LÊ
THỊ MINH HÀ
Posted
by adminbasam on
05/12/2014
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc
________________________
Hà
Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2014
KIẾN
NGHỊ ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN
V/v:
Đề nghị Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao ra quyết định
đình chỉ vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân” theo điều 258, BLHS.
Kính
gửi: Ông Nguyễn Hoà Bình Viện trưởng Viện kiểm sát
Nhân dân Tối cao
Tôi
là Lê Thị Minh Hà, vợ ông Nguyễn Hữu Vinh, hiện cư
trú tại 4D Đặng Văn Ngữ , phường Trung Tự, quận Đống
Đa , thành phố Hà Nội, gửi tới ông kiến nghị như
sau.
-
Căn cứ vào bản kết luận điều tra của Cơ quan An ninh
Điều tra, Bộ Công An;
-
Căn cứ vào bản kiến nghị của Luật sư Hà
Huy Sơn,
Công ty Luật TNHH Hà Sơn thuộc Đoàn Luật sư thành phố
Hà Nội, địa chỉ số 156 Lê Đức Thọ kéo dài (Trần
Vĩ), phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, thành phố Hà
Nội;
Tôi
nhận thấy Cơ quan An ninh Điều tra (CQANĐT) đã vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như sử dụng
các chứng cứ làm căn cứ buộc tội không hợp pháp, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do của chồng
tôi, cụ thể như sau:
Lệnh
bắt khẩn cấp vi phạm các quy định của Bộ luật Tố
tụng Hình sự (BLTTHS)
- Lệnh bắt khẩn cấp dựa trên chứng cứ được thu thập một cách bất hợp pháp
Theo
hồ sơ vụ án, CQANĐT, Bộ Công an đã căn cứ vào tin báo
là Công văn số 469/CV ngày 01/04/2014 của Cục Bảo vệ
Chính trị 6 (Cục 6), Tổng cục An ninh I để khởi tố vụ
án.
Tại
Công văn 469/CV ngày 01/04/2014, Cục 6 cho biết trước đó
Cục đã nhận được: Văn bản số 223/CV-FPT-TEL-NOC và
283/CV-FPT-TEL-NOC, ngày 19 và 31/03/2014 của Công ty cổ phần
Viễn thông FPT; văn bản số 486/VDC-CN và 495/VDC-CN, ngày
31/03 và ngày 01/04/2014 của Công ty Điện toán và Truyền
số liệu VDC.
Các
Văn bản này thông báo kết quả việc họ (FPT, VDC) theo
yêu cầu của Cục 6 đã theo dõi và cung cấp thông tin cá
nhân của khách hàng cho Cục 6. Hành vi này của FPT, VDC là
trái với quy định của điều 38 Bộ luật Dân sự 2005
và khoản 2 Điều 26 Nghị định 72/2013/NĐ-CP, khi không có
quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát. Việc kiểm
soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức
thông tin điện tử khác của cá nhân chỉ được thực
hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải
có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
CQANĐT
khi nhận được tin báo của cơ quan, tổ chức đã không
tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin một cách đầy đủ
theo quy định của Điều 103, BLTTHS và khoản 2 Điều 10,
Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLTBCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC
để xác định thiệt hại của tổ chức, cá nhân người
bị hại, danh tính của tổ chức, danh tính cá nhân trước
khi quyết định khởi tố vụ án.
Với
việc vi phạm trình tự thu thập chứng cứ ngay từ
đầu, toàn bộ các tiến trình tố tụng sau đó
đều đương nhiên không có hiệu lực.
- Lệnh bắt khẩn cấp không thỏa mãn điều kiện bắt khẩn cấp của BLTTHS
Lệnh
bắt khẩn cấp ngày 05/05/2014 của CQANĐT, Bộ Công an đối
với ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo
điểm c, khoản 1, Điều 81, BLTTHS 2003: “Khi
thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại
chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét
thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc
tiêu huỷ chứng cứ.” và
sau đó ra lệnh tạm giam ông Vinh và bà Thúy là vi phạm
tố tụng.
Tại
các bút lục số 331, 332 trong hồ sơ vụ án thể hiện
khi khám xét khẩn cấp nơi ở của ông Nguyễn Hữu Vinh
và bà Nguyễn Thị Minh Thúy cùng ngày 05/05/2014 không
thu được chứng cứ
nào ngoài một số các bài viết được in ra tại nhà từ
máy tính của ông Vinh, bà Thúy.
Bản
kết luận điều tra số 14/ANĐT ngày 30/10/2014 của CQANĐT
sau này cho rằng các bài viết in ra được xác định là
chứng cứ, bao gồm: ở máy tính của ông Vinh có 06 bài
in từ blog chepsuviet.wordpress.com, ở máy tính của bà Thúy
có 02 bài in ra từ blog diendanxahoidansu.wordpress.com.
