Trần
Nhật Vy (tuoitre.vn
)
Tháng
Mười Một 20, 2014
Ngày
1-1-1882, cách nay gần 130 năm, là ngày chính quyền thực
dân Pháp đã buộc người Việt ở Nam kỳ “phải dùng
chữ quốc ngữ”. Nội dung quan trọng này nằm trong nghị
định ra ngày 6-4-1878 “về việc dùng tiếng An Nam bằng
mẫu tự Latin” do thống đốc Nam kỳ Lafont ký.
Nghị
định trên ra đời sau 20 năm Pháp xâm chiếm nước ta và
sau thế kỷ ra đời và phát triển của chữ Việt.
Vì
sao người Pháp ra nghị định 6-4-1878?
Điều
này được nói rõ trong nội dung nghị định. Nguyên văn
như sau:
“Xét
rằng chữ viết của tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin ngày
nay đã khá phổ thông trong các tỉnh Nam kỳ, là thứ chữ
dễ học hơn chữ Nho và tiện lợi nhiều so với chữ Nho
trong việc làm cho những giao dịch giữa các quan cai trị
với dân bản xứ được trực tiếp hơn. Xét rằng việc
dùng hợp pháp thứ chữ đó chỉ làm cho dân chúng dễ
đồng hóa với chính quyền ta, và vì thế thật là một
đường lối chính trị tốt nếu bắt buộc dùng nó trong
các giao dịch chính thức. Tuy nhiên, xét rằng một cải
cách quan trọng như thế không thể thực hiện được
ngay tức khắc, và để thực hiện nó cần có sự cộng
tác của những tầng lớp lãnh đạo trong dân chúng. Chiếu
đề nghị của quyền giám đốc nội vụ, sau khi hội
đồng tư vấn đã được hội ý kiến, nay ra nghị định:
Điều
1: kể từ ngày 1-1-1882 tất cả những văn kiện chính
thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết,
chỉ thị… sẽ được viết, ký và công bố bằng chữ
mẫu tự Latin.
Điều
2: kể từ ngày trên, không một tuyển dụng nào được
thi hành, không một thăng trật nào được cho phép, trong
ngạch phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai không ở
trong tình trạng viết được chữ quốc ngữ. (Nguyễn Văn
Trung – Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc).
Đến
đầu năm 1881, thống đốc Nam kỳ lúc đó là Le Myre de
Vilers đã ký quyết định “nhắc lại” việc dùng chữ
quốc ngữ trong hệ thống hành chính. “Vì lời nghị
ngày mồng 6 tháng 4-1878, từ ngày mồng 1 janvier 1882, về
các tờ giấy làm việc quan buộc phải viết ra bằng quốc
âm chữ Langsa; Xét vì lời nghị nầy phải thi hành lần
lần, vì trong lúc người ta biết chữ quốc âm Langsa đủ
dùng trong các tổng” (Gia Định Báo ngày 21-2-1881). Và
ngày 24-10-1881 cũng trên tờ Gia Định Báo phần tạp vụ,
văn phòng Nha nội vụ đã đăng thông báo “nhắc lại”.
“Ông directeur de l’interieur (giám đốc Nha nội vụ,
người đương thời gọi là quan lại bộ thượng thơ),
làm lời rao cho ai nấy đặng hay, lời nghị ngày mồng 6
avril 1878, buộc từ ngày mồng 1 janvier 1882 trong
những giấy lá việc quan mà viết theo tiếng An Nam đều
phải dùng chữ Langsa mà thôi”.
Và
ngày 30-1-1882, thống đốc Nam kỳ Le Myre de Vilers ra nghị
định nhắc lại lần cuối cùng: “kể từ ngày hôm nay,
việc chỉ dùng những mẫu tự Pháp trở thành bắt buộc
trên toàn cõi Nam kỳ thuộc Pháp, trong những giấy tờ
chính thức viết bằng tiếng An Nam”. (Nguyễn Văn Trung –
Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc).
Có
thể nói, kể từ ngày 1-1-1882, người Việt bắt đầu
chính thức sử dụng thứ chữ viết từng được gọi là
“chữ quốc ngữ, quốc ngữ hay tiếng An Nam dùng chữ
Langsa”, thứ chữ viết hôm nay người Việt dù sống ở
đâu, trên đất nước VN hay nơi nào đó trên thế giới
đều xem là văn tự chính thống của người Việt.
Để
có được điều đó, chữ Việt đã trải qua nhiều thăng
trầm.
Ngược
dòng chữ Việt
Chúng
ta đều biết chữ Việt do những giáo sĩ phương Tây tới
Việt Nam truyền đạo sáng tạo vào thế kỷ 17. Và người
được vinh danh nhiều nhất chính là giáo sĩ Alexandre de
Rhodes.
Ngoài
bức tượng nhỏ của ông dựng trong khuôn viên 161 Lý
Chính Thắng (Quận 3), ông còn có tên đường ở ngay
trung tâm TP.HCM. Thực tế có phải Alexandre de Rhodes là
người duy nhất sáng tạo chữ Việt? Không hoàn toàn như
vậy.
Sáng
tạo ra chữ Việt là công trình của nhiều người với
mục đích ban đầu chỉ để truyền đạo. Theo Giáo sĩ
Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên của Nguyễn
Khắc Xuyên, chữ Việt manh nha xuất hiện từ năm
1625-1626 trong một bức thư của giáo sĩ F. Buzomi, người
Ý. Năm 1627, giáo sĩ Baldinotti đã xuất bản một bản
Điều trần về xứ Đàng Ngoài có ghi một vài chữ quốc
ngữ. Năm 1631, trong quyển Điều trần về xứ Đàng Trong
của giáo sĩ Cristoforo Borri, người Ý, đã xuất hiện
nhiều câu quốc ngữ như Scin (xin), Ciàm (chẳng), Gnoo
(nhỏ), Chiam (chăng), Tlom (trong), Bua (vua)…
Tuy
nhiên, công lớn lại thuộc về các giáo sĩ Bồ Đào Nha.
Giáo sĩ được đương thời coi là “thầy tiếng Việt”
là Francesco de Pina. Hai “học trò” của Pina được thừa
nhận có công lớn là giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio
Barbosa. Hai giáo sĩ này là người đầu tiên viết từ
điển Việt – Bồ và Bồ – Việt. Hai ông sau khi rời
Hội An, định cư ở Macau gần 10 năm. Không may Gaspar
d’Amaral tử nạn trên biển Macau vào tháng 2-1646 khi trên
đường đến Việt Nam. Antonio Barbosa cũng mất một năm
sau đó.
Trước
khi mất họ để lại trong nhà thờ San Pauli ở Macau những
quyển từ điển Việt – Bồ – Latin mà họ đã sáng
tạo. Và giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người mang từ điển
đó về châu Âu (Phạm Văn Hường – Đi tìm nguồn gốc
chữ quốc ngữ). Đến năm 1651, quyển Từ điển Việt –
Bồ – La ra đời dưới cái tên tác giả Alexandre de
Rhodes. Và đây là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên
xuất hiện trên thế giới và ông Đắc Lộ (tên tiếng
Việt của Alexandre de Rhodes) được công nhận là người
có công trong việc sáng tạo chữ Việt.
