05/12/2014
Ngày
5/5/2014 Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an thực hiện
Lệnh khám xét khẩn cấp và Lệnh bắt khẩn cấp đối
với Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy, chính
thức mở đầu một
vụ án mắc nhiều sai phạm về tố tụng. Mấy vi phạm
thủ tục tố tụng đã được trình bày trong Kiến
nghị đình chỉ vụ án, được bà Lê Thị Minh Hà (vợ
ông Nguyễn Hữu Vinh) gửi Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình vào ngày 21/11/2014.
Sai phạm mới nhất bị vạch trần trong Đơn
tố cáo của Luật sư Hà Huy Sơn gửi Chủ nhiệm Ủy ban
Tư pháp Quốc hội ngày 01/12/2014, về việc Đại tá Giám
thị Trại tạm giam B14 Đoàn Văn Tình cản trở quyền
hành nghề hợp pháp của Luật sư.
Đương
nhiên, suốt một thời gian dài trước khi tiến hành khám
xét và bắt người, công an đã ngầm theo dõi và điều
tra hoạt động của ông Nguyễn Hữu Vinh (thường được
bạn đọc biết đến dưới tên “anh
Ba Sàm”).
Ngày
30/10/2014, tức là gần 6 tháng sau khi bắt giam đối tượng,
Cơ quan An ninh điều tra ra Bản
kết luận điều tra vụ án “Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Thời
gian điều tra dài như vậy đã quá đủ để hiểu rõ mọi
“chân
tơ kẽ tóc”
của vụ án khá đơn giản, vì phần lớn chứng cứ được
dùng để quy kết tội phạm đều được bị can công
khai trên internet từ lâu. Ấy vậy mà Bản kết luận điều
tra lại mắc phải những lỗi không thể chấp nhận, như
được trình bày trong năm phần tiếp theo, dưới các tiêu
đề “Buộc
tội vu vơ“,
“Chứng cớ ngu ngơ“,
“Điều tra giả vờ“,
“Giám định lơ mơ“
và
“Hồ sơ mập mờ“.
Buộc
tội vu vơ.
.
Về
tội trạng của bị can, Bản
kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra viết
rằng Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy đã đăng
trên hai blog “DÂN
QUYỀN”
và “CHÉP
SỬ VIỆT”
“24
bài viết có nội dung sai sự thật, không có căn cứ;
tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ các cá nhân,
làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức; đưa
ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng, làm
ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối
với sự lãnh đạo đất nước của Đảng, Chính phủ,
Quốc hội và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.”
Nội
dung buộc tội trên được copy & paste đến năm lần:
Một lần ở trang 3, hai lần ở trang 6, một lần tại
trang 7 và một lần tại trang 8. Song điệp khúc ấy càng
được ngân lên thì lại càng vang vọng… vu vơ.
“Nội
dung sai sự thật, không có căn cứ”
là những nội dung nào? Nhà cầm quyền vẫn thường dung
túng vô số “nội
dung sai sự thật, không có căn cứ”
trên báo chí “chính
thống”,
tức là báo chí của các cơ quan nhà nước, hay báo chí
của các tổ chức được chính quyền thừa nhận và kiểm
soát. Thay vì tự kiểm điểm, thì lại thản nhiên quy kết
tội ấy cho “Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng bọn”.
“Đường
lối, chính sách của Đảng”
nào bị “tuyên
truyền xuyên tạc”?
Hài hước nhất là cái tội “xuyên
tạc… pháp luật của Nhà nước”.
Quả thực, có thể coi cách hành xử vi hiến, phi pháp của
các cơ quan nhà nước là một hình thức “xuyên
tạc… pháp luật của Nhà nước”.
Còn thường dân thì chỉ có thể hiểu đúng hay hiểu sai
pháp luật, mà dù hiểu sai cũng không thể coi là phạm
tội, chứ người dân có thể “xuyên
tạc… pháp luật”
bằng cách nào?
“Bôi
nhọ các cá nhân”
nào và “bôi
nhọ”
ra sao? Dù tự thân họ đã “nhọ”,
thì những người phản ánh sự “nhọ”
vẫn bị coi là phạm tội “bôi
nhọ”
hay sao? Và khi họ đã “nhọ”
hết mức, thì thiên hạ có thể “bôi
nhọ”
hơn nữa hay không?
“Làm
ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức”
nào và ảnh hưởng ra sao? Khi chúng đã tự hủy hoại uy
tín của mình một cách triệt để, thì có cần và có
thể “làm
ảnh hưởng”
hơn nữa hay không?
“Đưa
ra cái nhìn… một chiều”
chính là truyền thống và nghiệp vụ sở trường của
guồng máy tuyên truyền quốc doanh. Nhiều khi “cái
nhìn lạc quan tếu một chiều”
mà họ gieo rắc có thể gây ra tác hại còn lớn hơn “cái
nhìn bi quan một chiều”,
bởi vì trạng thái lạc
quan tếu
dẫn đến chủ
quan
thường có hại hơn so với trạng thái bi
quan
khiến người ta thận
trọng.
Thế thì tại sao lại buộc tội “Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng bọn”
về việc “đưa
ra cái nhìn bi quan một chiều”?
Chỉ
những kẻ vô trách nhiệm hoặc vô tri vô giác mới không
cảm thấy lo lắng trước hiện trạng của Đất nước.
Không ai khác, mà nhà cầm quyền phải chịu trách nhiệm
chính về tình trạng ấy, nên họ mới là nhân tố chủ
chốt “gây
hoang mang lo lắng”
cho muôn dân. Sao lại đổ lỗi đó cho “Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng bọn”?
Ai
đã “làm
ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối
với sự lãnh đạo đất nước của Đảng, Chính phủ,
Quốc hội và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”?
Đó chính là thế lực cầm quyền đã đẩy Đất nước
vào con đường bế tắc, lún sâu trong khủng hoảng, bị
tham nhũng xâu xé và bị ngoại bang gặm nhấm. Rõ ràng
như thế, thì sao lại quy tội “làm
ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân”
cho “Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng bọn”?
Tóm
lại, Bản
kết luận điều tra đã buộc
tội hết sức vu vơ,
như ca bài ca muôn thuở, thường được dùng để quy chụp
các ý kiến góp ý, phản biện mà phía cầm quyền không
ưa.
.
Chứng
cứ ngu ngơ
.
Để
chứng minh đống tội tày trời kể trên, Bản
kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra liệt
kê danh sách 12 bài đăng trên blog “DÂN
QUYỀN”
và 12 bài đăng trên blog “CHÉP
SỬ VIỆT”.
Song ngoài tiêu đề bài viết và ngày đăng bài thì chẳng
còn thông tin nào khác. Không hề chỉ ra một chi tiết cụ
thể nào là “sai
sự thật, không có căn cứ”,
hay “tuyên
truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước”.
Không hề có dẫn chứng cụ thể nào về việc “bôi
nhọ các cá nhân, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ
quan, tổ chức”,
hay “đưa
ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng, làm
ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân…”.
Tại
sao lại kết tội chung chung như thế? Phải chăng, họ
nghĩ như thế đã đủ chứng cứ luận tội cho những
thẩm phán quen xử theo “bản
án bỏ túi”,
và cũng đủ tư liệu cho dàn bút chiến chống “thế
lực thù địch”,
đang đợi lệnh để đồng ca bài “xử
đúng người đúng tội, được quần chúng nhân dân đồng
tình ủng hộ”?
Hơn nữa, dừng lại ở việc liệt kê tiêu đề của 24
bài viết là cách hiệu quả nhất để trao cho giới lười
đọc ấn tượng bất lợi cho bị can. Vì những từ ngữ
nặng nề nhất đã xuất hiện trên tiêu đề, còn nội
dung bài viết thường nhẹ nhàng hơn, đôi khi ôn hòa và
sát thực đến mức khó mà khép tội. Chẳng hạn như bài
“Chính
quyền Hà Nội phá thối đám giỗ của Dân tộc”,
đăng trên blog “CHÉP
SỬ VIỆT”
ngày 19/01/2014 (xem Phụ
lục 1).
Đặc
biệt, có những bài được liệt kê trong danh sách 24
chứng cứ tội phạm, nhưng lại chẳng chứa chi tiết nào
có thể buộc tội. Chẳng hạn như bài “Nứt
cầu Vĩnh Tuy nay hay Nhà máy điện hạt nhân tương lai –
chuyện nhỏ như con thỏ với giải pháp… xịt keo”,
đăng trên blog “CHÉP
SỬ VIỆT”
ngày 10/03/2014 (xem Phụ
lục 2).
