Luật
Sư Nguyễn Hữu Thống
21/11/2014
Năm
1986, khi nhận Giải Hòa Bình Nobel, nhà văn Elie Wiesel đã
minh thị cam kết: “Tôi thề sẽ không bao giờ im tiếng
nếu ở đâu và khi nào con người còn bị đau khổ và
đầy đọa. Chúng ta phải nhập cuộc. Trung lập chỉ có
lợi cho kẻ đàn áp. Im lặng là khuyến khích kẻ áp bức.
Do đó chúng ta phải can thiệp. Khi đời sống con người
bị đe dọa, phẩm giá con người bị chà đạp, các biên
thùy quốc gia không còn quan trọng nữa. Nơi nào con người
bị hành hạ vì lý do tôn giáo, chính trị hay chủng tộc,
nơi đó lập tức trở thành trung tâm của vũ trụ”.
Từ
4 thập niên Việt Nam là địa bàn hoạt động mà cũng là
môi trường sinh động của những cuộc tranh luận và lên
tiếng về nhân quyền. Ở đây nhân phẩm bị chà đạp,
đời sống của người dân bị đe dọa, con người bị
đàn áp vì lý do tôn giáo, chính trị, chủng tộc hay
thành phần xã hội.
Đặc
biệt là, sau cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Đông Âu và
Liên Xô, từ năm 1991 có hàng trăm tù nhân chính trị và
tù nhân tôn giáo đã bị bắt giữ, truy tố và kết án
về những tội danh giả tạo hay cưỡng ép như phản
nghịch, gián điệp, phá hoại chính sách đoàn kết quốc
gia, tuyên truyền chống nhà nước, lợi dụng quyền tự
do dân chủ v.v… Không tháng nào không thấy những vụ
đàn áp khủng bố, hăm dọa sách nhiễu, điều tra giam
giữ hay kết án oan ức các công dân lương thiện có lòng
với đất nước và có dũng cảm đứng lên đòi Tự Do,
Công Lý, Dân Chủ và Nhân Quyền.
Để
phản ứng lại, các Chính Phủ và Quốc Hội các nước
dân chủ tiên tiến, Các Hội Bảo Vệ Nhân Quyền trên
thế giới, các Nghiệp Đoàn Ký Giả Không Biên Cương và
các Tổ Chức Văn Bút Quốc Tế đồng thanh cảnh giác nhà
cầm quyền Hà Nội về những vi phạm nhân quyền, đồng
thời phản kháng và đòi nhà cầm quyền phải tôn trọng
nhân quyền bằng cách trả tự do cho các tù nhân lương
tâm.
Nếu
nhân quyền có tính toàn cầu, bất khả phân, liên lập
và liên quan với nhau thì sự can thiệp và nhập cuộc của
nhân loại văn minh cũng có tính toàn cầu, thường xuyên,
tức thời và đồng bộ.
Ngày
nay, theo quan niệm nhà văn Elie Wiesel, Việt Nam đã làm
thức tỉnh lương tâm nhân loại và trở thành trung tâm
của vũ trụ.
Trình
bầy về những vấn đề nhân quyền tại Việt Nam nhằm
đề xướng, phát huy, tôn trọng và thực thi quyền con
người tại Việt Nam. Đồng thời để góp phần vào việc
tìm kiếm các phương thức nhằm loại trừ hữu hiệu
những vi phạm nhân quyền trên thế giới. Đây là một
công trình nặng về tình tự dân tộc và tình thương
nhân loại.
Trong
chiều hướng đó, soạn thảo và công bố Tuyên Ngôn Nhân
Quyền Cho Việt Nam không phải chỉ để dành riêng cho
người Việt, mà còn để thúc đẩy các dân tộc và các
quốc gia đang trên đường phát triển tại Á Phi và Châu
Mỹ La Tinh hội nhập vào trào lưu dân chủ hóa và toàn
cầu hóa.
Có
như vậy nhân quyền mới được thực sự tôn trọng và
thực thi đem lại tự do hạnh phúc cho con người, hòa
giải thân thiện cho các quốc gia, thông cảm bao dung cho
các dân tộc, tiến tới một Thế Giới Đại Hòa trong
tinh thần bình đẳng, hợp tác và hữu nghị.
Đây
là giấc mơ ngàn đời của nhân loại theo đó người
trong bốn biển đều là anh chị em.