Những
sáng tạo của các giáo sĩ phương Tây không thể không có
sự góp phần của người bản xứ. Nhiều tài liệu đã
nhắc tới “những người thầy không tên” của các
giáo sĩ. Theo xơ Jean Berchmans Minh Nguyệt trong tập san MISS
của Vatican, giáo sĩ Đắc Lộ đã học tiếng Việt với
“một người thầy trạc 10-12 tuổi”, người sau này
trở thành thầy giảng đạo giúp việc cho các giáo sĩ.
Giáo
sĩ Đắc Lộ đã nói về “thầy” của mình: “Chỉ
trong vòng ba tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất
cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức
phát âm của từng chữ”.
Những
tài liệu khác cũng cho biết “thầy” của các giáo sĩ
Amaral và Barbosa có tới 14 người. Những cái tên như
Trâm, Văn Triều, Sang, Văn Tang, Cai, Văn Nhất… xuất hiện
trong một tài liệu của Dòng Tên mang tên “Chung quanh mô
thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam” (Huỳnh Ái Tông –
Nguồn gốc chữ quốc ngữ).
Chữ
Việt thời kỳ đầu khác xa với chữ Việt hôm nay, thậm
chí hôm qua. Những từ “oũ” (ông), “kẻ hằii” (kẻ
hầu), “bên đoũ đa” (bên Đống Đa)… vẫn còn nhiều
âm hưởng nước ngoài đối với người Việt. Tới khi
xuất hiện trong Từ điển Việt – Bồ – La năm 1651
cũng còn những khoảng cách xa với chữ Việt mà chúng ta
đang dùng: “bao nheo” (bao nhiêu), “tôi blả bấy nheo”
(tôi trả bấy nhiêu), “muấn” (muốn), “đức chúa
Blời” (đức Chúa Trời), “iêo” (yêu), “khoăn đã
nao” (khoan đã nào), “nếo” (nếu)…
Không
chỉ có Từ điển Việt – Bồ – La, giáo sĩ Đắc Lộ
còn được ghi nhận là có công đầu trong việc sáng tạo
chữ Việt từ quyển Phép giảng tám ngày (1651) và phần
“tiểu lược về tiếng An Nam hay tiếng Bắc kỳ” còn
gọi là cuốn văn phạm VN đầu tiên (in chung với cuốn
từ điển). Nếu Phép giảng tám ngày là cuốn sách chuyên
về đạo đầu tiên của quốc ngữ thì cuốn văn phạm
là sự sáng tạo không còn nghi ngờ gì nữa và là của
riêng ông.
“Tất
cả tinh thần của tiếng nói là ở các dấu lên xuống”
– giáo sĩ Đắc Lộ nhận xét. Có thể chính nhờ cuốn
văn phạm này mà các giáo sĩ, người học chữ Việt đời
sau cảm thấy dễ dàng hơn.
Sau
Filiphé Bỉnh là những ai đã học chữ Việt? Ít nhất
chúng ta biết được một người, đó là linh mục
Phillipe Phan Văn Minh, người đã góp sức cùng giáo sĩ
Taberd viết cuốn Tư vị Taberd tại Ấn Độ và cũng là
người mang cuốn sách này về Việt Nam.
Những
người Việt trong nhà thờ
Theo
Đỗ Quang Chính ghi nhận trong văn khố Dòng Tên ở Roma
có “một bức thư của thầy Igesco Văn Tín gửi cho linh
mục Marini, viết ngày 12-9-1659” và “một tập lược
sử nước Annam và một lá thư viết ngày 25-10-1659 của
thầy Bento Thiện gửi linh mục Marini” hoàn toàn bằng
chữ Việt (tập Lịch sử nước Annam).
Những
chữ Việt trong các tài liệu này tuy khác xa với chữ
viết hôm nay nhưng tiếng Việt thời này đã thành một
hệ thống đủ để thông tin và ghi chép. Thầy Văn Tín
viết “ơn Thài xưa dạy dõ tôy nhèu đàng cho nên thàn
mà ráp cậi thày cho nen chãng hai bai giờ vứang thày tôy
càng buồn hơn nữa mà ướoc au cho được thai mạt Thài
như con tlon mẹ vè cho được bú bại…” (ơn thầy xưa
dạy dỗ tôi nhiều đàng cho nên thánh mà ráp cậy thầy
cho nên chẳng hay bây giờ vắng thầy tôi càng buồn hơn
nữa mà ước ao cho được thấy mặt thầy như con trông
mẹ về cho được bú vậy).
Thứ
hai là bức thư của thầy giảng Biển Đức Thiện (Bento
Thiện) viết tại Đàng Ngoài (ở Thăng Long) ngày
25-10-1659 cũng gửi cho linh mục G.F.de Marini cùng một thời
gian với thư của thầy Văn Tín nên chữ viết tương tự.
Đáng chú ý là tập Lịch sử Annam bằng tiếng Việt.
Chỉ dài có 12 trang chữ nhỏ li ti khổ 19×28 (trang cuối
khổ 12×6 và chỉ có chín dòng chữ) nhưng chứa đựng
khá nhiều thông tin về lịch sử nước Việt ở các
lĩnh vực chính trị, xã hội, thi cử, hành chính từ
thời Lạc Long Quân cho đến thời Trịnh Nguyễn. Có thể
coi đây là bản sơ thảo về lịch sử Việt Nam đầu
tiên viết bằng chữ Việt sau khi quyển từ điển tiếng
Việt đầu tiên ra đời năm 1651.
Còn
Thanh Lãng trong Biểu nhất lãm văn học cận đại phát
hiện Filiphé Bỉnh (1759-1832), một linh mục Dòng Tên
người Việt, là người viết chữ Việt, hơn 100 năm sau
đó. Filiphé Bỉnh có thể rời Việt Nam năm 1794 và cư
ngụ tại Bồ Đào Nha 30 năm. Thanh Lãng chưa tìm thấy
tiểu sử của Filiphé Bỉnh nhưng tìm thấy khá nhiều
tài liệu bằng chữ Việt của ông lưu trữ tại Lisbon,
Bồ Đào Nha.
Tới
thành Macao thơ có lẽ là bài thơ bằng tiếng Việt đầu
tiên do Filiphé Bỉnh sáng tác vào ngày 4 tháng chạp năm
1794. “Tôi đang gưỡi gắp (gửi gắm) chốn Ma cao. Hai
chữ thanh nhàn xiết kễ bao. Hôm sớm phần hồn dầu mặc
sức. Tháng ngày việc chác chẳng tơ hào. Xây dần (xoay
vần) ám tiết hằng no ấm. Đáp đổi tứ mùa khỏi khát
khao. Gần chợ gần soũ (sông) gần núi bể. Trăm mùi
khôn chút vẻ tanh tao”.
Vào
thế kỷ 18 mà chữ nghĩa của Filiphé Bỉnh đã tiến gần
với chữ Việt ngày nay cho thấy sự phát triển của chữ
Việt khá mạnh mẽ trong suốt 100 năm trước đó.
Sau
Filiphé Bỉnh là những ai đã học chữ Việt? Ít nhất
chúng ta biết được một người, đó là linh mục
Phillipe Phan Văn Minh, người đã góp sức cùng giáo sĩ
Taberd viết cuốn Tư vị Taberd tại Ấn Độ và cũng là
người mang cuốn sách này về Việt Nam. Linh mục Phan Văn
Minh (1815-1853) đồng hương với Trương Vĩnh Ký ở Cái
Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là
Bến Tre).