Để
hiểu hơn về cách nhìn nhận tội phạm của Cơ quan An
ninh điều tra, ta chép ra đây toàn văn phần viết về
“tội
trạng”
của Lê Thị Thanh Loan trong Bản
kết luận điều tra:
“Tháng
8/2012, Nguyễn Hữu Vinh nhận Lê Thị Thanh Loan vào làm kế
toán nội bộ của Công ty VPI. Năm 2013, Nguyễn Hữu Vinh
đặt vấn đề và được Lê Thị Thanh Loan đồng ý giúp
Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy thực hiện một số
công đoạn trong việc điểm tin, đăng bài. Cụ thể là:
Lê Thị Thanh Loan đã truy cập website các báo Thanh niên,
Tiền phong, Đất việt,… lấy bài, tin về các lĩnh vực
chính trị, văn hóa, giáo dục,… Trong đó, chú trọng các
tin tức thời sự trong và ngoài nước nổi bật như tình
hình Thái Lan, Ukraina,… Sau đó, Lê Thị Thanh Loan copy các
bài, tin trên gửi cho Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh
Thúy. Lê Thị Thanh Loan đã scan một số bài báo Thông tấn
xã Việt Nam do Nguyễn Hữu Vinh lựa chọn, sửa lỗi chính
tả, sau đó gửi cho Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh
Thúy. Để chuyển cho Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh
Thúy các tài liệu nêu trên, Lê Thị Thanh Loan đã sử
dụng hai hộp thư điện tử lethanloan.kt@gmail.com,
quacachua1234@gmail.com gửi thư diện tử đến hộp thư điện
tử xaoquacha@gmail.com của Nguyễn Hữu Vinh và hộp thư
điện tử buinhulac70@gmail.com của Nguyễn Thị Minh Thúy.”
Như
vậy, toàn bộ “hành
vi phạm tội”
của Lê Thị Thanh Loan, mà Cơ quan An ninh điều tra xác
định được, chỉ là “truy
cập website các báo Thanh niên, Tiền phong, Đất việt,…
lấy bài, tin về các lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo
dục…”
và “scan
một số bài báo Thông tấn xã Việt Nam do Nguyễn Hữu
Vinh lựa chọn, sửa lỗi chính tả, sau đó gửi cho Nguyễn
Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy”.
Cần
khẳng định rằng: Không có bất kỳ văn bản pháp luật
nào cho phép coi việc lấy
bài, tin từ các báo Thanh niên, Tiền phong, Đất việt…
và scan
một số bài báo của Thông tấn xã Việt Nam
là phạm
tội hình sự.
Hơn nữa, các
cộng sự của Nguyễn Hữu Vinh thu thập tin, bài từ các
báo “chính thống” và Thông tấn xã Việt Nam là để
phục vụ việc điểm tin và đăng bài trên blog “BA SÀM”,
hoàn toàn không liên quan đến hai blog “DÂN QUYỀN” và
“CHÉP SỬ VIỆT” mà Bản kết luận điều tra đề cập.
Ví
dụ, trong tháng
12/2013 (tức là khoảng 5 tháng trước khi Nguyễn Hữu Vinh
bị bắt) blog “BA
SÀM”
đăng toàn văn 50 bài,
được đánh số từ 2136 đến 2185. Trong số đó, chỉ
riêng số bài của Thông tấn xã Việt Nam đã là 25, tức
chiếm đúng 50% (xem Phụ
lục 3).
Ví
dụ khác, mục “Tin
thứ Bảy, 05-04-2014″
trên blog “BA
SÀM”
(tức điểm tin của ngày 05/04/2014 – đúng một tháng
trước khi Nguyễn Hữu Vinh bị bắt), đã điểm 510 bài.
Trong số đó, 375 bài (chiếm 73,73%) là của báo chí “chính
thống”.
Chẳng hạn:
-
34 bài của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV),
-
22 bài của báo Người lao động (NLĐ),
-
19 bài của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN),
-
19 bài của báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (PLTP),
-
18 bài của báo Thanh niên (TN),
-
16 bài của báo Tuổi trẻ (TT),
-
15 bài của báo Tiền phong (TP),
-
14 bài của báo Kiến thức (KT),
-
13 bài của báo Một thế giới (MTG),
-
12 bài của báo An ninh Thủ đô (ANTĐ),
-
12 bài của báo Giáo dục Việt Nam (GDVN),
-
10 bài của Vietnamnet (VNN).
Để
so sánh, trong số 135 bài “ngoài
luồng chính thống”
được điểm tin trên blog “BA
SÀM”
thì các nguồn tin hay bị coi là “thù
địch”
có số bài như sau:
-
21 bài của VOA,
-
17 bài của RFI,
-
15 bài của BBC,
-
8 bài của RFA.
Nghĩa
là số bài của Đài Tiếng nói Hoa kỳ (VOA) được điểm
tin trên blog “BA
SÀM”
vào ngày 05/04/2014 chỉ bằng 21/34 = 61,76% so với số bài
của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV).
Hai
ví dụ trên cho thấy, đa số tin bài mà Nguyễn Hữu Vinh
và cộng sự điểm tin, đăng tải là của báo chí “chính
thống”.
Cho nên, nếu buộc tội Nguyễn Hữu Vinh đăng bài
“có
nội dung sai sự thật, không có căn cứ; tuyên truyền
xuyên tạc…; bôi nhọ…, làm ảnh hưởng đến uy tín…;
đưa ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng,
làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân…”,
thì
phải chăng đó chính là lời buộc tội dành cho báo chí
“chính
thống”?
Cần
nhấn mạnh rằng: Phần
lớn các bài được điểm tin trên blog “BA SÀM” không
hề có lời bình luận nào kèm theo, nên việc điểm tin
chỉ đem lại một tác dụng duy nhất là quảng bá chúng
cho đông đảo bạn đọc.
Thử hỏi, trên Thế giới này còn có nơi nào quảng bá
cho báo chí “chính
thống”
của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiều hơn blog
“BA
SÀM”
do Nguyễn Hữu Vinh sáng lập hay không? Ông Vinh và cộng
sự bền bỉ làm việc đó suốt mấy năm qua, mặc dù
không được cấp đồng nào từ ngân sách, và cũng chẳng
nhận được chút tiền công nào từ các báo được hưởng
lợi. Thiết nghĩ, báo chí “lề
phải”
đang nợ Nguyễn Hữu Vinh “lề
trái” một
lời cảm ơn chân thành, và Ban Khoa giáo Trung ương cùng
Bộ Thông tin và Truyền thông nên thay mặt Đảng Cộng
sản Việt Nam (ĐCSVN) và Chính phủ có biểu hiện ghi nhận
tương xứng đối với những đóng góp to lớn của Nguyễn
Hữu Vinh cho nền báo chí nước nhà. Song, lấy oán trả
ơn, ông lại bị tống giam vào ngục.
Đương
nhiên, một mình Nguyễn Hữu Vinh không thể hàng ngày thu
thập và điểm tin cho bằng ấy bài báo, mà phải dựa
vào sự cộng tác của những người khác. Trong số đó
có Lê Thị Thanh Loan, người chỉ liên đới do “truy
cập website các báo Thanh niên, Tiền phong, Đất việt,…
lấy bài, tin”
và “scan
một số bài báo Thông tấn xã Việt Nam”.
Trước
sự việc rõ ràng như vậy, lẽ ra Cơ quan An ninh điều
tra phải kết luận: Lê
Thị Thanh Loan không phạm tội hình sự!
Trái lại, Bản
kết luận điều tra lập luận rằng:
“Đối
với Trần Thị Bích Hường, Nguyễn Thị Lý và Lê
Thị Thanh Loan
đã có hành vi thực
hiện một số công đoạn
trong việc
điểm tin, đăng bài,
giúp cho Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy chỉnh sửa,
đăng bài trên hai blog “DÂN QUYỀN”, “CHÉP SỬ VIỆT”.
Tuy nhiên, ba người này không biết động cơ, mục đích
phạm
tội
của Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy, nên Cơ
quan điều tra không xem xét, xử lý hình
sự
đối với họ.“
Trích
đoạn trên thể hiện rõ hai điều. Thứ nhất, Cơ
quan An ninh điều tra coi việc Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn
Thị Minh Thúy điểm tin, đăng bài của báo chí “chính
thống” là
phạm tội hình sự.
Thứ hai, Cơ
quan An ninh điều tra coi việc Lê Thị Thanh Loan lấy bài,
tin từ các báo Thanh niên, Tiền phong, Đất việt… và
scan một số bài báo của Thông tấn xã Việt Nam là công
đoạn phạm tội hình sự.
“Cơ
quan điều tra không xem xét, xử
lý hình sự“
đối với Lê Thị Thanh Loan chỉ vì cho rằng cô “không
biết động cơ, mục đích phạm tội
của Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy”.
Giả sử ngược lại, nếu cho rằng cô ấy có biết…,
thì chắc hẳn Cơ quan An ninh điều tra sẽ “xem
xét, xử
lý hình sự“
đối với cô.
