi lại bao gồm quyền
đi lại hợp pháp không gây trở ngại của tàu thương
mại, tàu cá nhân, tàu quân sự và máy bay.
Các
nước ven biển cần phải tôn trọng "tự do ở vùng
biển quốc tế" theo quy định của Công ước Liên
hợp quốc về Luật biển, bao gồm cho phép tiến hành
hoạt động quân sự hòa bình ở vùng đặc quyền kinh tế
của các nước ven biển; tất cả quyền lợi biển của
khu vực Biển đông phải lấy luật pháp quốc tế làm
nền tảng, phải lấy đặc trưng địa mạo của Biển
Động làm căn cứ.
"Đường
chín đoạn" của Trung Quốc không phù hợp với tiêu
chuẩn này; Mỹ không giữ lập trường đối với đúng
sai liên quan của tranh chấp chủ quyền, không ủng hộ
chủ trương của một nước áp đặt cho nước khác; xây
dựng quy tắc hành vi có hiệu quả là rất quan trọng,
điều này có lợi cho hình thành khung quy tắc quản lý và
điều chỉnh hành vi của các nước liên quan ở Biển
Đông.
Đây
là một gói chính sách sáng suốt, tương đối toàn diện
và cân bằng có liên quan đến lợi ích của Mỹ. Cùng
với sự thay đổi của thời gian, phát ngôn phổ biến
của chính phủ sẽ trở nên cụ thể hơn, "trở nên
phi ngoại giao" hơn; hiện nay, Mỹ nói rõ hành vi của
Trung Quốc là "phá hoại sự ổn định" và "ỷ
mạnh hiếp yếu". Việc giải thích chính sách của Mỹ
cũng sẽ dựa vào quy tắc và trở nên cụ thể hơn, nó
chỉ rõ "đường chín đoạn" là thứ có tính phá
hoại nhất ở Biển Đông.
Mặc
dù chính sách của chính quyền Obama được cho là sáng
suốt, cân bằng, nhưng bị hai phe tả và hữu phê phán,
họ cho rằng chính sách này không đủ "cứng rắn"
đối với Trung Quốc. Lý do của những người phê phán
rất đơn giản, Mỹ khuyên Trung Quốc tuân thủ quy tắc,
chấm dứt gây sức ép đối với những nước có chủ
trương chủ quyền khác, tìm kiếm bên thứ ba phán quyết
công bằng để giải quyết tranh chấp, nhưng Trung Quốc
hoàn toàn coi thường đối với vấn đề này. Bắc
Kinh rõ ràng cho rằng "lợi ích quốc gia" cao
hơn tuân thủ luật pháp quốc tế.
Mỹ
cần duy trì hiện diện hải, không quân thường xuyên ở
Biển Đông
Trên
phương diện quán triệt chính sách, là sự bổ sung cho
chính sách hiện có, phương châm chỉ đạo chính sách
tổng thể của Mỹ cần bao gồm các nguyên tắc sau: Vấn
đề Biển Đông không phải là nhân tố chiến lược quan
trọng của quan hệ tổng thể Mỹ-Trung; vấn đề Biển
Đông còn chờ giải quyết; nhưng sắp tới không có nhiều
khả năng lắm giải quyết dứt điểm ngay; kết quả đàm
phán không có mô hình lựa chọn trước.
Không
nên coi nhẹ hoặc từ bỏ đàm phán song phương. Tuyên bố
chồng lấn của nhiều nước là tình hình thực tế, nên
do các nước đòi hỏi chủ quyền trực tiếp đàm phán
giải quyết; chính sách của Mỹ không nên thiên về một
bên "chống Trung Quốc".
Mỹ
cần hành động sau khi được trao quyền, cùng với việc
phê phán hành vi của Trung Quốc, cũng cần phê phán hành
vi của đồng minh Mỹ, nhưng cần cảnh giác Trung Quốc có
thể sẽ tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ địa
mạo của khu vực này; Mỹ không nên tuyên bố không có
kế hoạch dự bị, chính sách có độ tin cậy không cao.