Linh
mục đã góp phần viết Khái luận về tiểu từ và đại
từ (Tractatus de variis particulus et pronominibus), Cách đếm
(Nomina numeralia, 10 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus
Floridus Cocincinœ), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ
(Compendium versificationis anamiticœ)… Ông còn để lại một
số tác phẩm bằng quốc ngữ như Nước trời ca, Phi
năng thi tập…
Sau
linh mục Phan Văn Minh là ai nữa? Chưa biết. Nhưng chúng
ta biết chắc rằng chữ Việt đã được gieo, nảy mầm
và lớn lên trong lòng người Việt.
Theo
bước Đắc Lộ
Hơn
100 năm sau, giám mục D’Adran tức giáo sĩ người Pháp
Pierre Pigneaux de Béhaine còn được gọi là Bá Đa Lộc
hay đức Cha cả (sinh năm 1741 tại Pháp, mất năm 1799 tại
Sài Gòn), người từng giúp Nguyễn Ánh chống lại Tây
Sơn, là người phương Tây học chữ Việt tiếp theo mà
chúng ta biết. Ông đã biên soạn bộ tự vị Việt –
La tại Sài Gòn từ tháng 9-1772 đến tháng 6-1773, với sự
giúp đỡ của một số giáo sĩ người Việt và Pháp.
Phần chính văn 662 trang là từ điển song ngữ, tiếng
Việt được ghi theo hai lối viết (Nôm và quốc ngữ)
xếp theo vần a, b, c, được giải nghĩa bằng tiếng
Latin.
Điểm
đáng lưu ý là chữ quốc ngữ trong bộ tự vị này gần
như hoàn toàn giống với chữ quốc ngữ hôm nay, các phụ
âm đôi như bl, ml… của tiếng Việt thế kỷ 17 đã
biến mất hẳn. “Điều thú vị là tuy biên soạn cách
đây hơn 200 năm nhưng khi lật lại cuốn từ điển này,
chúng ta không chỉ thấy được diện mạo của tiếng
Việt thế kỷ 18, không chỉ phần nào hiểu được bối
cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội, chính trị nước ta
vào thời kỳ đó mà còn thấy được từ ngữ cơ bản
trong tiếng Việt hiện đại” (Võ Thị Minh Hà – tạp
chí Ngôn Ngữ và Đời Sống số 7/2006).
“Cái
mới của tự vị Bá Đa Lộc là loại hẳn cách viết
của Đắc Lộ và không còn thấy những nhóm phụ âm đầu
mnhầm, mlầm. Nhóm bl như trong blái cũng không còn. Nhóm
tl chỉ còn một từ tla. Sách có “lầm” mà không có
“nhầm”, có “lanh” mà không có “nhanh”, có “lời”
mà không có “nhời”. Có “nhơn” mà không có “nhân”;
có “ơn” mà không có “ân”; nhưng vừa có “mần”
vừa có “làm”…(Mien Ngoc – sachxưa.net).
Sau
Bá Đa Lộc, “học trò chữ Việt” là giáo sĩ Taberd.
Ông này đã soạn bộ Nam Việt dương hiệp tự vị,
thường được gọi là Tự điển Taberd, in năm 1838 tại
Ấn Độ. Từ điển Taberd gồm ba phần. Phần mở đầu
có 46 trang văn phạm, nghiên cứu âm vị tiếng Việt, mô
tả tiếng Việt, nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, mô
tả cấu trúc lời nói, câu văn tiếng Việt và chỉ dẫn
cách làm thơ.
Phần
thứ hai: chính văn gồm 620 trang, mỗi trang hai cột, thu
thập 4.959 mục tự theo vần a, b, c, mỗi mục xếp theo
trật tự Nôm – quốc ngữ và dịch nghĩa bằng tiếng
Latin, tiếp theo là dẫn ra các từ ghép có chứa từ mục
tự (từ đơn) nêu trên, ví dụ: mục tự “dương”
được dẫn ra các từ ghép như: “thới dương, khí
dương, dương gian, dương thế…”.
Phần
ba: có 39 trang phụ lục về tên gọi các loại cây cỏ,
hoa trái miền Nam và công dụng của nó trong y thuật và
135 trang phụ lục ghi các từ Hán Việt thông dụng. “Một
lần nữa người làm từ điển muốn điển chế hóa
tiếng nói và chữ viết Việt Nam (ở phía Nam, ở Sài
Gòn).
Mọi
từ tiếng Việt trong từ điển đều ghi bằng hai thứ
chữ Nôm và quốc ngữ, được phân bố theo thứ tự a,
b, c và được dịch nghĩa tương đương sang tiếng Latin…
Chữ Nôm của Taberd cũng như của De Béhaine vẫn được
phân bố lệ thuộc theo âm quốc ngữ chứ không được
phân bố theo số nét và các bộ chữ Hán” (Trần Văn
Giàu, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt – Địa chí văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh tập II, NXB Thành Phố Hồ Chí
Minh 1988).
Nét
đặc biệt của Tự vị Taberd là “dạy làm thơ, hò vè,
phú…” điều mà hầu như chưa có từ điển nào làm.
Thế
nhưng suốt 200 năm, kể từ 1651-1861, do chính quyền cấm
đạo, do giới trí thức nho học bỏ qua hoặc không để
ý tới, do bị nghi kỵ thứ “chữ của người nước
ngoài”, chữ Việt vẫn chìm trong “bí mật” và chỉ
phát triển quanh quẩn trong các nhà thờ, các xứ đạo
Thiên Chúa giáo. Trong thời gian này, chữ Việt dần hoàn
thiện. Những học trò chữ Việt sau đó như Trương Vĩnh
Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký đã góp phần làm
cho chữ Việt hoàn chỉnh một bước nữa. Và đến khi
chữ Việt được xuất hiện công khai trên tờ Gia Định
báo năm 1865 thì đã tiến gần sát với chữ Việt ngày
nay.
Không
chỉ thúc ép đội quân viễn chinh Pháp trong việc bắt
buộc triều đình nhà Nguyễn chấp nhận điều khoản mà
cả triều đình lẫn giới sĩ phu lúc bấy giờ không
chịu chấp nhận là “tự do truyền đạo”, mà các
thừa sai còn thúc ép Pháp phải buộc người Việt “sử
dụng chữ quốc ngữ”.
Thế
nhưng đâu là nguyên nhân chính? Bởi đã là người chiến
thắng, Pháp có nhiều hơn một trong việc lựa chọn ngôn
ngữ để cai trị, ngoài chữ nho. Trong đó tiếng Pháp
cũng là một lựa chọn.
Thế
nhưng người Pháp đã chọn chữ quốc ngữ.
Một
tờ khai sinh năm 1938 ở miền Bắc có đến bốn dạng
chữ: chữ Nôm, chữ quốc ngữ, dấu triện bằng tiếng
Pháp và vài chữ Hán- Ảnh: Wikipedia
Vì
sao người Pháp chọn quốc ngữ?
Đây
là phần “tối” nhất trong nhiều nghiên cứu về quốc
ngữ trong văn học sử của nước ta. Có không nhiều
nghiên cứu nêu rõ nguyên nhân, lý do thực dân Pháp “quyết
liệt” ép người Nam kỳ học quốc ngữ thay vì tiếng
Pháp. Chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu của Nguyễn Văn
Trung vấn đề này.