Hai
điều trên cho thấy cách
tư duy và ý chí kết tội của Cơ quan An ninh điều tra
phi lý và bất chấp pháp luật
đến mức độ nào.
Nếu
chấp nhận lối tư duy quy kết ấy, thì cũng có thể ra
kết luận hoàn toàn tương tự như sau:
-
Cụ
Nguyễn Hữu Khiếu và cụ Hoàng Thị Ái Hoát cùng những
người bán lương thực, thực phẩm đã có hành vi thực
hiện một số công đoạn mang tính tiền đề trong việc
điểm tin và đăng bài của Nguyễn Hữu Vinh, đó là đã
sinh ra và góp phần nuôi sống Nguyễn Hữu Vinh… Tuy
nhiên, những người này không biết động cơ, mục đích
phạm tội của Nguyễn Hữu Vinh, nên Cơ quan điều tra
không xem xét, xử lý hình sự đối với họ.
-
Công
ty Điện toán và Truyền số liệu VDC và Công ty Cổ phần
Viễn thông FPT đã có hành vi thực hiện công đoạn thiết
yếu trong việc điểm tin và đăng bài của Nguyễn Hữu
Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy, đó là cung cấp thuê bao và
duy trì kết nối internet… Tuy nhiên, hai công ty này không
biết động cơ, mục đích phạm tội của Nguyễn Hữu
Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy, nên Cơ quan điều tra không
xem xét, xử lý hình sự đối với chúng.
Thử
hỏi, ai có thể chấp nhận kiểu lý luận kỳ cục như
vậy?
Cơ
quan An ninh điều tra đã đặt tên cho vụ án là “Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng
bọn
lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân”.
Kể cả sau khi đã điều tra xong, họ vẫn tiếp tục duy
trì tên gọi vụ án chứa từ “đồng
bọn”
trong Bản
kết luận điều tra số 14/ANĐT ngày 30/10/2014, và liệt
kê cả Lê Thị Thanh Loan trong danh sách “đồng
bọn”.
Có nghĩa là họ vẫn coi cô như kẻ
phạm tội hình sự,
với tình tiết giảm nhẹ là do “không
biết động cơ, mục đích phạm tội…”.
Một
người rõ ràng là vô tội như Lê Thị Thanh Loan mà còn
bị Cơ quan An ninh điều tra quy kết như vậy, thì Nguyễn
Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy tránh sao khỏi bị buộc
tội phi lý, phi pháp.
Bản
kết luận điều tra khẳng định: “Đây
là vụ án nghiêm trọng, có tổ chức, với thủ đoạn
phạm tội tinh vi”.
Để tô vẽ cho cáo buộc “có
tổ chức, với thủ đoạn phạm tội tinh vi”,
tổ chức điều tra tóm cả người rõ ràng vô tội vào
cuộc, và li kì hóa biện pháp kỹ thuật thông dụng (là
“đặt
chế độ bảo mật hai lớp”
cho blog), cần thiết để bảo vệ blog trước nạn tin tặc
hoành hành. Phải chăng, sẽ phù hợp hơn nếu thay chữ
“phạm”
trong khẳng định trên bằng chữ “buộc”,
để thu được kết luận về hành
vi thực hiện công tố
như sau: “Đây
là vụ án nghiêm trọng, có tổ chức, với thủ đoạn
buộc
tội tinh vi.”
Tóm
lại, Bản
kết luận điều tra đưa ra
những chứng cứ buộc tội hết sức ngu ngơ,
không chỉ quá
phi lý đối với mọi tư duy lành mạnh,
mà còn rất
phi pháp theo thước đo pháp luật của chính chế độ
này.
Điều
tra giả vờ
Sau
khi liệt kê 24 bài đăng trên hai blog “DÂN
QUYỀN”
và “CHÉP
SỬ VIỆT”
để làm chứng cứ xác định tội phạm, Bản
kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra lý
luận rằng:
“Do
các bị can Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy không
chịu khai báo, nên Cơ
quan điều tra không có điều kiện xác minh, làm rõ nguồn
gốc, tác giả của 24 bài viết trên.”
Cách
viết này vừa nhấn mạnh sự ngoan cố của hai bị can,
vừa khơi gợi nghi ngờ rằng có thể bị can là tác giả
của nhiều bài trong số đó.
Để
hiểu rõ chân tướng sự việc, ta chỉ cần điểm qua 4
bài đầu tiên trong số 12 bài mà Bản
kết luận điều tra coi là chứng cứ phạm tội trên
blog “DÂN
QUYỀN”.
Bài
1: “Dân
chủ không thể là cái bánh vẽ”.
Tác giả là Đại tá Bùi Văn Bồng, nguyên Trưởng Đại
diện báo Quân đội Nhân dân khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long. Bài viết được công bố trên blog
của tác giả và đăng trên blog
“DIỄN
ĐÀN XÃ HỘI DÂN SỰ”
ngày 24/11/2013.
Bài
2: “Tham
nhũng, chống tham nhũng và thể chế”.
Tác giả là ông Hạ Đình Nguyên, nguyên Chủ tịch Ủy
ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước
1975), cựu tù chính trị Côn Đảo. Bài viết được đăng
trên blog
“BAUXITE
VIỆT NAM“
và blog
“DIỄN
ĐÀN XÃ HỘI DÂN SỰ”
ngày 17/01/2014.
Bài
3: “Chuyện
kể năm 2000: Cuốn tiểu thuyết về thân phận con người
trong cái ác cộng sản”.
Tác giả là Đại tá Phạm Đình Trọng. Bài viết được
đăng trên blog
“DIỄN
ĐÀN XÃ HỘI DÂN SỰ”
ngày 17/01/2014.
Bài
4: “Mấy
suy nghĩ về tình hình nhiệm vụ hiện nay”.
Tác giả là ông Lê Hồng Hà, nguyên Đại tá Chánh văn
phòng Bộ Công an. Bài viết được đăng trên blog
“BA
SÀM”
ngày 28/03/2014 và đăng trên blog
“BAUXITE
VIỆT NAM”
ngày 30/03/2014.
Quả
thực, chỉ cần biết sử dụng internet sơ sơ thì đứa
trẻ con cũng có thể dùng Google để nhanh chóng tìm ra
thông tin về tác giả, nguồn gốc của 4 bài viết kể
trên và của 8 bài còn lại (bị coi là chứng cứ tội
phạm trên blog “DÂN
QUYỀN”).
Và tên tuổi của các tác giả chẳng hề xa lạ với Cơ
quan An ninh điều tra. Chẳng hạn, các ông Lê Hồng Hà, Hạ
Đình Nguyên, Đại tá Bùi Văn Bồng và Đại tá Phạm
Đình Trọng đều đã từng ở vị trí cao trong bộ máy
cầm quyền. Vậy thì tại sao Bản
kết luận điều tra lại viết rằng “Cơ
quan điều tra không có điều kiện xác minh, làm rõ nguồn
gốc, tác giả của 24
bài viết
trên”?
Chỉ có hai khả năng như sau.
Thứ
nhất, nghiệp
vụ của Cơ quan điều tra kém cỏi đến mức họ không
biết tìm kiếm thông tin trên internet.
Nếu ú ớ như vậy thì tại sao lại liều lĩnh đảm nhận
nhiệm vụ điều tra tội phạm trên mạng internet, để
rồi buộc tội vu vơ?
Thứ
hai, Cơ
quan điều tra không có ý định tìm kiếm thông tin liên
quan, hoặc đã có được thông tin cần thiết nhưng vẫn
tỏ ra không hề biết, nghĩa là họ chỉ
giả vờ tiến hành điều tra.
Nếu vậy thì những bị can oan uổng thoát sao nổi bản
án phi lý mà thế lực nắm quyền sinh quyền sát đã định
sẵn?
Đối
với vụ án “Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng bọn…”,
khả năng thứ hai có vẻ hiện thực hơn. Bởi vì, cho dù
không có khả năng hay lười tìm kiếm thông tin trên
internet, thì Cơ quan điều tra cũng không thể không biết
thông tin về nguồn gốc, tác giả của tất
cả 24 bài
cần xem xét, vì nhiều thông tin cần thiết đã hiển thị
rõ ràng ngay trên blog bị điều tra. Cho nên, khẳng định
“Cơ
quan điều tra không có điều kiện xác minh, làm rõ nguồn
gốc, tác giả của 24
bài
viết trên”
phải chăng là dối
trá,
nhằm cố
tình bỏ
qua
chứng
cứ xác định vô tội
và
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can.
Đừng
đổ thừa là “do
các bị can Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy không
chịu khai báo”
nên Cơ quan điều tra đành bó tay. Bởi vì Bộ
luật tố tụng hình sự đã quy định rõ:
“Điều
10. Xác định sự thật của vụ án
Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải
áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, làm rõ
những chứng cứ xác định có tội và chứng
cứ xác định vô tội,
những tình tiết tăng nặng và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can,
bị cáo.
Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội.“
Nếu
Cơ quan điều tra
cố tình bỏ qua
chứng
cứ xác định vô tội
và
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can
thì phạm vào “Tội
làm sai lệch hồ sơ vụ án”
theo Điều 300 Bộ luật hình sự.
Vì hành vi này vừa “có
tổ chức”,
vừa “gây
hậu quả nghiêm trọng”,
nên Bộ luật hình sự quy định phải “bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm”.
Tóm
lại, Bản
kết luận điều tra đã bộc lộ dấu hiệu không
trung thực, khiến nẩy sinh câu hỏi: Họ đã
điều tra giả vờ,
hay kết
luận dối trá?
.
Giám
định lơ mơ
.
“Ngày
07/8/2014, Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an ra Quyết
định trưng cầu giám định số 60/ANĐT-P3, trưng cầu Bộ
Thông tin và Truyền thông giám định nội dung 24 bài viết
trên. Ngày 19/9/2014, tập thể Giám định viên của Bộ
Thông tin và Truyền thông đã Kết luận giám định, xác
định: 24
bài viết có nội dung sai sự thật, không có căn cứ;
tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ các cá nhân,
làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức; đưa
ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng, làm
ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối
với sự lãnh đạo đất nước của Đảng, Chính phủ,
Quốc hội và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.“
So
sánh nội dung đánh giá về 24 bài viết, ta sẽ thấy kết
luận giám định của Bộ Thông tin và Truyền thông và
kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra – Bộ
Công an (đã được trích nguyên văn trong phần Buộc
tội vu vơ)
giống nhau từng từ, từng chữ, trùng khít cả chín dấu
phẩy, ba dấu chấm phẩy và một dấu chấm. Qua đó lộ
ra vở kịch vụng về mang tên “trưng
cầu giám định”.
Tại
sao “tập
thể Giám định viên của Bộ Thông tin và Truyền thông”
lại chép thuộc lòng kịch bản buộc tội như vậy? Phải
chăng vì họ không được phép diễn khác và cũng chẳng
có khả năng diễn khác?
Trong
số các nhiệm
vụ và quyền hạn của Bộ Thông tin và Truyền thông,
được quy định tại Nghị
định số 132/2013/NĐ-CP của Chính phủ (ban hành ngày
16/10/2013), hoàn toàn không
có chức năng đánh giá, giám định về nội dung của các
tin, bài,
xem chúng đúng hay sai, có căn cứ hay không, có xuyên tạc,
bôi nhọ và ảnh hưởng đến uy tín của ai đó hay không.
Vậy thì tại sao Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an
lại trưng cầu giám định của Bộ Thông tin và Truyền
thông, và tại sao bộ này lại nhận lời?
Kể
cả trường hợp được Chính phủ chính thức giao thêm
nhiệm vụ giám
định về nội dung của các tin, bài,
thì Bộ Thông tin và Truyền thông cũng không thể đảm
đương được. Đơn giản vì các tin, bài thường liên
quan đến mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa, khoa học, công nghệ; đề cập đến những sự kiện
xảy ra ở nhiều nơi, cả trong và ngoài nước, diễn ra
trong quá khứ, hay hiện tại, hay dự đoán về tương lai.
Cho dù mở rộng biên chế gấp mấy mươi lần, thì Bộ
Thông tin và Truyền thông cũng không có đủ chuyên gia về
mọi lĩnh vực để mà đánh giá, giám định mọi thứ
trên đời.
Bài
“Nứt
cầu Vĩnh Tuy nay hay Nhà máy điện hạt nhân tương lai –
chuyện nhỏ như con thỏ với giải pháp… xịt keo”
đề cập tới việc xử lý vết nứt trên cầu, đường
hầm, đập thủy điện, rồi liên hệ với vấn đề an
toàn của nhà máy điện hạt nhân. Tại sao Cơ quan An ninh
điều tra không mời chuyên gia của các bộ ngành liên
quan đến các vấn đề đó tiến hành giám định, mà lại
trưng cầu Bộ Thông tin và Truyền thông? Và Bộ Thông tin
và Truyền thông có chuyên gia về cầu, đường, đập
thủy điện và điện hạt nhân hay không mà cũng đứng
ra giám định đúng – sai?
Trong
số các bài đăng trên blog “CHÉP
SỬ VIỆT”,
không có bài nào với tiêu đề “Phạm
Văn Đồng – người học trò xuất sắc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh”
đăng vào ngày 01/03/2014. Không có, mà Cơ quan An ninh điều
tra lại liệt kê nó tại vị trí thứ 8 trong danh sách 12
bài được coi là chứng cứ tội phạm trên blog
“CHÉP
SỬ VIỆT”,
rồi Bộ Thông tin và Truyền thông cũng giám định nó với
cáo buộc nặng nề. Như vậy là cùng phạm “Tội
vu khống”,
được quy định tại Điều
122 Bộ luật hình sự, với hai tình tiết tăng nặng
là “Có
tổ chức”
và “Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn”.
Nếu
Cơ quan An ninh điều tra tùy tiện sử dụng tên bài “Phạm
Văn Đồng – người học trò xuất sắc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh”
của Đào Minh Tuấn, đăng ngày 01/03/2014 trên báo Công an
Thành phố Hồ Chí Minh,
để chỉ bài một
bài khác
đăng trên blog “CHÉP
SỬ VIỆT”,
thì phạm tội “Giả
mạo trong công tác”
(Sửa
chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu),
được quy định tại Điều
284 Bộ luật hình sự, với hai tình tiết tăng nặng
là “Có
tổ chức”
và “Người
phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các
giấy tờ, tài liệu”.
Blog
“CHÉP
SỬ VIỆT”
đã bị khóa, nhưng vẫn có thể tìm thấy bài vừa được
đề cập trên
internet. Nó bàn về một sự kiện lịch sử hệ trọng,
liên quan đến chủ quyền thiêng liêng đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã gây ra nhiều tranh cãi
trong dư luận, ảnh hưởng nặng nề đến uy tín của chế
độ. Chưa thấy ai trong bộ máy cầm quyền đứng ra phủ
nhận. Vậy thì Bộ Thông tin và Truyền thông lấy đâu ra
chuyên gia nghiên cứu lịch sử, hay nhân chứng lịch sử
để giám định và phủ nhận bài viết ấy?
Xác
định tính đúng sai của những sự việc đang diễn ra đã
là rất khó, vì nhiều vụ việc bị các bên liên quan che
dấu, bóp méo. Xác định tính đúng sai của những sự
kiện đã xảy ra trong quá khứ còn khó hơn nhiều, vì
thiếu tư liệu trung thực và vì nhân chứng lịch sử đã
chết. Còn phủ định một cách tuyệt đối những nhận
định về tương lai, thì đó là kết luận vô căn cứ và
nhiều khi sẽ bị chính lịch sử phủ định lại.
Cách
nay ba mươi năm, nếu công dân nào dám công khai viết rằng
“Liên
Xô cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ”,
thì chắc chắn sẽ bị bộ máy cầm quyền và hàng triệu
người hâm mộ khẳng định là sai, không có căn cứ, là
xuyên tạc, bôi nhọ và gây ảnh hưởng xấu đến uy tín
của ĐCSVN, của Liên Xô, của hệ thống xã hội chủ
nghĩa, và người đó khó thoát khỏi bị trừng phạt. Thế
nhưng, cái nhận định “phản
động”
từng bị nguyền rủa ấy lại trở thành hiện thực từ
lâu.
Nói
chung, trong 24 bài viết bị Cơ quan An ninh điều tra liệt
kê trong danh sách chứng cứ, có những tình tiết lịch
sử, nhận xét về quá khứ mù mịt, hiện thực mờ ảo,
dự đoán về tương lai xa xôi, và đề cập đến nhiều
quan điểm mà hàng tỷ người trên Thế giới thấy rõ
ràng là đúng, chỉ còn một số người trong giới cầm
quyền Việt Nam vẫn quả quyết là sai. Đương nhiên, Bộ
Thông tin và Truyền thông không
có đủ năng lực và hiểu biết cần thiết để kết
luận tất cả những điều đó là đúng hay sai, có căn
cứ hay không, và vì vậy cũng không thể buộc tội là
“xuyên
tạc”
hay “bôi
nhọ”.
Kể
cả trường hợp Bộ Thông tin và Truyền thông có đủ
năng lực và hiểu biết cần thiết để giám định một
số vấn đề cụ thể nào đó, thì cũng phải đầu tư
rất nhiều thời gian. 44 ngày (kể từ khi “Cơ
quan An ninh điều tra – Bộ Công an ra Quyết định trưng
cầu giám định số 60/ANĐT-P3″
vào ngày 07/8/2014, đến khi
“tập thể Giám định viên của Bộ Thông tin và Truyền
thông đã Kết luận giám định”
vào ngày 19/9/2014) hiển nhiên là quá ngắn.