Nói tóm lại, không nên phô trương thanh thế.
Mỹ
nên xuất bản sách trắng tổng hợp hoặc một loạt sách
trắng, bao quát các loại luật lệ quốc tế áp dụng cho
vấn đề Biển Đông, lấy tăng cường chính sách hiện
nay của Mỹ là nhấn mạnh đối với luật pháp quốc tế,
là cơ sở để xây dựng một sự ổn định dựa trên
các quy tắc. Bởi vì, quan tâm đến luật pháp quốc
tế luôn là trung tâm chính sách của Mỹ, những văn kiện
quốc gia này cần do Bộ Ngoại giao ký kết và tuyên
truyền thích hợp.
Tháng
1 năm 2013, chính phủ Philippines đưa vụ kiện Trung Quốc
lên ủy ban trọng tài, yêu cần đưa ra phán quyết -
"đường chín đoạn" Trung Quốc nhằm vào địa
mạo dưới mặt nước của thềm lục địa Philippines
phải chăng phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về
Luật biển, đã kiện Trung Quốc lên tòa án "có hiệu
quả". Ủy ban trọng tài phải đưa ra phán đoán phải
chăng có quyền xét xử. Bộ Quốc phòng Mỹ cần xem xét
ra tuyên bố, ủng hộ mạnh mẽ ủy ban có quyền xét xử
này, như vậy Philippines có thể "chứng minh sự minh
bạch của họ ở tòa án".
Các
nhà quyết sách Mỹ cần cùng với ASEAN, Trung Quốc tìm
kiếm khả năng xây dựng "khu khai thác chung ở quần
đảo Trường Sa" ( ?), để khai thác tài nguyên dầu
khí của khu vực này. Mục đích ở chỗ tìm được một
phương thức thích hợp, cho phép các nước chia sẻ tài
nguyên thiên nhiên trên cơ sở không gây thiệt hại cho
chủ quyền biên giới cuối cùng trên biển.
ASEAN
thường không hoan nghênh lực lượng bên ngoài can thiệp
quyết định ngoại giao của họ, nhưng, hành vi trì hoãn
của Trung Quốc đã làm cho việc xây dựng bộ quy tắc
(COC) bị cản trở, các nhà quyết sách Mỹ cần nỗ lực
xem ASEAN phải chăng hoan nghênh Mỹ tham gia vào thúc đẩy
xây dựng COC.
Để
giúp đỡ những nước nhỏ ven biển này tự lập,
Washington cần phản hồi những đề nghị của họ, giúp
họ cải thiện năng lực an ninh và bảo đảm trật tự
trên biển, hơn nữa thông qua nỗ lực tập trung và lâu
dài để cam kết cải thiện sức mạnh trên biển cho lực
lượng vũ trang Philippines.
Kế
hoạch "răn đe tin cậy tối thiểu" do
Mỹ-Philippines thỏa thuận (về lực lượng vũ trang
Philippines) phải được Mỹ ra sức ủng hộ. Đương
nhiên, Washington cũng không thể mở rộng nội hàm hiệp
ước quốc phòng, ủng hộ Philippines thúc đẩy chủ quyền
đối với khu vực gần quần đảo Trường Sa (thuộc chủ
quyền của Việt Nam).
Trạng
thái quân sự đã định của Mỹ phải được cải thiện
cùng với sự phát triển của chiến lược "tái cân
bằng", Washington muốn thông qua hiện diện để thúc
đẩy sự ổn định, thì không thể tìm cách đối đầu
trực tiếp với Trung Quốc. Trọng điểm ở chỗ, mục
tiêu "tái cân bằng" về quân sự là phải bảo
đảm Mỹ có quyền can dự Đông Á bất cứ lúc nào, đồng
thời qua đó để thực hiện chức trách an ninh đối với
đồng minh. Nói một cách trực tiếp, sự hiện diện của
Hải quân và Không quân Mỹ ở Biển Đông phải trở
thành trạng thái bình thường.