Muốn
xây dựng tự do dân chủ cho Việt Nam đường lối hữu
hiệu nhất là đấu tranh cho nhân quyền. Vì nhân quyền
là mục tiêu chung của những người Việt Nam yêu nước,
là mẫu số chung để kết hợp lòng người.
Mặt
Trận Nhân Quyền chủ trương truyền bá nhân quyền, đấu
tranh đòi thực thi nhân quyền và phản kháng những vi
phạm nhân quyền.
Muốn
phát động phong trào phải nâng cao dân trí và chấn hưng
dân khí.
Để
nâng cao dân trí trước kia chúng ta có Phong Trào Truyền
Bá Quốc Ngữ. Ngày nay, trong kỷ nguyên thông tin, để
khai thông dân trí chúng ta có những phương tiện truyền
thông tân kỳ.
Muốn
chấn hưng dân khí chúng ta phát động Phong Trào Truyền
Bá Nhân Quyền để phổ biến những kiến thức nhân
quyền cho quảng đại quần chúng nhất là giới học sinh
sinh viên là những người thiết tha với tiền đồ dân
tộc. Có kiến thức nhân quyền người dân sẽ có ý thức
nhân quyền. Có ý thức nhân quyền người dân sẽ biết
rõ họ có quyền đòi nhà nước thực thi những quyền
gì, và những quyền này đã bị tước đoạt ra sao? Từ
đó họ sẽ công phẫn và cảm thấy tủi hổ phải sống
dưới một chế độ phi nhân, độc tài, tham nhũng, bất
công và bất lực. Từ chỗ phẫn tâm đó mới nẩy ra ý
chí đấu tranh.
Nhân
quyền từ đâu mà có?
Từ
khi con người biết sống hợp quần trong xã hội để
thành lập quốc gia, giữa người dân và quốc gia có
những nghĩa vụ hỗ tương phát sinh từ một khế ước
mặc nhiên mệnh danh là khế ước xã hội. Chiếu khế
ước này người dân có nghĩa vụ phải đóng thuế để
nuôi dưỡng quốc gia, phải đi lính để bảo vệ bờ cõi
của quốc gia. Chiếu nguyên tắc quân bình giữa quyền
lợi và nghĩa vụ, để đáp lại những hy sinh về sinh
mạng và tài sản của người dân, quốc gia cũng có nghĩa
vụ phải bảo đảm cho người dân những quyền căn bản
như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc. Đó là những dân quyền xuất phát từ tư
cách công dân.
Nhân
quyền bao quát hơn và có trước dân quyền. Nhân quyền
áp dụng cho tất cả mọi người, từ đứa trẻ hài nhi
đến các trú dân. Nhân quyền xuất phát từ nhân phẩm,
từ giá trị bẩm sinh của con người. Đây là những
quyền của con người (human rights) như những quyền dân
sự chính trị, mà cũng là những nhu cầu của con người
(human needs) như những quyền kinh tế xã hội và văn hóa
giáo dục. Những quyền này xuất phát từ tư cách con
người và tư cách công dân.
Các
nước tự do dân chủ đặt vấn đề nhân quyền toàn
diện, gồm cả những quyền kinh tế xã hội (cơm ăn áo
mặc, y tế giáo dục) và những quyền dân sự chính trị
(tự do nhân thân, tự do tinh thần, tự do dân chủ).
Theo
quan điểm của các nhà lập quốc Hoa Kỳ những vấn đề
kinh tế xã hội chỉ có thể được giải quyết thỏa
đáng trong chế độ tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh với
sự trọng tài của một chính quyền dân chủ do người
dân tự do bầu lên. Vì nếu không có một chính phủ dân
chủ thì những lợi ích kinh tế đạt được rồi cũng
sẽ bị phe cầm quyền tước đoạt bằng tham nhũng và
lạm quyền. Lịch sử đã chứng minh rằng những nước
tự do dân chủ đã giải quyết thỏa đáng hơn những nhu
cầu kinh tế xã hội và văn hóa giáo dục của người
dân.