Hồ
Xuân Mãn từng là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN
khóa
IX và khóa
X, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế, và
“cùng
với 2 bí thư đảng bộ tỉnh của hai tỉnh khác trong
nước được Trung ương Đảng khen về tấm gương “Học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh””.
Tuy nhiên, hành vi man trá của Hồ Xuân Mãn đã bị tố
cáo từ lâu. Ví dụ, ngày
05/02/2013 “các
ông Lê Văn Uyên, Hoàng Văn Phận, Hoàng Phước Sum, Hoàng
Tiến Dũng đã có đơn gửi Bí thư và Thường vụ Tỉnh
ủy Thừa Thiên – Huế tố giác việc ông Mãn khai man
thành tích”
để được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ
trang Nhân dân. Ngày 07/03/2013, “Tỉnh
ủy Thừa Thiên – Huế đã làm việc với những người
tố giác”.
Vậy mà, đến tận ngày
20/11/2013 Ủy ban Kiểm tra Trung ương mới kết luận: “Đồng
chí Hồ Xuân Mãn, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên
Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế có khuyết điểm, vi
phạm phải được xem xét, xử lý theo quy định.”
Như vậy, bộ máy kiểm tra của ĐCSVN phải
mất hơn 9 tháng
để điều tra và kết luận về một sự việc khá đơn
giản, có đầy đủ nhân chứng đáng tin. Và đến tận
bây giờ vẫn chưa “làm
rõ nguyên Bí thư Hồ Xuân Mãn có phải là đảng viên hay
không”.
Trần
Văn Truyền từng là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương
ĐCSVN khóa IX và X; Đại biểu Quốc hội khóa X và XII;
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá IX; Tổng
Thanh tra Chính phủ 2006 – 2011. Tuy nhiên, hành vi tham
nhũng của Trần Văn Truyền đã bị dư luận vạch trần
từ lâu. Ví dụ, ngày 21/02/2014 báo Người cao tuổi đăng
bài “Ông
Trần Văn Truyền, cựu Ủy viên Trung ương Đảng, cựu
Tổng Thanh tra Chính phủ có bao nhiêu biệt thự?”.
Vậy mà, đến tận ngày 21/11/2014 Ủy
ban Kiểm tra Trung ương mới ra thông cáo báo chí về “kết
luận kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về thực hiện
chính sách nhà, đất đối với ông Trần Văn Truyền”.
Tức là bộ máy kiểm tra của ĐCSVN phải mất ít nhất 9
tháng
để điều tra và kết luận về đống nhà đất lù lù
của nhân vật từng nhiều năm đứng đầu bộ máy chống
tham nhũng của chế độ. Và cho đến nay, mới ra quyết
định thu hồi một phần nhỏ trong số tài sản bất
minh, chưa truy cứu vụ “trước
khi nghỉ hưu, từ tháng 3 đến tháng 8/2011, ông Trần Văn
Truyền đã bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp Vụ và tương
đương”.
Đơn
giản và rõ ràng như vụ Hồ Xuân Mãn và vụ Trần Văn
Truyền, với đầy đủ nhân chứng đáng tin và vật chứng
cụ thể, chẳng phải mất nhiều công tìm kiếm, mà mỗi
vụ việc kể trên bộ máy kiểm tra của ĐCSVN đều phải
mất đến
9
tháng
để điều tra và ra kết luận. Vậy mà tập thể Giám
định viên của Bộ Thông tin và Truyền thông lại chỉ
cần
44
ngày
để giám định 24 bài viết về nhiều vấn đề thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau và nằm ngoài khuôn khổ nghiệp
vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông. Riêng điều đó
đã nói lên động cơ và thái độ giám định.
So
sánh nội dung của 24 bài bị giám định với kết luận
giám định, có thể thấy:
-
Hoặc là
tập thể Giám định viên đã không đọc hết, hay không
đọc kỹ tất cả 24 bài, tức là chưa hiểu đúng đối
tượng, nên đã đưa ra kết luận giám định sai.
-
Hoặc là
họ đã đọc hết, đọc kỹ và hiểu đúng đổi tượng,
nhưng vẫn cố tình đưa ra kết luận giám định sai, ít
nhất là đối với một số bài trong số 24 bài mà họ
giám định.
Trong
trường hợp thứ nhất, họ phạm “Tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”,
được quy định tại Điều
285 Bộ luật hình sự (bị
phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến năm năm).
Trong
trường hợp thứ hai, họ phạm “Tội
khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật”,
được quy định tại Điều
307 Bộ luật hình sự như sau:
“1.
Người
giám định,
người phiên dịch, người làm chứng nào mà kết
luận,
dịch, khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà
mình biết rõ là sai
sự thật,
thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến
một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:
- a) Có tổ chức;
- b) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Nghĩa
là, do cố
tình
kết
luận giám định sai sự thật,
lại thuộc cả hai trường hợp tăng nặng là “Có
tổ chức”
và “Gây
hậu quả nghiêm trọng”,
có thể “bị
phạt tù từ một năm đến ba năm”.
Cuối
Bản
kết luận điều tra có đoạn như sau:
“Kèm
theo Bản kết luận điều tra có: Bản thống kê thời hạn
điều tra, thời hạn tạm giữ, tạm giam các bị can; Bản
thống kê vật chứng; Danh sách nhân chứng và các Quyết
định xử lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ./.”
Nghĩa
là: Bản
kết luận giám định không được kèm theo Bản kết luận
điều tra.
Vì sao? Phải chăng, vì họ chỉ diễn vở giám định cho
đủ thủ tục, chứ không thực sự quan tâm đến cái thứ
kết quả giám định hình thức? Hay vì tự họ cũng thấy
Bản kết luận giám định ấy không ổn, nên không thể
trưng ra?
Tóm
lại, “màn
kịch giám
định“
đã được đạo diễn và thể hiện rất lơ
mơ.
Có lẽ dàn diễn viên được chọn không
có đủ kiến thức chuyên môn, tư cách pháp lý để
đóng vai giám
định tất cả 24 bài đăng trên hai blog “DÂN QUYỀN”
và “CHÉP SỬ VIỆT”
(được Cơ quan An ninh điều tra coi là chứng cứ xác định
tội phạm). Phải chăng vì vậy, họ chỉ
học thuộc lòng và chóng vánh chép lại nguyên văn nội
dung kết tội của phía đặt hàng để làm Kết luận
giám định?
.
Hồ
sơ mập mờ
.
“QUYẾT
ĐỊNH
- Chuyển Bản kết luận điều tra và toàn bộ hồ sơ vụ án gồm tập, tổng cộng tờ đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị truy tố các bị can Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy…”
(xem
Phụ
lục 4).
Có gì đặc biệt ở đây? Vâng, họ viết “toàn
bộ hồ sơ vụ án gồm tập,
tổng cộng tờ”,
tức là bỏ
ngỏ số tập và số tờ của hồ sơ vụ án.
Bản
kết luận điều tra do Phó Thủ trưởng Cơ quan An ninh
điều tra Đại tá Lý Anh Dũng ký tên, được đóng dấu
đỏ của Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an, gửi cho
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bị can và các người
bào chữa, nhưng lại bỏ ngỏ nội dung quan trọng là số
tập và số tờ của hồ sơ vụ án.
Tại sao lại như vậy?
Có
thể xảy ra một trong ba trường hợp sau đây.
- Đại tá Lý Anh Dũng chẳng hề đọc Bản kết luận điều tra trước khi ký tên, nên không phát hiện ra là còn thiếu thông tin về số tập và số tờ của hồ sơ vụ án. Nói nôm na là không biết chính xác là mình đang ký cái gì.
- Đại tá Lý Anh Dũng đã đọc Bản kết luận điều tra và phát hiện ra còn thiếu thông tin về số tập và số tờ của hồ sơ vụ án, nhưng vì ông và những người chuẩn bị Bản kết luận điều tra không tiếp xúc với toàn bộ hồ sơ vụ án, nên không thể điền hai số liệu cần thiết. Khi không tiếp xúc với toàn bộ hồ sơ vụ án, thì không thể biết Bản kết luận điều tra có phù hợp với hồ sơ của vụ án hay không. Đại thể là cũng chỉ viết và ký bừa mà thôi.
- Đại tá Lý Anh Dũng và cộng sự đã cố tình viết ra và ký tên vào Bản kết luận điều tra còn bỏ ngỏ số tập và số tờ của hồ sơ vụ án. Điều đó tạo điều kiện cho việc làm sai lệch hồ sơ vụ án sau này.