“Ở
đây cần để ý một điều là trước khi người Pháp
xâm chiếm nước ta, các nhà truyền giáo thuộc nhiều
quốc tịch châu Âu đã theo đường lối “tôn trọng
thích nghi văn hóa, phong tục những nước bị truyền giáo
(nhất là các nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên)”. Chính
trong tinh thần đó mà họ sáng chế ra chữ quốc ngữ.
Đến thời Pháp xâm lược, các nhà truyền giáo Dòng Tên
phải nhường chỗ cho Hội thừa sai Paris và những người
này đều là người Pháp, theo một đường lối truyền
giáo cứng rắn chủ trương xóa bỏ, tiêu diệt tất cả
những gì là phong tục, văn hóa, tư tưởng của các nước
bị truyền giáo không hợp với giáo lý Thiên Chúa. Hơn
nữa, họ còn đồng hóa quyền lợi nước Pháp với quyền
lợi của đạo nên họ đã tích cực góp phần vào việc
thiết lập chế độ thực dân”. (Nguyễn Văn Trung –
Chữ, văn quốc ngữ thời đầu Pháp thuộc).
Với
tinh thần đó, các giáo sĩ đã thúc ép chính quyền Pháp
chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Pháp.
Không
chỉ thúc ép đội quân viễn chinh Pháp trong việc bắt
buộc triều đình nhà Nguyễn chấp nhận điều khoản mà
cả triều đình lẫn giới sĩ phu lúc bấy giờ không chịu
chấp nhận là “tự do truyền đạo”, mà các thừa sai
còn thúc ép Pháp phải buộc người Việt “sử dụng chữ
quốc ngữ”.
Theo
Nguyễn Văn Trung, Lanessan đã ghi: “Tôi còn giữ trong tay
một thư của giám mục Puginier, trong đó ngài trình bày
mục đích việc phiên âm bằng chữ Latin một cách thật
rõ rệt. Ngài nói khi thay thế chữ nho bằng chữ quốc
ngữ, Hội thừa sai nhằm mục đích cô lập các giáo hữu.
Những người này sẽ không còn có thể đọc được
những tác phẩm dễ đọc nhất của Trung Hoa và sẽ không
thể thư từ gì được với bất cứ một sĩ phu Tàu hay
ta nào”.
Đó
là nhận định của người Việt và giới giáo sĩ. Còn
quan điểm của chính quyền Pháp? Có không nhiều tài liệu
để thẩm tra vấn đề này. Có lẽ thông tư ngày
10-4-1878 của giám đốc Nha nội vụ Béliard thể hiện rõ
nhất quan điểm của Pháp: “Chúng ta sẽ rất lợi cả
về mặt chính trị lẫn thực tế, nếu làm tiêu tan dần
dần chữ nho mà việc dùng thứ chữ đó chỉ có thể có
một ảnh hưởng tai hại đối với công trình đồng hóa
mà chính phủ đang dồn mọi nỗ lực thực hiện”.
Tháng
9-1864, đô đốc Lagrandière đã báo cáo: “Tôi có mọi lý
do để hi vọng, nếu việc theo học các trường của
chúng ta tiếp tục, chúng ta sẽ có ít nhất, trong chưa
đầy một năm, một nghìn thanh niên An Nam biết đọc và
biết viết ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự Latin; nhờ
đó chúng ta sẽ tống một cú đánh chết người vào chế
độ quan lại, và chúng ta sẽ tự mình gỡ bỏ được
lớp văn thân là các kẻ luôn luôn có khuynh hướng gây
xáo trộn” (Milton E Osborne – Giáo dục và chữ quốc ngữ
– sự phát triển một trật tự mới 1859-1905 do Ngô Bắc
dịch).
Chính
vì vậy, ngay sau khi Hòa ước Nhâm Tuất ký chưa ráo mực,
khi ba tỉnh miền Tây còn nằm trong tầm ngắm và đang lăm
le đánh chiếm thì Pháp đã cho ra đời tờ báo tiếng
Việt ở Sài Gòn. Đó là tờ Gia Định báo. Tờ báo này
do E. Potteaux, thông ngôn tiếng Việt hạng nhất của đô
đốc, làm “tổng tài” (tổng biên tập).
Sự
phản kháng
Song
việc “quốc ngữ hóa” Nam kỳ diễn ra không hoàn toàn
thuận buồm xuôi gió. Phía những người theo Pháp và
những người được coi là giàu có không phải ai cũng dễ
dàng cho con em đi học chữ quốc ngữ.
Có
thể do những lời đồn thổi về việc “người Công
giáo không thờ cúng ông bà” xuất phát từ chuyện Đông
cung Cảnh, học trò của Bá Đa Lộc, sau khi từ Pháp về
theo đạo Công giáo và “từ chối đến tông miếu”
(thực lục nhà Nguyễn) nên nhiều người Nam kỳ sợ con
cháu mất gốc mà trốn tránh việc đi học chữ quốc
ngữ, còn vì đó là chữ của đạo Công giáo, những
người đi theo Pháp ngay khi Pháp tới Nam kỳ.
Chưa
kể người có liêm sỉ thì khó thể chấp nhận bất cứ
điều gì của quân cướp nước đề ra ngay trong lúc nhục
mất nước còn nóng hôi hổi!
Do
vậy, việc đi học rất ư là hành chính. Thực dân ra
lệnh tận làng xã “bắt trẻ con đi học chữ quốc ngữ
như bắt lính”. Còn hương chức hội tề thì “khuyến
dụ, cưỡng ép trẻ con đi học” để được thăng
thưởng. Rất nhiều người đã mướn hoặc bắt đầy tớ
trong nhà đi học thay con em mình. Câu ca dao chống việc
học chữ quốc ngữ phổ biến khá rộng ở miền Nam có
thể xuất phát từ thời bấy giờ: Đèn Sài Gòn ngọn
xanh ngọn đỏ. Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu. Anh về đi
học chữ nhu. Chín trăng em đợi mười thu em chờ. Phải
học chữ nhu (chữ nho) thì em mới chờ còn không thì sẽ…
Eliacin
Luro, thanh tra bản xứ vụ trong chính quyền Pháp mới đặt
ở Nam kỳ, tác giả giáo trình về hành chính Việt Nam
dùng cho trường các viên chức tập sự Pháp, đã thừa
nhận trong bài giáo dục số 38 về Giáo dục quốc dân
viết năm 1873: “Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi
một số học sinh quy định đến trường…
Hậu
quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ
của chúng ta kiểu như họ mộ lính, bằng cách trả tiền
cho gia đình của học sinh và công cuộc bắt buộc giáo
dục của chúng ta tính như một thứ thuế đánh thêm vào
dân” (Nguyễn Phú Phong – tranh luận về việc áp dụng
chữ quốc ngữ). Gia Định báo số ra ngày 8-3-1874 ghi “các
ông ấy cũng biết nhà trường lập ra đây để cho các
học trò Annam học thì có nhiều điều ngăn trở kể
chẳng xiết”.