Ông
Vinh không ký biên bản khám xét mà chỉ có 02 người
chứng kiến ký là: Ông Phạm Văn Vinh, Cảnh sát khu vực
phường Xuân La, quận Tây Hồ, Hà Nội và ông Ngô Sỹ
Lợi, người láng giềng.
Bà
Thúy không ký biên bản khám xét mà chỉ có 02 người làm
chứng kiến ký là: Ông Hoàng Chí Thanh, Cảnh sát khu vực
phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội và bà Nguyễn
Thị Khiêu, người láng giềng.
Không
có căn cứ để khẳng định những người chứng kiến
việc khám xét ngày 05/05/2014 là có kiến thức, hiểu biết
về internet nên việc chứng kiến của họ là không có
giá trị khách quan. Điều này đồng nghĩa CQANĐT không có
căn cứ cho rằng các bài viết được in ra ở trên là
chứng cứ, hay đó là các dấu vết của tội phạm tại
chỗ ở của ông Vinh, bà Thúy.
Các
bài viết trên mạng internet Cơ quan điều tra đều biết
trước và hoàn toàn có thể in ra từ internet và thu giữ
máy tính của ông Vinh, bà Thúy để in ra các tài liệu
lưu trong đó mà không ai (ông Vinh, bà Thúy) có thể tiêu
hủy được hoặc cản trở.
Chứng
cứ làm căn cứ luận tội được thu thập không đúng
quy định pháp luật.
CQANĐT
chỉ căn cứ vào các văn bản của các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ viễn thông (Công ty cổ phần viễn thông
FPT, Công ty điện toán và truyền dẫn số liệu VDC, Công
ty cổ phần viễn thông Hà Nội HTC, Công ty dịch vụ viễn
thông Vinaphone) để khẳng định tính liên quan của các
thông tin cung cấp với bị can Nguyễn Hữu Vinh và bị can
Nguyễn Thị Minh Thúy mà không trưng cầu giám định là
vi phạm Điều 64 và Điều 66 BLTTHS.
Các
văn bản do các doanh nghiệp trên cung cấp không đảm bảo
tính khách quan (điều 10 BLTTHS), tính hợp pháp để xác
định trách nhiệm hình sự của các bị can.
Kết
luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin và
Truyền thông không phải là chứng cứ hợp pháp, bởi vì:
- Căn cứ Luật giám định tư pháp 2012, Khoản 1, Điều 2, quy định:
“Giám
định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử
dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ
thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những
vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ
việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc
theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định
của Luật này.”
Như
vậy, giám định tư pháp là việc sử dụng các kiến
thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật,
nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn để xác lập
chứng cứ vật chất liên quan đến hoạt động điều
tra vụ án.
Do
đó, các tài liệu là 37 bài viết theo Quyết định trưng
cầu giám định số 60/ANĐT-P3 ngày 07/08/2014 của CQANĐT
mà Kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin
và Truyền thông là những chứng cứ phi vật chất không
thuộc đối tượng của giám định tư pháp.
- Căn cứ:
Luật
giám định tư pháp 2012, Khoản 1, Điều 3 về “Nguyên
tắc thực hiện giám định tư pháp”, quy định: “Tuân
thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn.”
Khoản
2, Điều 41 về “Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ
quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định
tư pháp”, quy định: “Ban
hành quy chuẩn giám định tư pháp hoặc hướng dẫn áp
dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư
pháp theo yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực giám định
thuộc thẩm quyền quản lý.”
Thông
tư số 24/2013/TT-BTTTT ngày 27/12/2013 của Bộ Thông tin và
Truyền thông, kKhoản 1, Điều 10 về “Áp dụng quy chuẩn
chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp;”, quy
định:
“Hoạt
động giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và
truyền thông được thực hiện căn cứ vào quy chuẩn
chuyên môn trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiện
hành (bao gồm Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia trong lĩnh vực thông tin và truyền thông) và các
văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung cần giám
định.”
Có
thể khẳng định, kết luận giám định ngày 19/09/2014
của Bộ Thông tin và Truyền thông không tuân theo một quy
chuẩn chuyên môn nào trong lĩnh vực thông tin và truyền
thông hiện hành.
Do
đó, kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông
tin và Truyền thông không phải là chứng cứ hợp pháp.
KIẾN
NGHỊ:
Căn
cứ khoản 3 điều 58, khoản 1 điều 107, khoản 1 điều
169 BLTTHS 2003, tôi đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối
cao:
-
Ra quyết định đình chỉ vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng
đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân” theo điều 258, BLHS”; và
-T
rả tự do ngay cho ông Nguyễn Hữu Vinh Và bà Nguyễn Thị
Minh Thuý. Xin trân trọng cảm ơn.
Người
làm đơn
(đã
ký)
LÊ
THỊ MINH HÀ
Nơi
nhân:
-
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang;
-
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng;
-
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng;
-
Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình.
No comments:
Post a Comment