Trong
hai trường hợp đầu, Đại tá Lý Anh Dũng và cộng sự
có thể phạm “Tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”
theo Điều
285 Bộ luật hình sự.
Trong
trường hợp thứ ba, nếu chỉ vô tình tạo
điều kiện…
thì Đại tá Lý Anh Dũng và cộng sự có thể phạm “Tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
Còn nếu cố tình tạo
điều kiện cho việc làm sai lệch hồ sơ vụ án,
thì họ có thể phạm “Tội
làm sai lệch hồ sơ vụ án”,
được quy định tại Điều
300 Bộ luật hình sự như sau:
“1.
Điều
tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án,
nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự nào mà thêm, bớt, sửa đổi,
đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng
của vụ án hoặc
bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ
sơ vụ án,
thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a)
Có
tổ chức;
b)
Gây
hậu quả nghiêm trọng.”
Sai
phạm rõ ràng như vậy, nhưng chắc Đại tá Lý Anh Dũng
cùng cộng sự sẽ được dung túng. Trớ trêu ở chỗ,
người có tội rõ ràng thì được bỏ qua, lại còn được
thay mặt bộ máy cầm quyền kết tội những người khác.
Cán cân công lý cong veo như thế, thì tránh sao được kết
án oan sai?
Tóm
lại, không thể chấp nhận kiểu hồ
sơ mập mờ
như vậy. Tình tiết ấy góp phần thể hiện mức độ
chính xác của Bản
kết luận điều tra và thái độ của Cơ quan An ninh
điều tra đối với vụ án.
Cách
nhìn lương thiện
Để
Đất nước vượt qua khủng hoảng toàn diện, thoát khỏi
sa lầy trong tham nhũng và phát triển nhanh theo hướng tiến
bộ, thì cần phải nâng cao dân trí và thực hành dân
chủ. Vì mục tiêu ấy, những người cầm bút phải vượt
qua chính mình, tự giải thoát mình ra khỏi nỗi sợ mãn
tính, thể hiện một phần qua thói quen “tự
kiểm duyệt”.
Theo cách nói của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, thì
những người cầm bút cần phải “tự
cởi trói”.
Để
thực thi “quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin”,
được tái hiến định tại Điều
25 Hiến pháp 2013, Nguyễn Hữu Vinh đã lập ra blog “BA
SÀM”,
gọi nó là “Cơ
quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ”,
tức là nơi đại chúng thể hiện tự do ngôn luận và
tiếp cận thông tin đa chiều. Phương châm “Phá
vòng nô lệ”
treo trên blog “BA
SÀM”
không chỉ kêu gọi những người cầm bút “tự
cởi trói”,
mà còn nhắc nhở mọi người nên tự giải phóng mình ra
khỏi “vòng
nô lệ”
về tư duy, do thiếu hiểu biết và chỉ tiếp xúc với
thông tin đơn điệu một chiều.
Phần
việc chính của blog “BA
SÀM”
là điểm tin hàng ngày, cụ thể là chỉ đơn thuần giới
thiệu tiêu đề và địa chỉ truy cập của các bài báo,
bài viết được đăng trên các trang mạng của báo, đài,
cơ quan thông tấn và các trang thông tin cá nhân. Đôi khi,
có kèm theo vài câu trích dẫn, hay bình luận ngắn, tất
nhiên không nhất thiết là của Nguyễn Hữu Vinh. Ngoài
ra, blog “BA
SÀM”
còn đăng toàn văn một số bài được sưu tầm trên
internet hay do các tác giả gửi đến. Các bài được điểm
tin hoặc được đăng thể hiện những quan điểm khác
nhau, có thể khác hẳn với quan điểm của những người
điều hành blog.
Nhiều
năm qua, blog “BA
SÀM”
đã thực sự trở thành môi trường để bao người tiếp
xúc với thông tin đa chiều, mở rộng tầm kiến thức và
hiểu thêm về quan điểm của đối phương. Như vậy, vừa
góp phần nâng cao dân trí, vừa tăng cường hiểu biết
và thông cảm lẫn nhau, góp phần thúc đẩy hòa giải và
hòa hợp Dân tộc. Không chỉ người dân, mà nhiều vị
đang làm việc trong bộ máy nhà nước cũng hàng ngày vào
blog “BA
SÀM”
để nắm bắt thông tin, của cả “phía
ta”
và “phía
địch”,
nhằm phục vụ cho công việc của họ. Tức là blog “BA
SÀM”
không chỉ có lợi cho người dân, mà có ích cho cả bộ
máy nhà nước. Có lẽ vì thế mà chính quyền chấp nhận
cho nó tồn tại công khai suốt nhiều năm qua và cả bây
giờ, khi Nguyễn Hữu Vinh đang bị giam giữ.
Nếu
Nguyễn Hữu Vinh có đóng góp nào đó cho hai blog “DÂN
QUYỀN”
và “CHÉP
SỬ VIỆT”
mới ra đời, thì cũng phù hợp với mục tiêu mở rộng
môi trường cho đại chúng tiếp xúc với thông tin đa
chiều, bù lại khiếm khuyết do kiểu tuyên truyền một
chiều tạo ra. Ba blog có nội dung và hình thức khác nhau,
nhưng đều thể hiện các quyền hiến định, đó là “tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin”.
Cương
vị của người quản lý trang mạng có những nét giống
như người quản lý chợ. Nếu chỉ chấp nhận cho mua bán
những mặt hàng mà bản thân chủ chợ thích ăn, thích
dùng, thì chợ sẽ vắng hoe. Để chợ đông người, chủ
chợ phải chấp nhận cả những mặt hàng mà mình không
cần hay không thích, thậm chí còn phải tác động cho
thật nhiều loại hàng hóa khác nhau cùng xuất hiện trong
chợ. Tương tự như vậy, nếu muốn có đông bạn đọc
thì trang mạng phải phong phú, đa dạng, sôi nổi. Và
người điều hành trang mạng phải tỏ ra khách quan, chấp
nhận đăng cả những bài viết và ý kiến bình luận
trái chiều, có thể ngược hẳn với quan điểm của bản
thân. Nếu thấy mảng tin, bài nào còn thiếu thì phải
tìm cách bổ sung. Nếu thấy không khí hơi tẻ nhạt thì
chủ động kích thích tranh luận, thậm chí tự tay viết
ra những bài hay ý kiến bình luận ngược hẳn với quan
điểm thật của mình. “Thủ
thuật nghiệp vụ”
này không xa lạ với các chủ blog. Nó càng hữu dụng đối
với các trang mạng đóng vai trò môi trường thông tin đa
chiều và tranh luận dân chủ.
Đừng
quên, dựng thêm vai đối kháng là thủ thuật rất kinh
điển. Nếu các nhà soạn kịch không sáng tác thêm vai
phản diện, thì vai chính diện cũng khó lòng thể hiện.
Áp dụng thủ thuật tạo dựng yếu tố đối kháng triệt
để nhất, đến mức quá lạm dụng, chính là bộ máy
tuyên truyền của chế độ này, khi họ xây dựng, tô vẽ
và khuếch đại hình tượng “thế
lực thù địch”
để biện minh cho việc duy trì chế độ độc đảng.
Việc
chấp nhận đăng những bài viết và ý kiến bình luận
có vẻ “của
địch”
trong “nghề
nuôi trang mạng”
cũng cần thiết như việc quan hệ với địch trong nghề
tình báo. Do đó, không
thể đồng nhất nội dung của một số bài viết và ý
kiến bình luận được đăng với quan điểm và động cơ
của người điều hành blog. Càng không thể dùng một số
bài viết hay ý kiến bình luận được đăng để kết
tội người điều hành blog.
Nếu làm ngược lại, thì giống như bắt giam chủ chợ
chỉ vì có bà bán bún thiu, hoặc giống như coi phát ngôn
của các nhân vật phản diện trùng với quan điểm đích
thực của tác giả kịch bản, rồi dùng “tội
ác”
mà nhân vật phản diện thể hiện trên sân khấu để
kết tội đạo diễn.
Trên
thực tế, báo chí “chính
thống”
thường đăng nhiều tin, bài chứa nội dung sai sự thật,
mang tính vu khống, bôi nhọ, nhất là đối với những
người mà bộ máy cầm quyền không ưa. Nhưng chưa thấy
tổng biên tập hay biên tập viên nào bị truy tố hình
sự, mặc dù họ được đào tạo chính quy, hành nghề
chuyên nghiệp và được hưởng lương để chịu trách
nhiệm về các bài được đăng. Vậy thì cũng không thể
dùng lý do tương tự để truy tố hình sự đối với
những người tham gia điều hành blog, khi họ chỉ bột
phát, nghiệp dư và không được hưởng lương từ ngân
sách.