Phía
các sĩ phu, sự chống đối diễn ra dữ dội hơn. Năm
1885, một số thân hào nhân sĩ đã gửi thư thỉnh nguyện
đến Hội đồng quản hạt Nam kỳ “đề nghị bãi bỏ
chữ quốc ngữ”. “…Theo thiển ý chúng tôi, hiện nay
chỉ có hai thứ tiếng có thể được ở Nam kỳ, tiếng
Pháp mà chúng tôi muốn học và tiếng Annam nôm na mà
chúng tôi đều biết viết bằng chữ Nôm… Quý vị hãy
đoán xem chúng tôi lúng túng thế nào mỗi khi chúng tôi
nhận được những lệnh viết bằng thứ chữ (quốc ngữ)
trên, chúng tôi phải chạy kiếm hàng chục người thông
ngôn mà chúng tôi phải trả tiền, để rồi rốt cục họ
đã làm chúng tôi hiểu hoàn toàn ngược lại với những
gì người ta muốn truyền lệnh cho chúng tôi”.
Nổi
bật trong thời kỳ này là nhà thơ Phan Văn Trị với cuộc
bút chiến giữa ông và Tôn Thọ Tường, một trí thức
Hán học đi theo thực dân Pháp. Cuộc bút chiến diễn ra
khá gay gắt của hai phe trở thành giai thoại trong làng
văn ở Nam kỳ.
Với
Phan Văn Trị và các đồng chí của ông như Huỳnh Mẫn
Đạt, Lê Quang Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa…việc theo Pháp của
người trí thức là không thể chấp nhận được.
Chính
quyền Pháp đã chuẩn bị đến 20 năm (1862-1882) trước
khi thực hiện nghị định cưỡng bách dùng quốc ngữ.
Ngoài việc cho phổ biến chữ Việt bằng báo chí, họ đã
cho mở các trường học dạy tiếng Việt và tiếng Pháp,
từ đó hình thành một nền giáo dục Việt – Pháp ở
nước ta.
D’
Adran và trường học giáo hội
“Ngày
17-2-1859, ngay khi đổ bộ lên Sài Gòn, đô đốc R. de
Genouilly đã thấy có mặt tại đây một chủng viện và
một trường học gọi là Trường D’Adran do hội truyền
giáo nước ngoài thiết lập. Học sinh trường này học
đọc và học viết chữ quốc ngữ. Họ cũng được học
tiếng Latin, đôi khi vài chữ tiếng Pháp” (Nguyễn Phú
Phong – Chữ quốc ngữ bành trướng từ Nam ra Bắc).
Trong “Khảo luận về nền học chính tại Nam kỳ” đọc
tại buổi họp của Hội nghiên cứu Đông Dương ngày
23-10-1899 của E. Roucoules, nguyên hiệu trưởng Trường
Chasseloup Laubat (Lại Như Bằng dịch), cũng xác định
D’Adran là trường học dành “cho dân bản xứ theo đạo
Gia Tô học đọc và viết tiếng nói Annam bằng chữ mẫu
tự Latin”.
Như
vậy, D’Adran là trường học đầu tiên dạy chữ Việt
ở Sài Gòn cũng như Việt Nam. Để có người làm thông
ngôn trong giai đoạn đầu tiên, ngay trong năm 1861 sau khi
chiếm Sài Gòn, Bonard đã quyết định “tài trợ” một
phần chi phí và sau đó “nâng cấp trường (D’Adran)
thành một trường cao đẳng với tên đầy đủ là
Collège Annamite-Français de Monseigneur l’Évêque d’Adran”
(ngày 8-5-1862) với nhiệm vụ dạy chữ Việt cho “các
thông ngôn gốc Âu xuất thân từ quân đội hay hải quân”
và nhiệm vụ này Trường D’Adran làm đến năm 1871 mới
chấm dứt. Chương trình học đơn giản và kéo dài chín
tháng. Các học viên phải trải qua một kỳ thi, nếu
không đậu thì bị trả về quân ngũ. Ngày 1-2-1866, đô
đốc Lagrandière quyết định “thành lập một trường
Pháp tại Sài Gòn, giao cho các tu sĩ điều hành, được
tổ chức ngay trong Trường D’Adran” (Khảo luận về nền
học chính Nam kỳ – E. Roucoules).
Không
rõ cái tên D’Adran tồn tại cho tới năm nào, nhưng trên
nền trường này sau đó mọc lên hai ngôi trường trung
học khá nổi tiếng ở Sài Gòn, đó là Trường Võ Trường
Toản và Trường Trưng Vương.
Ngày
18-7-1864, đô đốc Lagrandière quyết định “mở ra tại
các trung tâm tỉnh lỵ chính, các trường tiểu học dùng
chữ mẫu Âu Tây và giao cho các thông ngôn, thư ký đảm
nhiệm dạy học hai giờ mỗi ngày”. Quyết định này
cũng quy định những người dạy “được lãnh lương
phụ trội thêm một franc một ngày dạy” và học sinh
thì “được thưởng thêm một franc nếu biết đọc biết
viết” và “nửa franc nếu chỉ biết đọc”. Quyết
định cũng “miễn phí tiền học, sách vở dụng cụ
thông thường do nhà nước cấp”. Cũng trong năm này,
Trường La Saint Enfent (trong khuôn viên tu viện Saint Paul)
được xác định là trường nữ duy nhất. Trường sau
này trở thành Trường nữ Saint Paul nằm trên đường Tôn
Đức Thắng.
Trong
năm 1864, với sự tài trợ của Pháp, giáo hội đã mở
hàng loạt trường học ở các tỉnh quan trọng như Mỹ
Tho, Chợ Lớn, Vĩnh Long. Và sau đó ở Cần Giuộc, Cần
Thơ, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Ích Thạnh (Thủ
Đức), Long Hưng (địa phương thuộc Bến Tre), Mỹ Thuận,
cù lao Mây (cù lao ở khoảng giữa Cần Thơ và Kế Sách),
Bò Hút (nay là Thốt Nốt, TP Cần Thơ)… Tháng 9-1864, đô
đốc Lagrandière báo cáo đã có “20 trường học được
mở và có 300 học sinh đã biết đọc biết viết” chữ
quốc ngữ. Còn “vào tháng 3-1869, đô đốc Ohier báo cáo
có 104 trường tại thuộc địa, được theo học bởi
3.200 học trò. Sáu trong các trường này, chủ yếu những
trường tại Sài Gòn, được dạy bằng tiếng Pháp cũng
như quốc ngữ. Sau đó trong cùng năm này, sĩ số theo học
các trường tổ chức bởi chính quyền Pháp được báo
cáo là 4.481 học trò tại 120 trường”. (Milton E Osborne –
Giáo dục và chữ quốc ngữ 1859-1905 – Ngô Bắc dịch).
Trở
thành thứ chữ của người Việt
Năm
1868, đô đốc Lagrandière ký nghị định thành lập một
trường trung học tỉnh, ngoại trú, đặt dưới sự kiểm
tra của Nha nội vụ. Đây là trường đầu tiên không
liên can tới giáo hội.
Đến
cuối năm 1870, chính quyền địa phương không muốn lệ
thuộc vào giáo hội nữa, muốn tự tuyển chọn và đào
tạo giáo viên hệ thống giáo dục phi tôn giáo được
triển khai. Ngày 10-7-1871, Dupré ra ba quyết định quan
trọng. Đó là thành lập trường sư phạm thuộc địa,
một trường tiểu học và thành lập một ủy ban có
nhiệm vụ soạn chương trình học và sách cho giáo viên.