Từ
thế kỷ 13 Anh Quốc ban hành Đại Hiến Chương
(Magna Carta), đề xướng và bảo vệ quyền
tự do nhân thân của người dân, không bị bắt bớ,
giam giữ, lưu đầy hay hành quyết nếu không có bản án
hợp pháp của hội thẩm đoàn nhân dân xác nhận tội
trạng chiếu theo luật pháp quốc gia. Đại Hiến Chương
không cho phép nhà nước bắt giam phòng ngừa, quản thúc
tại gia hay “quản chế hành chánh” những người đối
kháng có dũng cảm đứng lên đòi cải thiện đường lối
và chính sách quốc gia.
Tuyên
Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ (1776) nhìn nhận quyền
bình đẳng của con người là một chân lý hiển
nhiên, và đề xướng những nhân quyền căn bản như
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc. Đây là những quyền bẩm sinh, bất khả xâm
phạm do Tạo Hóa ban cho con người.
Tuyên
Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp (1789) nêu
lên 3 mục tiêu tự do, bình đẳng, bác ái, quan niệm nhân
quyền là những quyền tự nhiên, thiêng liêng, bất khả
chuyển nhượng của con người. Tuyên Ngôn cảnh giác nhân
loại rằng: “Sự phủ nhận, khinh miệt hay lãng quên
nhân quyền là những nguyên nhân đem lại đại bất hạnh
cho người dân và sa đọa cho chính quyền. Mục đích của
mọi tập hợp chính trị là để bảo toàn những quyền
tự nhiên và bất khả chuyển nhượng của con người như
quyền tự do, quyền tư hữu, quyền an ninh và quyền đối
kháng bạo quyền”.
Tuyên
Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
cũng dành cho người dân quyền đối kháng.
Lời
Mở Đầu Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nhận định
rằng: “Điều cốt yếu là nhân quyền phải được một
chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi
bị dồn vào thế cùng phải nổi dậy chống áp bức và
bạo quyền”.
Theo
Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ “khi chính quyền vi phạm
nhân quyền, người dân có quyền lật đổ chính quyền
để thiết lập một chính quyền mới đặt căn bản trên
những nguyên tắc và thể chế thuận lợi nhất cho việc
bảo đảm an ninh và hạnh phúc của con người. Lịch sử
đã chúng minh rằng nhân loại thường muốn chịu nhẫn
nhục khổ cực hơn là muốn đứng lên đấu tranh để
giải trừ các chế độ đã thiết lập từ lâu. Tuy nhiên
với thời gian, nếu chính quyền vẫn ngoan cố tiếm đoạt
và lạm quyền để siết chặt guồng máy thống trị bạo
tàn bằng chế độ chuyên chính tuyệt đối, người dân
có quyền và có nghĩa vụ đứng lên lật đổ chính quyền
để giành lại những bảo đảm cho cuộc sống tương
lai. Trải qua bao nhiêu giai đoạn đàn áp chúng ta đã
thỉnh cầu chính quyền cải tổ bằng những lời lẽ nhu
hòa nhất. Vậy mà bao nhiêu thỉnh cầu kế tiếp của
chúng ta chỉ được trả lời bằng những thóa mạ thường
xuyên. Chính quyền này đã biểu lộ cá tính của một
bạo quyền. Nó không còn xứng đáng lãnh đạo một dân
tộc tự do”…
Tâm
trạng và ý nguyện của người dân Hoa Kỳ cách đây hơn
200 năm cũng là tâm trạng và ý nguyện của người dân
Việt Nam hôm nay.
Từ
thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên một số Nho Gia tiến
bộ cũng chủ trương người dân có quyền đứng lên lật
đổ bạo quyền: “Giết vua tàn bạo cũng như giết kẻ
độc phu” (Tuân Tử); “Ta chỉ nghe nói giết tên Trụ
chứ không nghe nói giết vua” (Mạnh Tử). Đó là quan
niệm quý dân khinh vua (dân vi quý, quân vi khinh) mở đường
cho chế độ dân chủ với một “chính quyền bởi dân,
của dân và vì dân” (Abraham Lincoln).
Năm
1941, tại diễn đàn Quốc Hội Hoa Kỳ, Tổng Thống
Franklin Roosevelt đề xướng 4 quyền tự do căn bản
(The 4 Freedoms):
Tự
do ngôn luận (freedom of speech).
Tự
do tín ngưỡng (freedom of belief).
Quyền
được giải thoát khỏi sự túng thiếu (freedom from want).