Câu
hỏi đặt ra là: Liệu
nội dung của 24 bài
đăng trên hai blog “DÂN
QUYỀN”
và “CHÉP
SỬ VIỆT”,
bị Cơ quan An ninh điều tra liệt kê trong danh sách chứng
cứ phạm tội, có
chứa nội dung sai trái hay không? E rằng không ai có đủ
tư cách để đánh giá một cách tuyệt đối về tất cả
các vấn đề liên quan.
Sáu mươi năm trước, một số văn sĩ nổi tiếng đã
từng ngộ nhận mà câu kết với một số thế lực cầm
quyền kết tội nhóm Nhân văn – Giai phẩm, để lại vết
nhơ không thể gột rửa cho họ và cho cả chế độ. Giờ
đây, Bộ
Công an và Bộ Thông tin và Truyền thông không nên tái
diễn sai lầm, lạm dụng quyền lực để phán quyết sự
đúng – sai của những vấn đề nằm ngoài phạm vi hiểu
biết và chức trách, ví dụ như những quan điểm về
chính trị, xã hội, lịch sử…
Hiển
nhiên, nếu
chỉ nói lên sự thật thì không thể coi là vu khống,
xuyên tạc hay bôi nhọ.
Trong trường hợp nghi ngờ có vu khống, bôi nhọ, thì tất
nhiên có thể điều tra và truy tố, nhưng thông thường
phải
đợi phía bị hại phát đơn kiện.
Ở các nước văn minh, nhiều khi Tổng thống, Thủ tướng
bị xúc phạm, hay bị cáo buộc oan trái, song họ vẫn lờ
đi, vì không muốn bị dư luận đánh giá là hẹp hòi, cố
chấp. Nếu bản thân họ muốn lờ đi cho sự việc chóng
trôi qua, thì phía công an không thể tùy tiện xới lên,
làm cho câu chuyện thêm phức tạp. Một khi đương sự
không kiện cáo, không công khai đứng ra làm chứng trước
cơ quan điều tra và tòa án, thì công an không thể nghiễm
nhiên coi người phê phán đã vu khống, vì biết đâu nội
dung phê phán lại đúng sự thật. Trong
vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn…”, chưa thấy
cá nhân và tổ chức nào đứng ra kiện cáo là mình bị
vu khống, bôi nhọ, nên phía công an không thể mặc nhiên
tỏ ra oan ức thay cho những đối tượng vu vơ.
Giả
sử, Cơ quan An ninh điều tra chứng minh được một cách
tuyệt đối chính xác, rằng một số bài đã đăng có
nội dung sai trái đến mức phạm tội hình sự, thì về
phía điều hành và đăng bài lên blog, ai phải đứng ra
chịu trách nhiệm hình sự? Tên của Nguyễn Hữu Vinh và
Nguyễn Thị Minh Thúy không hề xuất hiện trong danh sách
Nhóm cố vấn và Nhóm
trị sự được công khai danh tính trên blog “DÂN
QUYỀN”.
Cho nên, về lý mà nói, khi
Cơ quan An ninh điều tra thừa nhận nhóm điều hành công
khai danh tính không phạm tội hình sự nên không truy tố,
thì khó có thể bắt giam và kết tội hai người cộng
tác “vô danh”.
Hơn nữa, không
thể coi trách nhiệm hình sự của người đăng bài còn
cao hơn trách nhiệm của tác giả.
Vì thế,
khi các tác giả không bị truy tố, thì cũng không thể
truy tố những người liên quan đến chuyện đưa bài lên
blog.
Xét
về tổng thể, không được tách riêng 24 bài đăng trên
hai blog “DÂN QUYỀN” và “CHÉP SỬ VIỆT” để kết
tội những người tham gia điều hành, duy trì blog.
Bản
kết luận điều tra viết: “Từ
khi được lập đến khi Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị
Minh Thúy bị bắt, blog “DÂN QUYỀN” đã đăng 2.014 bài
viết…; blog “CHÉP SỬ VIỆT” đã đăng 383 bài viết…”.
Tức là, cho đến thời điểm ấy, hai blog “DÂN
QUYỀN”
và “CHÉP
SỬ VIỆT”
đã đăng tổng cộng 2.397 bài. Giả sử 24 bài quả thật
“có
vấn đề”,
thì chúng cũng chỉ chiếm 1,00%. Do đó, không thể dùng
chúng để phủ định toàn bộ hai blog. Hơn nữa, tất cả
2.397 bài của hai blog ấy gộp lại cũng chỉ là con số
rất nhỏ so với khối lượng khổng lồ các bài đã được
điểm tin hay đăng toàn văn trên blog “BA
SÀM”.
Vì vậy, không
thể tách riêng 24 bài đăng trên hai blog “DÂN QUYỀN”
và “CHÉP SỬ VIỆT” để phủ định và kết tội
Nguyễn Hữu Vinh.
Đối
với Nguyễn Hữu Vinh, tình huống bất lợi xảy ra nếu
Cơ quan An ninh điều tra
chứng
minh được chính ông đã viết ra bài nào đó, thể hiện
đúng quan điểm của bản thân, lại có nội dung sai sự
thật, khiến phía bị hại khởi kiện về tội vu khống,
bôi nhọ…
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, việc dùng
một vài bài viết phạm sai lầm (nếu có) để đánh giá
con người và phủ định các đóng góp tích cực của
Nguyễn Hữu Vinh
cũng tương tự như việc dùng
mỗi một bài “Địa chủ ác ghê” để đánh giá về
đạo đức và sự nghiệp của tác giả C. B.
Tóm
lại, Bản
kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra – Bộ
Công an
chứa
đựng nhiều điều sai trái, quá bất hợp lý. Những
chứng cứ và lập luận được trình bày trong đó không
thể buộc tội Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy.
Ngược lại, Cơ quan An ninh điều tra càng phi lý và lúng
túng trong việc buộc tội, thì càng chứng tỏ Nguyễn Hữu
Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy không phạm tội.
Phải chăng một số cán bộ điều tra cũng nhận thức
như vậy, nhưng vì chịu sức ép từ trên là phải buộc
tội bằng được, nên mới bất đắc dĩ dựng lên một
hồ sơ vụ án bất hợp lý và đầy sai sót đến như
vậy?
Chưa
cần xét đến sự phi lý, vi hiến của Điều
258 Bộ luật hình sự, thì đã có thể khẳng định
rằng: Quyết
định bắt giam và khởi tố Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn
Thị Minh Thúy vớì lý do phạm tội theo Điều
258 Bộ luật hình sự là sai lầm, gây hậu quả nghiêm
trọng. Sai
thì sửa càng sớm càng tốt. Tránh đã sai lại càng sai
thêm. Vì vậy,
Bộ Công an cần quyết định thả ngay Nguyễn Hữu Vinh và
Nguyễn Thị Minh Thúy, đồng thời kết thúc vụ án.
Ngược
lại, nếu cố tình tìm mọi cách để kết án tù Nguyễn
Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy, thì có thể phạm những
tội tương tự như họ đang cố gán cho hai người ấy,
đó là dùng “nội
dung sai sự thật, không có căn cứ”
để kết tội phi lý và “bôi
nhọ các cá nhân”, “làm ảnh hưởng đến lòng tin của
quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo đất nước
của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
*
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
.
Phụ
lục 1
.
Bài
“Chính
quyền Hà Nội phá thối đám giỗ của Dân tộc”
(đăng trên blog “CHÉP
SỬ VIỆT”
ngày 19/01/2014)
Nói
vậy để những kẻ sinh sự dễ hình dung! Thử tưởng
tượng trong gia đình, dòng họ của họ có giỗ chạc,
lại có đám lâu la tới làm reo, chửi tục, chắc họ
không thể tha thứ. Đằng này là một đám Giỗ của cả
Dân tộc Việt Nam, tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh
bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải, tưởng niệm cả một phần
đất bị ngoại bang – kẻ thù truyền kiếp trắng trợn
xâm chiếm. Nên những kẻ phá đám giỗ này, độ thô bỉ
và bất lương là tột cùng.
Tuy
nhiên, trong cái nhìn thực tế, thì họ khó có chọn lựa
nào hơn. Giới chóp bu sợ “bạn vàng” mà ra lệnh trấn
áp buổi tưởng niệm. Giới hữu trách đứng đầu thành
phố sợ trung ương nên ra lệnh tiếp. Có điều, những
người thừa hành chưa hẳn là muốn, là không thấy xấu
hổ, thậm chí đồng cảm với người dân yêu nước. Có
thể họ đã chọn một cách hành xử vừa khỏi bị cấp
trên khiển trách, vừa bớt bị dân lên án. Họ chỉ còn
cách là kiếm chuyện phá quấy, tránh đàn áp, bắt bớ?
Nhìn
những hình ảnh dưới đây cũng có thể thấy không có
mấy thái độ hung hăng, hằn học như đối với nhiều
cuộc biểu tình, tưởng niệm trước. Tất nhiên, để lý
giải cho hiện tượng này còn phải xét đến nhiều lý
do, trong đó có cả sự bình tĩnh, khéo léo của người
dân yêu nước, và sự có mặt của một số bậc cao
niên, trí thức có tên tuổi cũng làm những kẻ thừa
hành “công vụ” phải e nể.
