Bài
2: Về Đặc Trưng Thứ Hai và Đặc Trưng Thứ Ba
*
Tác giả gửi bài cho VNTB
Tiếp
theo bài 1 đánh giá các thành quả Việt Nam đã đạt được
sau 39 năm xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, xét theo các tiêu chí của đặc trưng 1, bài này đánh
giá theo các tiêu chí của đặc trưng 2 và đặc trưng 3
(1).
Đặc
trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Chúng
ta đã minh định trong bài 1 rằng nước ta không Dân Chủ.
Nay ta phân tích chi tiết hơn trong mục này.
Hiểu
theo nghĩa thông dụng, Dân Chủ là Nhân Dân là Chủ
của xã hội, của quốc gia. Khái niệm người chủ bao
hàm ý: có các quyền tự do đương nhiên của người chủ.
Hiểu
theo khía cạnh học thuyết chính trị thì:
Dân
chủ là
một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã
hội, trong đó thừa nhận Nhân
Dân là
nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu
cử tự do.
Có
hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào
cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi
thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp
cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai,
tất cả mọi thành viên đều được hưởng các quyền
tự do được công nhận rộng rãi (2).
Như
vậy, hiểu theo cách thông dụng hay theo khía cạnh học
thuyết chính trị, Dân Chủ luôn gắn liền với Tự Do.
Không có các quyền Tự Do căn bản, Dân Chúng không thể
thực hiện quyền, chức năng làm chủ của mình. Nói cách
khác: nếu Dân Chúng không được hưởng
các quyền tự do được công nhận rộng rãi
trên thế giới thì quốc gia không có Dân Chủ. Các quyền
Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Báo Chí, Tự Do Ứng và Bầu Cử,
Tự Do Lập Hội, Lập Đảng là các quyền Tự Do chính
yếu trong một nền Dân Chủ.
Trên
thực tế, dân Việt Nam không có bất kỳ một quyền nào
trong các quyền kể trên.
Ngoài
ra, các nhà chính trị học còn nêu lên một thuộc tính
của thể chế Dân Chủ là Tam Quyền Phân Lập. Đây là
một đặc điểm chính yếu của chính thể Dân Chủ, đặc
điểm này phân biệt chính thể Dân Chủ xứng danh với
chính thể Dân Chủ mạo danh.
Nhà
cầm quyền Việt Nam luôn khẳng định không có Tam Quyền
Phân Lập. Như vậy, rõ ràng là, cùng với các quyền tự
do căn bản mà người dân không được hưởng, nước
Việt Nam không có Dân Chủ, không do Nhân Dân Làm Chủ.
Đặc
trưng thứ ba: có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu
Đặc
trưng này nói về nền kinh tế với 2 tiêu chí: lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại.
Hãy
so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế
xấp xỉ Việt Nam vài thập niên trước.
Chúng
ta đã so sánh với Hà Quốc bên trên. Trong các tập đoàn
lớn nhất của Hàn Quốc (SamSung, Hyundai, LG...), tập
đoàn nào cũng có sản phẩm được sản xuất bởi công
nghệ hiện đại, cạnh tranh ngang tay với các tập đoàn
lừng danh của Nhật và Âu Mỹ...
Các tập đoàn này là đối tác kinh doanh toàn cầu
được nể trọng của các tập đoàn có truyền thống
hùng mạnh của thế giới như General Electric (Mỹ), General
Motor (Mỹ), DuPont (Mỹ), Exxon Mobile (Mỹ), BASF (Đức),
Siemens (Đức), Total (Pháp)… Khi SamSung
triển khai chương trình đầu tư vào Việt Nam, SamSung dành
ưu tiên cho các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam
cung cấp cho họ 170 sản phẩm chưa phải là cao
cấp, thì Việt Nam không thể cung cấp được một
sản phẩm nào!
Hãy
so sánh thêm với Thái Lan, một nước có nền kinh tế
phát triển chưa cao lắm. Năm 2012,
ngành công nghiệp xe hơi của họ đứng thứ 9 trên thế
giới, một năm sản xuất khoảng 1 triệu rưỡi chiếc xe
trong khi Việt Nam sản xuất khoảng 50,00 chiếc, chỉ
khoảng ba bốn phần trăm của họ (3). Với
Mã Lai, một nước có nền công nghiệp phụ trợ
điện tử được ưa
chuộng trong khu vực, với Đài
Loan, vùng lãnh thổ kinh tế có vị trí thứ tư trên thế
giới về nền công nghiệp phụ trợ cung cấp linh kiện
cơ khí cho thế giới… So với các nước đó, thì vị
trí Việt Nam chúng ta nằm ở đâu?