Đồng thời nâng lương cho các giáo viên cùng nhiều biện
pháp tài chính đối với học sinh. Trường tiểu học có
quy định “hiệu trưởng và ba giáo sư phải có bằng
cấp đại học hay chức vụ thông ngôn”. “Hạn tuổi
để thâu nhận vào trường là 16 tuổi tối thiểu, 25
tuổi tối đa. 60 học sinh của trường theo quy chế nội
trú và hoàn toàn được chính quyền thuộc địa chu cấp
nuôi dưỡng ăn mặc. Chùa Barbet được giao cho trường
làm cơ sở, mỗi thí sinh được nhận vào trường lãnh
25 franc làm chi phí nhập trường” (Roucoules – Nền học
chánh Nam kỳ). Cũng theo Roucoules, “chùa Barbet được giao
cho trường làm cơ sở” chính là đất của chùa Khải
Tường. Có lẽ vì vậy mà trường được gọi là Trường
Khải Tường.
Gia
Định báo ngày 15-12-1874 có đăng danh sách 84 học sinh của
Trường Khải Tường tốt nghiệp và được bổ làm thông
ngôn các nơi. Khải Tường là tên một ngôi chùa nằm ven
thành Gia Định. Đây là nơi ngày xưa Nguyễn Ánh từng
đóng quân và vua Minh Mạng sau này được sinh ra tại đây.
Sau khi lên ngôi, Minh Mạng đã ban cho chùa tên “Quốc Ân
Khải Tường”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khuôn viên
chùa ngày nay là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, số 28
Võ Văn Tần. Theo chúng tôi, khuôn viên chùa ngày xưa có
lẽ phải lớn hơn nhiều. Và Trường Khải Tường có thể
đặt ở một góc của chùa, nền của trường này từ
năm 1874-1877 đã xây dựng thành ngôi trường đầu tiên
của Sài Gòn: Trường Lê Quý Đôn hiện nay.
Cuối
năm 1874, các trường chữ nho bị bãi bỏ biến thành các
trường dạy chữ quốc ngữ và gom về các trung tâm tỉnh
lỵ lớn là Sài Gòn, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Sóc
Trăng và Bến Tre. Nhân viên của các trường này gồm một
hiệu trưởng người Pháp biết nói tiếng Việt và các
giáo viên bản xứ biết nói tiếng Pháp.
Năm
1879, thống đốc Nam kỳ Lafont quyết định thành lập nền
học chánh Pháp – Việt với ba cấp học là sơ đẳng,
tiểu học và cao đẳng tiểu học. Ở cấp thứ nhất,
học sinh sau ba năm chỉ cần nghe, viết được vài câu
đơn giản, đọc một trang sách sơ đẳng và biết bốn
phép tính. Cấp thứ hai chủ yếu là tiếng Pháp và số
học, hình học. Cấp thứ ba nới rộng chương trình tiếng
Pháp, khái niệm các môn vật lý, toán, khoa học tự
nhiên…
Như
vậy, đến năm 1879, thực dân Pháp căn bản đã hoàn
thành “đại chúng hóa” việc giáo dục toàn Nam kỳ và
chữ quốc ngữ căn bản đã trở thành thứ chữ “được
học và phải học” của bất cứ ai muốn đi học. Nói
một cách khác, với nền học chính bằng tiếng Việt
viết theo mẫu tự Latinh, chữ Việt đã lấn át gần như
hoàn toàn chữ nho. Và thế hệ thanh niên cắp sách đến
trường kể từ năm 1862 trở đi ở Nam kỳ, chữ Việt đã
trở thành thứ chữ của người Việt, chứ không còn là
chữ của đạo Thiên Chúa nữa.
Ở
miền Bắc, việc mở mang trường học đi chậm hơn gần
10 năm. Đến tháng 4-1886, cả miền Bắc chỉ có ba trường
Pháp. Nhưng qua năm 1887 đã có một trường thông ngôn,
chín trường tiểu học nam, bốn trường tiểu học nữ,
một trường tư dạy vẽ và 117 trường tư dạy chữ quốc
ngữ.
Khác
với nhiều nước phương Tây, nền văn học chữ Việt
nước ta, đặc biệt là ở Nam kỳ, được nhiều nhà
nghiên cứu khẳng định “xuất phát từ báo chí”.
Để
khơi gợi lòng yêu nước, đồng thời mở mang dân trí,
kêu gọi mọi người đều được đi học, đều biết
chữ, giới sĩ phu VN đã cho ra đời Đông Kinh nghĩa thục.
Đây
cũng là một trong những chủ đích của phong trào Duy Tân
mà Nguyễn Lộ Trạch và Phan Chu Trinh trước đó đã nhắm
tới, nên có thể coi Đông Kinh nghĩa thục là một phần
của phong trào Duy Tân vậy.
Mở
trường khai trí cho dân
Ðông
Kinh nghĩa thục là tên một trường học miễn phí, sau
trở thành tên một phong trào. “Trường nghĩa thục
đứng đầu dạy dỗ, khắp ba mươi sáu phố Hà thành,
gái trai nô nức học hành. Giáo sư tám lớp học sinh non
ngàn”. Và “Trước hết phải học ngay quốc ngữ, Khỏi
đôi đường tiếng, chữ khác nhau. Chữ ta, ta đã thuộc
làu. Nói ra nên tiếng,viết câu nên bài. Sẵn cơ sở để
khai tâm trí”. Các câu ca này xác định hoạt động
của Ðông Kinh nghĩa thục và tiêu chí của phong trào.
Theo
Nguyễn Hiến Lê, Ðông Kinh nghĩa thục thành lập năm 1906
theo gợi ý của Phan Chu Trinh tại nhà riêng của Lương
Văn Can ở phố Hàng Ðào (Hà Nội). Lương Văn Can làm
thục trưởng, Nguyễn Quyền làm giám học. Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Duy Tốn chịu trách nhiệm xin giấy phép. Mục
đích của Ðông Kinh nghĩa thục là “mở trường khai
trí cho dân”, “dạy học không lấy tiền”. “Trường
sẽ dạy cả Việt văn, Hán văn, Pháp văn”, “bỏ lối
học từ chương khoa cử mà chú trọng vào thường thức
và thực nghiệp”, “thầy dạy không lấy tiền công”.
Trong
khi chờ giấy phép, hai lớp học một nam, một nữ với
sáu, bảy chục học sinh được thành lập tại nhà số 4
Hàng Ðào, Hà Nội. Sau vài tháng xin phép, tháng 5-1907
trường mới có giấy phép và số lớp cũng tăng lên độ
“20 lớp với khoảng hơn 500 học sinh” (theo Nguyễn
Thìn Xuân trong bài 100 năm Ðông Kinh nghĩa thục thì trường
thành lập vào tháng 3-1907). Chương trình tiểu học dạy
những người mới biết chữ quốc ngữ, trung học và đại
học dạy những người đã thông chữ Hán hoặc muốn học
chữ Pháp. Các môn học có sử ký, địa lý nước nhà,
toán, vẽ, một chút khoa học.
Ðể
có sách mà dạy, trường thành lập một ban tu thư để
soạn sách do Phạm Tư Trực, Dương Bá Trạc, Lương Trúc
Ðàm, Phương Sơn (phần soạn sách) và Nguyễn Hữu Tiến,
Nguyễn Ðôn Phục, ông cử làng Ðông Tác, Hoàng Tích
Phụng (phần dịch sách). Soạn và dịch xong lại giao cho
một ban khắc in và in ra hàng trăm bản để phát cho học
sinh và đồng chí các nơi.