Và
cuối cùng, không thể không bàn tới thái độ của “các
bên” trong giới chóp bu. Giờ là lúc họ đang cần tranh
thủ lòng dân cho cuộc chiến “chống tham nhũng”, kẻ
tấn công, kẻ chống đỡ. Người dân bao năm không còn
mấy tin tưởng thứ tuồng tích đó nữa, giờ cần lấy
cảm tình trong câu chuyện chủ quyền. Ngoài ra, những
động thái của Trung Quốc vừa qua cũng đã đặt giới
lãnh đạo CSVN dần vào thế đường cùng khi không thể
mãi che đậy sự khiếp nhược, thúc thủ hoàn toàn. Họ
bất lực không có câu trả lời với ngư dân trước lệnh
cấm, bắt xin phép đánh cá của Trung Quốc từ 1/1/2014 là
một minh chứng.
Người
dân và các phe phái trong chính quyền cùng “hẹn nhau” 1
tháng nữa – Kỷ niệm 35 năm ngày khởi sự đánh đuổi
giặc Tàu xâm lược trên 6 tỉnh Biên giới phía Bắc
1979.
.
Phụ
lục 2
.
Bài
“Nứt
cầu Vĩnh Tuy nay hay Nhà máy điện hạt nhân tương lai –
chuyện nhỏ như con thỏ với giải pháp… xịt keo”
(đăng trên blog “CHÉP
SỬ VIỆT”
ngày 10/03/2014).
Xin
đừng nhầm với kiểu “xịt keo” cho tóc cứng dựng
đứng như Đàm Vĩnh Hưng! Ở đây đang nói đến thứ keo
dán, như keo Con voi đang dùng ngoài thị trường. Chỉ có
Việt Nam, với cách đánh du kích đã thắng bao nhiêu đế
quốc hùng mạnh nhất thế giới, mới có được tuyệt
chiêu có một không hai trên thế giới như vậy. Giờ thì
thứ vũ khí và cách đánh cũng rất “du kích” có tên
là “xịt keo” sẽ thắng kẻ thù nguy hiểm bậc nhất
của đảng, nó có tên là… CÔNG LUẬN.
Cách
đánh này thần diệu nữa ở điểm, giả sử như chưa
thắng lợi hoàn toàn, thì cũng là cố cầm cự cho nó qua
ngày đoạn tháng, để các quan nhà ta hạ cánh rút quân
an toàn, nhường cho thế hệ sau hậu sinh khả úy, sẽ có
cách đánh tốt hơn. Biết đâu trong tương lai, từ kinh
nghiệm tuyệt vời đó, đảng nhà nước sẽ tiến tới
áp dụng xịt keo để hàn gắn cả những rạn nứt… nội
bộ, và… chế độ, để tránh khỏi sụp đổ?
Xin
điểm qua những vụ “nứt” công trình lớn nhỏ trong
nhiều năm qua để yên tâm với giải pháp này.
-
Hầm đường bộ Kim Liên: Hầm
Kim Liên lại thấm nước (Lao động, 4/12/2012).
“Sau
đó, chủ đầu tư và nhà thầu Taisei (Nhật Bản) khắc
phục bằng cách bơm
keo
vào khe co giãn và đặt ống thoát nước vào khe co giãn
dưới lòng đường theo hướng Kim Liên sang Đại Cồ
Việt.”
-
Hầm Hải Vân: Nứt
vòm hầm đường bộ Hải Vân là hiện tượng đáng lo
ngại? (Lao động, 2/11/2012). “Ban
QLDA 85 và các nhà thầu đã cho sửa chữa theo trách nhiệm
bảo hành bằng biện pháp bơm
keo cường độ cao
vào các khe nứt.“
-
Đập Hồ Tả Trạch: Khắc
phục hoàn tất các vết nứt tại đập tràn hồ Tả
Trạch (Phụ nữ, 23/7/2013). “Đơn
vị này đã xử lý vết nứt bằng keo
và phun vữa kết dính theo giải pháp triệt để của Viện
Khoa học Thủy lợi để tránh ảnh hưởng đến lớp thép
âm ở bề mặt.”
-
Đập thủy điện Sông Tranh 2: Đập
Sông Tranh 2: Xử lý rò rỉ bằng keo
chống thấm
(Tuổi trẻ, 18/4/2012).
-
Đập Thủy điện Sơn La: Đập
thủy điện Sơn La phát sinh vết nứt? (Tuổi trẻ,
21/4/2012). “Sau
khi được xử lý bơm
keo PU
phía hạ lưu, dòng thấm tập trung chảy vào trong hành
lang thân đập ở cao trình 138m, 180m.”
…
-
Và… trong tương lai, khi có Nhà máy điện hạt nhân, giả
định nếu có xảy ra sự cố nứt vách ngăn… bể
chứa thanh nhiên liệu hạt nhân
chẳng hạn, ta cứ dùng giải pháp xịt keo này là tuyệt
cú mèo.
.
Phụ
lục 3
.Danh
sách 25 bài của Thông tấn xã Việt Nam được đăng lại
trên blog “BA
SÀM”
trong tháng 12/2013
Bài
2136: “Trung
Quốc sẽ trở thành siêu cường vào năm 2023?”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 01/12/2013.
Bài
2137: “Tương
lai của Internet sau vụ bê bối gián điệp toàn cầu của
Mỹ”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 02/12/2013.
Bài
2139: “ADIZ
của Trung Quốc làm suy giảm ổn định khu vực”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 04/12/2013.
Bài
2141: “Cải
cách ở Trung Quốc giữa ý định và hiện thực”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 05/12/2013.
Bài
2142: “Trung
Quốc: Bùng nổ bạo lực đang tới gần”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 07/12/2013.
Bài
2147: “Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình: Nhà cải cách hay phi cải
cách?”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 08/12/2013.
Bài
2148: “Thông
điệp của Chủ tịch Tập Cận Bình là kiểm soát truyền
thông”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 10/12/2013.
Bài
2149: “Trung
Quốc vẫn không có ‘sức mạnh mềm'”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 10/12/2013.
Bài
2150: “JPMorgan
Chase với chiến lược đầu tư vào con cái các quan chức
Trung Quốc”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 10/12/2013.
Bài
2151: “Về
ADIZ của Trung Quốc”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 12/12/2013.
Bài
2154: “Sự
thận trọng của Barack Obama trong việc vạch ra các giới
hạn đỏ ở Syria”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 14/12/2013.
Bài
2156: “Ảnh
hưởng của TPP đối với Trung Quốc và ứng phó của
Trung Quốc”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 16/12/2013.
Bài
2157: “Ba
hiệu ứng từ chiến lược TPP của Mỹ”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 17/12/2013.
Bài
2161: “ADIZ
của Trung Quốc: Ngòi nổ của một cuộc xung đột mới ở
Đông Bắc Á?”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 19/12/2013.
Bài
2162: “Thủ
tướng Nhật Bản Shinzo Abe có đi quá xa trong vấn đề
ADIZ của Trung Quốc?”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 19/12/2013.
Bài
2164: “Trung
Quốc: Giá trị chính trị tiềm ẩn của Hội nghị Trung
ương 3″,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 20/12/2013.
Bài
2168: “Trung
Quốc cần thay đổi quan điểm về Tây Tạng”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 23/12/2013.
Bài
2170: “Mỹ
đang nhường đường cho Trung Quốc?”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 23/12/2013.
Bài
2173: “Trung
Quốc hưởng lợi từ bàn tay kiềm chế của Mỹ”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 24/12/2013.
Bài
2174: “Cán
cân sức mạnh đang thay đổi ở Châu Á – Thái Bình
Dương Quốc”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 24/12/2013.
Bài
2178: “Đại
sứ Trung Quốc tại Mỹ: ‘Chúng tôi vẫn còn cả một
chặng đường dài phía trước'”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 27/12/2013.
Bài
2179: “Tổng
thống Philippines thay đổi lập trường về Trung Quốc”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 28/12/2013.
Bài
2180: “Về
chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 30/12/2013.
Bài
2181: “Myanmar
với những bước đi thăm dò trong thời kỳ quá độ”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 30/12/2013.
Bài
2184: “Trung
Quốc trước thực tế mới ở Myanmar”,
bài của Thông tấn xã Việt Nam, blog “BA
SÀM”
đăng ngày 30/12/2013.
.
Phụ
lục 4
.
Trang
cuối của Bản
kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra
.
Hà
Nội, ngày 05/12/2014
.
Bản
gốc được lưu trữ tại trang
.
---------------------
.
Cùng
tác giả:
No comments:
Post a Comment