Trong
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chúng
ta xuất khẩu ở dạng thô chứ không ở dạng tinh chế.
Chúng ta xuất ở vị trí thấp, thậm chí rất thấp, chứ
không ở vị trí cao trên chuỗi giá trị gia tăng. Theo
những đánh giá về công nghệ cao, phần đóng góp của
công nghệ cao vào nền sản xuất của Việt Nam là rất
nhỏ, vài phần trăm.
Việt
Nam đã có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại chưa?
Nền
kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu
Trên
lý thuyết, Việt Nam có chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu. Quả thật, các Tổng Công Ty,
các Tập Đoàn Kinh Tế nhà nước bao trùm mọi mặt kinh
tế đất nước.
Tuy
nhiên, trên thực tế, lợi nhuận từ các tổng công ty,
tập đoàn đó rơi vào túi một thiểu số cá nhân quyền
lực mà người ta thường gọi là “nhóm lợi ích”.
Điều quan trọng là lợi nhuận tìm được bởi các biện
pháp độc quyền (thí dụ trong các ngành Điện, Nước,
Xăng Dầu, Than, Khoáng Sản…), bằng các biện pháp hành
chánh ưu tiên hay cưỡng bức (thí dụ trong ngành Lúa
Gạo), bằng các biện pháp tham nhũng, hối lộ (thí dụ
được thấy rõ trong các vụ án Vinashin, Vinalines…) chứ
không phải bằng cạnh tranh bình đẳng. Lợi thì vô túi
riêng của nhóm lợi ích, Lỗ thì dân gánh chịu.
Có
phải những sự việc kể trên chỉ là khuyết điểm của
phân bổ không công bình, không quan hệ gì với tính công
hữu? Thực ra thì mục tiêu của công hữu là nhằm lo cho
số đông dân chúng, nếu công hữu chỉ để một thiểu
số vơ vét tài sản của số đông thì chế độ công hữu
đó chỉ là chiếc áo thầy tu khoác lên mình tướng cướp.
Chế độ công hữu vận hành phối hợp với chế độ
độc tài sẽ gây tai hại khủng khiếp cho số đông,
người dân làm ra đồng nào sẽ bị gỡ tay lấy hết
đồng đó.
Hiện
nay, chính sách tư nhân hóa, cổ phần hóa các công ty nhà
nước đang được đầy mạnh. Trong hoàn cảnh người dân
không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không
được tiếp cận quyền lực, rất nhiều người lo ngại
rằng một phần lớn “tư liệu sản xuất chủ yếu”
trước đây thuộc “công hữu” và đã được tận dụng
tạo “giá trị thặng dư” cho “nhóm lợi
ích”, nay sẽ được “tư hữu
hóa” để cho “các nhóm lợi
ích” chia chác thêm nữa tài
sản quốc gia.
Và
như vậy, mục tiêu của công hữu
nhằm, như lý thuyết nói, ngăn cản, hạn chế sự bất
công, lại có tác dụng đẩy bất công và bóc lột lên
một mức cao chưa từng thấy.
Xét
trên khía cạnh này, Việt Nam hoàn toàn không có chế độ
công hữu xứng danh, nghĩa là không có sự công hữu được
thực hiện và quản lý theo những chuẩn mực xã hội văn
minh hiện đại.
TÓM
LẠI:
Nước
Việt Nam không đạt tiêu chí duy nhất trong đặc trưng
thứ hai là do nhân dân làm chủ. Và cũng không đạt
hai tiêu chí của đặc trưng thứ ba là có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu.
,
.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
.
1.
Lê Hữu Nghĩa. “Những Đặc Trưng Thể Hiện Tính Ưu
Việt Của Chủ Nghĩa Xã Hội Mà Nhân Dân Ta Đang Xây
Dựng”, Tham Luận tại tại phiên họp sáng 14/1 Đại hội
XI của Đảng. (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 14/01/11 16:52.
2.
Wikipedia. Dân Chủ.
http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7
.
3.
Wikipedia. Automotive Industry In Thailand.
http://en.wikipedia.org/wiki/Automotive_industry_in_Thailand
---------------------
*
Tác giả gửi bài cho VNTB
Bài
1: Về Đặc Trưng Thứ Nhất
No comments:
Post a Comment