Các
loại sách được dịch chủ yếu là “tân thư” như Ðại
đồng thư của Khang Hữu Vi, nhất là bộ sách Ẩm
Băng Thất tùng thư của Lương Khải Siêu, Mậu Tuất
chính biến ký, còn có một số sách có tính cách là
những tập vịnh sử, ký sự về tình hình hiện đại
của Nhật Bản như Nhật Bản duy tân tam thập niên sử
(bản dịch chữ Hán của La Hiếu Cao).
Nhiều
tập sách nêu những tấm gương chiến đấu của các chí
sĩ, các nhà hoạt động chính trị, hoạt động cách mạng
của toàn thế giới cũng được các nhà nho đón đọc
một cách say sưa. Có tập như Cận thế chi quái kiệt,
đề cập đủ loại anh hùng, đều là những người
anh hùng có công đổi mới đất nước của họ, dù đó
là vua chúa hay tổng thống, giám quốc: Vua Bỉ Ðắc
(Pierre le Giand) ở Nga, Hoa Thịnh Ðốn (Washington)
ở Mỹ, Nã Phá Luân (Napoléon) ở Pháp, Tỉ Sĩ
Mạch(Bismarck) ở Ðức…
Bộ
phận soạn, viết rất nhiều các bài thơ cổ động, dùng
vần điệu lục bát, nhắc nhở quần chúng về từng
nhiệm vụ duy tân cụ thể. Họ có sáng kiến tìm những
đầu đề hấp dẫn, khêu gợi, rất hợp với tâm lý
quần chúng. Bài thơ ngắn này là Kêu hồn nước,
bài ca trù gọn nhẹ kia là để hú hồn thanh niên. Ðây
là bản Cáo hủ lậu văn, kia là bản Giác thế
tân thanh, rồi đến những bài Khuyên học quốc
ngữ, học chuyên môn, học công nghệ, học buôn bán.
Kia là những bài khuyên đoàn kết, khuyên hợp quần.
Tất cả những gì cần thiết cho sự đổi mới, Ðông
Kinh nghĩa thục đều đề cập một cách gọn gàng, thiết
thực (Chương Thâu – Phong trào Duy Tân đầu thế kỷ
20). Những bài Gọi lính tập, Tiếng gọi thanh niên
thức tỉnh trước thời cuộc, hùng hồn mà súc tích.
“Làm
lòng dân náo động”
Bên
cạnh việc đẩy mạnh học chữ quốc ngữ, Ðông Kinh
nghĩa thục thường tổ chức sinh hoạt, học tập tuyên
truyền về lịch sử nước nhà, về địa lý, toán học,
cách trí, vệ sinh… Ðặc biệt ban cổ động, tuyên
truyền của trường lại hô hào mọi người dân Việt
Nam phải có lòng yêu nước, nhớ đến cội nguồn con
Rồng cháu Tiên, phải biết đoàn kết, yêu thương, đùm
bọc lấy nhau, đào tạo những con người có ích cho đất
nước, dùng hàng nội hóa, bài trừ mọi hủ tục mê tín
dị đoan. Ngoài việc chống tư tưởng lạc hậu, Ðông
Kinh nghĩa thục còn mạnh dạn kêu gọi noi gương Nhật
Bản và nền văn minh Âu Tây. Ðể truyền bá tư tưởng
học thuật mới, Ðông Kinh nghĩa thục rất chú trọng tới
việc học chữ quốc ngữ và làm cho chữ quốc ngữ được
phát triển, dần dần thay thế chữ Nho, chữ Nôm khó học
(Nguyễn Thìn Xuân – 100 năm Ðông Kinh nghĩa thục), “chê
cái tục để búi tóc củ hành, móng tay lá lan, liên tưởng
tới những hủ tục khác như nhuộm răng, chọn ngày tốt
để tắm…” (Nguyễn Hiến Lê – Ðông Kinh nghĩa thục).
Đông
Kinh nghĩa thục còn tổ chức diễn thuyết thường xuyên
ở Hà Nội và các vùng xung quanh. Các buổi diễn thuyết
chủ yếu là kêu gọi lòng yêu nước, đả phá hủ tục,
cổ động học chữ quốc ngữ… và lời kêu gọi được
hưởng ứng chính là “cắt bỏ búi tóc” lan mạnh ở
Hà thành.
Thấy
hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục sau hơn một năm
mỗi ngày mỗi hăng, ảnh hưởng lớn dần, chính quyền
thực dân cho mở Trường Tân Quy để cạnh tranh. Trường
này do Nguyễn Tái Tích, anh ruột nhà thơ Tản Đà, làm
hiệu trưởng, khai giảng ngày 11-11-1907 nhưng chỉ có 50
sinh viên đăng ký học (Chương Thâu). Không cạnh tranh
được, chính quyền thực dân liền đàn áp. Tháng chạp
năm Đinh Mùi 1908, giấy phép của Đông Kinh nghĩa thục bị
thu hồi với cái cớ “có thể làm lòng dân náo động”
và nhân có nhiều cuộc nổi dậy ở nhiều nơi trong nước,
thực dân bắt hầu hết những người liên quan và có
quan hệ với Đông Kinh nghĩa thục đày ra Côn Đảo.
Ở
miền Nam, những người đầu tiên tiếp xúc và hưởng
ứng Đông Kinh nghĩa thục là Nguyễn An Khương (Khang),
Nguyễn An Cư và Trần Chánh Chiếu. Các ông biết phong
trào qua những bài ca yêu nước và tiếp xúc với những
liên lạc viên của phong trào Đông Du từ Nhật, Thái Lan
và Trung Quốc đi về trong nước. Còn Trần Chánh Chiếu
biết phong trào qua con trai là Trần Văn Tuyết, từng học
ở Hương Cảng (Hong Kong), mang những bản hiệu triệu
bằng Hán văn của Phan Bội Châu về nước. Nhờ đó mà
những bài ca ái quốc của Đông Kinh nghĩa thục được
truyền bá và thu hút một số thanh niên như Trương Duy
Toản, Nguyễn Háo Vĩnh, Đỗ Văn Y… Những người này
sau tham gia phong trào Đông Du và được đưa qua Nhật học
tập. Những vị bị đày ra Côn Đảo khoảng năm 1910 thì
bị đưa đi an trí các nơi, chủ yếu là ở miền Nam.
Dương Bá Trạc, Lương Văn Can bị an trí ở Nam Vang
(Campuchia), Lê Đại ở Long Xuyên, Võ Hoành ở Sa Đéc…
Tuy
tồn tại không lâu, hơn một năm, nhưng ảnh hưởng của
Đông Kinh nghĩa thục khá lớn. Tác động của phong trào
đã kích thích nhiều hoạt động khác về sau trong việc
chấn hưng đất nước, đặc biệt là chấn hưng quốc
ngữ.
Có
thể coi truyền bá quốc ngữ là một phong trào nối tiếp
Đông Kinh nghĩa thục nhưng rộng hơn và do Đảng Cộng
sản chỉ đạo. Buổi họp ở nhà anh Phan Thanh, trong đó
có các anh Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp và tôi
cùng mấy nhân sĩ là Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố… Hội
nghị đi tới việc xin phép thành lập một hội”.