Quyền
được giải thoát khỏi sự sợ hãi (freedom from fear), sợ
hãi do nạn xâm lược bên ngoài và chuyên chế bên trong.
Lời
Mở Đầu Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng nhắc
lại 4 quyền căn bản này: “Việc đạt tới một thế
giới trong đó mọi cá nhân đều có quyền tự do ngôn
luận, tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ
hãi và sự khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng
cao cả nhất của con người.”
Tuyên
Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp đề xướng những
nguyên tắc về dân chủ pháp trị:
Tự
do là quyền được làm mọi điều mà không gây thiệt
hại cho người khác.
Điều
gì luật pháp không cấm là cho phép.
Công
dân được quyền bình đẳng tham gia công vụ.
Mọi
người được suy đoán là vô tội.
Không
ai có thể bị quấy phá vì những quan điểm về tư tưởng
hay niềm tin về tôn giáo. Quyền tự do phát biểu quan
điểm là một quyền cao quý nhất của con người.
Công
Ước Dân Sự Chính Trị Liên Hiệp Quốc nêu lên 7
nhân quyền căn bản không thể bị đình chỉ dầu trong
tình trạng khẩn trương hay chiến tranh:
Quyền
sống.
Quyền
không bị tra tấn hành hạ.
Quyền
không bị nô lệ hay nô dịch.
Quyền
không bị câu thúc thân thể vì thiếu nợ.
Quyền
không bị kết án về một tội hình sự do những hành
động không cấu thành tội hình sự chiếu luật pháp
quốc gia hay luật pháp quốc tế, luật pháp quốc tế là
những nguyên tắc hình luật tổng quát được thừa nhận
bởi cộng đồng các quốc gia (như Luật Quốc Tế Nhân
Quyền).
Quyền
được công nhận là con người có tư cách pháp nhân để
được quyền bình đẳng trước pháp luật.
Quyền
tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo
(Điều 4)
Chiếu
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc các quốc gia hội viên cam
kết cộng tác với Liên Hiệp Quốc trong việc tôn
trọng và thực thi nhân quyền trên toàn cầu. (Điều
55-56)
Vì
nhân quyền có tính toàn cầu, bất khả phân, liên lập
và liên quan với nhau, quốc gia có trách nhiệm tiên khởi
và có nghĩa vụ phải thực sự thi hành đầy đủ và
đồng đều nhân quyền và những quyền tự do căn bản
cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu
da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc
quốc gia, thành phần xã hội, tài sản, dòng dõi, hay bất
cứ thân trạng nào khác.
Với
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, vấn đề nhân quyền đã
được quốc tế hóa. Từ nay các quốc gia hội viên
Liên Hiệp Quốc không thể chủ trương rằng việc họ
thủ tiêu, tàn sát hay đàn áp các công dân của họ chỉ
là vấn đề nội bộ!
Để
kỷ niệm ngày ban hành Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền,
ngày 10 tháng 12 mỗi năm được gọi là Ngày Quốc Tế
Nhân Quyền.
Năm
1994, Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Nghị Quyết
Chung lấy ngày 11 tháng 5 mỗi năm là Ngày Nhân Quyền cho
Việt Nam. Nghị Quyết này đã được Tổng Thống Hoa Kỳ
phê chuẩn và ban hành để trở thành Luật Công Pháp ngày
25-5-1994 (số 103. 258), với nội dung chủ yếu như sau:
“Quốc
Hội Hoa Kỳ yêu cầu Chính Phủ Hà Nội:
Phóng
thích tất cả các tù nhân chính trị.
Bảo
đảm cho nhân dân Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt tín ngưỡng, chính kiến, hay đoàn
thể trong quá khứ.
Phục
hồi các nhân quyền căn bản như tự do ngôn luận, tự
do tín ngưỡng, tự do di chuyển và tự do lập hội.
Bãi
bỏ chế độ độc đảng.
Công
bố một phương án và lịch trình tổ chức tổng tuyển
cử tự do và công bằng dưới sự giám sát của Liên
Hiệp Quốc để nhân dân Việt Nam được hành sử quyền
dân tộc tự quyết”.
Lập
trường chung thủy của nhân dân và Quốc Hội Hoa Kỳ gây
cảm hứng cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh đòi
Tự Do, Công Lý, Dân Chủ và Nhân Quyền.
.
ỦY
BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN
N.H.T.
.
No comments:
Post a Comment