Hải
quân Mỹ còn nên gia tăng thời gian diễn tập với các
nước ven biển, đồng thời mở rộng đối tượng tham
gia diễn tập tới các nước Châu Á khác liên quan đến
tính ổn định của khu vực như Nhật Bản, Australia, Hàn
Quốc và Ấn Độ.
Kết
luận
Ấn
tượng để lại từ chính sách của Trung Quốc hoàn toàn
không đáng đánh giá cao, những chính sách này làm cho các
nước láng giềng khó mà chấp nhận, chỉ có thể thông
qua tìm kiếm viện trợ để tăng cường cảm giác an
ninh.
Nói
tóm lại, người Trung Quốc thiếu tự biết mình, điều
này làm cho một số quan chức Mỹ nghi ngờ Trung Quốc
phải chăng biết cái gì là có lợi - hành động của
Trung Quốc hoàn toàn không thể đem lại lợi ích tối đa
cho họ. Trung Quốc rõ ràng biết họ đang làm gì, nhà
lãnh đạo Trung Quốc có thể đọc hiểu bản đồ.
Tình
hình thực tế về địa lý là, địa mạo và tài nguyên
của các nước chủ trương chủ quyền khác ở Biển Đông
luôn bao phủ bởi bóng đen Trung Quốc. Trung Quốc đã là
đối tác thương mại lớn nhất của các nước láng
giềng Đông Nam Á, quan hệ kinh tế giữa họ đang được
Trung Quốc vun cho "ngày càng chặt chẽ".
Điều
quan trọng là phải ý thức được phương thức xử lý
vấn đề Biển Đông của Tập Cận Bình. Ở Trung Quốc,
chính trị trong nước thông thường cao hơn chính sách
đối ngoại. Tuyên bố chủ quyền cứng rắn đã cung
cấp sự hỗ trợ chính trị quan trọng cho ông Tập Cận
Bình, đã che giấu những khó khăn gặp phải trong các vấn
đề như điều chỉnh kinh tế, chống tham nhũng, suy thoái,
hạn chế quyền lợi của các "quan lớn, tướng
lĩnh".
Những
vấn đề này và sự thực Trung Quốc là lực lượng quân
sự lớn nhất Châu Á đã cùng tạo dựng nên hình thái
chính sách Biển Đông của Bắc Kinh. Tính năng của vũ
khí thông thường Trung Quốc vượt các nước láng giềng,
bao gồm cả Ấn Độ, sự thực này sẽ luôn tồn tại,
ít nhất sẽ tồn tại trong tương lai gần.
Đến
nay, hành động của Trung Quốc ở Biển Đông vẫn chưa
gây thiệt hại cho kinh tế, các nước láng giềng của
Trung Quốc vẫn tìm cách cải thiện quan hệ. Bắc Kinh
hiểu rõ, các nước láng giềng nhỏ hơn không sẵn sàng
buộc phải lựa chọn đứng về một bên giữa Trung-Mỹ,
họ hy vọng có quan hệ tốt đẹp với cả hai nước. Đã
là những nước nhỏ này mãi mãi đều là láng giềng của
Trung Quốc, thì so với việc Trung Quốc cần họ, họ sẽ
cần Trung Quốc hơn.
Những
sự thực này chính là nguyên nhân chính sách hiện có của
Mỹ khó mà giải quyết vấn đề Biển Đông. Hy vọng
những điều nêu trên đã kết hợp các biện pháp chính
sách ngoại giao, pháp lý, xây dựng năng lực và hiện
diện quân sự, có thể cải thiện phương thức giải
quyết hiện nay, thúc đẩy Bắc Kinh suy nghĩ lại phương
châm chiến lược Biển Đông của họ, làm dịu tình hình
căng thẳng Biển Đông. Hiện nay, động lực tích cực
giai đoạn hậu APEC có thể đánh dấu một giai đoạn
khởi đầu của thời kỳ tương đối ổn định của
Biển Đông.
Michael
McDevitt
Đông Bình dịchTheo GDVN
Đông Bình dịchTheo GDVN
No comments:
Post a Comment