Trong
“Hồi ký” về thời kỳ “Mặt trận Dân chủ Đông
Dương”, Trần Huy Liệu viết: “Theo quyết nghị của
Đảng, để tiến tới một tổ chức chống nạn thất
học, chúng tôi, một số đồng chí đã họp với một
số nhân sĩ để bàn về việc này. Buổi họp ở nhà
anh Phan Thanh, trong đó có các anh Phan Thanh, Đặng Thai
Mai, Võ Nguyên Giáp và tôi cùng mấy nhân sĩ là Bùi Kỷ,
Nguyễn Văn Tố… Hội nghị đi tới việc xin phép thành
lập một hội”.
Ra
đời và lan rộng
Hội
Truyền bá quốc ngữ ra đời ngày 25-5-1938 tại hội quán
thể thao An Nam (CSA) trên phố Khúc Hạo, Hà Nội, do Nguyễn
Văn Tố làm hội trưởng, Bùi Kỷ – phó hội trưởng,
Phan Thanh – thư ký, Quản Xuân Nam – phó thư ký, Đặng
Thai Mai – thủ quỹ, Võ Nguyên Giáp – phó thủ quỹ. Cố
vấn: Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên, Lê Thước.
Tại
buổi thành lập, ngoài đông đảo quần chúng còn có
Hoàng Xuân Hãn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Huyên, Phan
Thanh, Hằng Phương (vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan)… Mục đích
của hội là “Dạy cho đồng bào Việt Nam biết đọc,
biết viết tiếng của mình để dễ đọc được những
điều thường thức cần dùng cho sự sinh hoạt hằng
ngày. Cốt cho mọi người viết chữ quốc ngữ giống
nhau”.
Với
chương trình là mở lớp học gồm bậc sơ đẳng dạy vỡ
lòng cho học viên đọc, viết chữ quốc ngữ và làm được
hai phép tính cộng, trừ. Bậc cao đẳng luyện cho học
viên đọc, viết thông chữ quốc ngữ và dạy thêm ít
điều thường thức và bốn phép tính.
Để
việc truyền bá chữ quốc ngữ nhanh chóng, hội yêu cầu
những người đã được hội dạy cho biết chữ phải cố
gắng dạy lại cho một số người thất học khác xung
quanh mình. Hội tổ chức các cuộc diễn thuyết nhằm
giảng dạy, phổ biến những điều thường thức cho đồng
bào. Xuất bản sách nhằm bổ khuyết việc học ở lớp,
hội chủ trương biên soạn và xuất bản loại sách
thường thức phổ thông về sử ký, địa lý, vệ sinh,
khoa học… phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Giáo
sư Hoàng Xuân Hãn lúc ấy đang giảng dạy tại Trường
Bưởi, đã được hội mời làm cố vấn tham gia ban tu
thư. Ông chính là người soạn quyển sách học vần nổi
tiếng cho hội. Những câu “I tờ hai móc cả hai. I ngắn
có chấm, tờ dài có ngang. O tròn như quả trứng gà. Ô
thời đội mũ, ơ là thêm râu” và “huyền ngang, sắc
dọc, nặng tròn; hỏi lom khom đứng, ngã buồn… nằm
ngang” (Hoàng Xuân Hãn – Nhớ lại Hội Truyền bá quốc
ngữ nhân kỷ niệm 50 năm, đăng trên báo Đoàn Kết năm
1988) cho tới nay vẫn còn có người thuộc. Những câu học
vần đơn giản, dễ nhớ này chỉ nghe qua đôi lần là
thuộc.
Quyển
học vần này cũng được tiếp tục sử dụng trong phong
trào Bình dân học vụ năm 1945. Sách được hội in và
phát không cho giáo viên. “Để có tiền in sách, mua giấy
bút cho giáo viên và người học, ban tài chính rải khắp
Hà Nội, lạc quyên những người hằng sản hằng tâm,
hoặc tiền, hoặc đồ vật. Nhiều thanh niên thanh nữ
tình nguyện dạy những lớp tối cho trẻ em nghèo, những
lao động nam nữ thất học”. (Hoàng Xuân Hãn).
Hoạt
động của hội thời kỳ đầu cũng bị thực dân theo
dõi song được nhân dân ủng hộ nên phát triển lan dần
từ thành thị tới nông thôn. Ngày 5-1-1939, thành lập hội
ở Huế, tới năm 1943, cả Trung kỳ có hội. Và ngày
5-11-1944, Nam kỳ mới có hội do Nguyễn Văn Vĩ làm trưởng
ban.
“Chữ
Việt còn thì nước ta còn”
“Hội
Truyền bá quốc ngữ là một trường đào tạo, giáo dục
thanh niên ngoài xã hội. Một mặt nó luyện cho thanh niên
những đức tính cần thiết trong cuộc sống (tinh thần
đoàn thể, óc tổ chức, kỷ luật, kiên quyết hi sanh…).
Mặt khác, nó giúp thanh niên tránh được những cuộc vui
chơi không lành mạnh (cờ bạc, trai gái, rượu chè…).
Bên
cạnh đó, cũng giúp các thanh niên trí thức có dịp tiếp
xúc, đi sâu, tìm hiểu cuộc sống cơ cực của quần
chúng công nông lao động. Thu hút thanh niên vào một số
hoạt động xã hội do Đảng lãnh đạo”. (Hà Thị Sương
– Hội Truyền bá quốc ngữ).
Sau
Cách mạng Tháng Tám 1945, chính phủ lâm thời đảm trách
công việc của Hội Truyền bá quốc ngữ với tên Bình
dân học vụ với các chủ trương mục tiêu không khác
trước. Ngay sau khi cách mạng thành công, Chính phủ lâm
thời Dân chủ cộng hòa đã có sắc lệnh số 20 ngày
8-9-1945 do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký:
“Trong khi đợi lập được nên tiểu học cưỡng bách,
việc học chữ quốc ngữ từ năm nay bắt buộc và không
mất tiền cho tất cả mọi người (khoản 1). Hạn trong
một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên tám tuổi phải
biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn đó,
một người dân Việt Nam nào trên tám tuổi mà không biết
đọc và biết viết chữ quốc ngữ sẽ bị phạt tiền
(khoản 2).
Không
chỉ vậy, tháng 10-1945, đích thân Bác Hồ đưa ra Lời
kêu gọi chống nạn thất học có đoạn “Số người
Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95%,
nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì
tiến bộ làm sao được?… Chính phủ đã lập một Nha
Bình dân học vụ để trông nom việc học của nhân dân…
Mọi người Việt Nam… phải có kiến thức mới để có
thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước
hết phải biết đọc biết viết chữ quốc ngữ. Những
người đã biết chữ hãy dạy cho người chưa biết chữ,
hãy góp sức vào Bình dân học vụ” (Hồ Chí Minh – NXB
Sự Thật 8-1975).
Điều
này cho thấy Đảng Cộng sản VN đã quan tâm nhiều đến
dân trí ngay từ lúc cách mạng chưa thành công và tiếp
tục đẩy mạnh khuyến học sau khi cách mạng đã thành
công.
Đến
nay, đã 130 năm đi qua tính từ ngày 1-1-1882, chữ quốc
ngữ trải qua bao sóng gió để trở thành thứ chữ của
người Việt Nam. Dù bạn sống ở đâu trên địa cầu
thì chữ quốc ngữ, chữ Việt vẫn là phần không thể
thiếu trong đời sống.
Và
nói như Nguyễn Văn Vĩnh đã nói “chữ Việt còn thì
nước ta còn”.
No comments:
Post a Comment