Lãnh
đạo Cộng sản Việt Nam đã bằng lòng đổi chủ quyền Biển Đông để được sống yên ổn
bên cạnh nước láng giềng Trung Quốc sau kỳ họp lần thứ 7 của Ủy ban Chỉ đạo hợp
tác song phương Việt Nam - Trung Quốc diễn ra tại Hà Nội ngày 27/10/2014.
Kết
quả này thật ra đã được đồng ý trên nguyên tắc giữa hai Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng của Việt Nam và Lý Khắc Cường của Trung Quốc tại cuộc họp tại Milan, Italy
ngày 16/10/2014, bên lề Hội nghị cấp cao ASEM-10 (The Asia–Europe Meeting,ASEM
).
Tuy
nhiên, thỏa hiệp mới đã được chi tiết hóa rõ hơn tại phiên họp chung tại Hà Nội
giữa 2 phái đoàn của Quốc vụ viện Trung Cộng Dương Khiết Trì và phía Việt Nam
do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh dẫn đầu.
Vì
vậy, không ai ngạc nhiên khi thấy phía Việt Nam đã tự ý phổ biến nhiều bức hình
tươi cười, chứa đựng sự thỏa mãn của ông Dương Khiết Trì chụp chung với các ông
Phạm Bình Minh, Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang.
Những
hình ảnh của ngày 27/10 đã khác một trời một vực với những tấm hình chứa nhiều
nỗi bất bình, cố nén trong căm tức của Lãnh đạo Việt Nam với ông Dương Khiết
Trì khi ông này sang Hà Nội ngày 18/06/2014 để nói như ra lệnh cho phía Việt
Nam phải chấm dứt ngay lập tức các hoạt động phá rối hoạt động tìm kiếm dầu của
giàn khoan Hải Dương 981, do Bắc Kinh tự đặt sâu trong vùng Đặc quyền Kinh tế
của Việt Nam từ ngày 02/05/2014 đến ngày 17/07/2014.
Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đi thăm Ấn Độ cùng ngày họ Dương họp ở Hà Nội
(27/10/2014) khiến Nhân Dân nhật báo của Trung Cộng bực mình, ngụ ý nói ông
Dũng muốn mở rộng hợp tác kinh tế với Tân Đề Ly (New Delhi) để giảm lệ thuộc
vào Bắc Kinh. Báo này đăng bài bình luận của Tô Hiểu Huy, Phó Chủ nhiệm Sở
Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế thuộc Viện Nghiên cứu các vấn đề quốc tế còn lên
án việc phái đoàn Nguyễn Tấn Dũng ký thỏa hiệp khai thác dầu khí chung ở Biển
Đông với Ấn Độ là vi phạm “chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải”.
Nhưng
đâu là sự thật?
Sự
thật là ông Nguyễn Tấn Dũng đã “bắt cá hai tay” để chứng tỏ Việt Nam giữ vững
đường lối ngoại giao độc lập, không chịu ảnh hưởng của Bắc Kinh để có lợi,
nhưng mặt khác thì ông Dũng cũng đã để lộ ra “lá bài hai mặt” của Việt Nam
trong cuộc chiến tranh chấp chủ quyền trên biển với Trung Cộng ở thế yếu, vì
Việt Nam đã chịu làm theo “ý muốn của Trung Quốc”.
Tiêu
biểu là trong cả 2 cuộc họp ở Hà Nội và ở Milan (Italy), phía Việt Nam đã không
đề cập đến, hoặc có nói thì cũng chỉ trong tư thế “nói nhỏ cho nhau nghe”,
những vụ tầu cá Việt Nam liên tục bị tầu Trung Cộng tấn công hoặc đâm chìm ở
vùng biển Hoàng Sa mà báo chí Việt Nam, ngay cả Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn
Thiện Nhân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng chỉ được phép gọi là “tầu
lạ” hay “tầu nước ngoài”!
Việc
Trung Cộng không ngừng củng cố, xây dựng trên quần đảo Hoàng Sa chiếm của Việt
Nam năm 1974 và biến các đảo Gạc Ma và 7 bãi đá khác chiếm của Việt Nam ở
Trường Sa năm 1988 thành các đảo nhân tạo, xây sân bay, bãi tầu, căn cứ quân sự
phòng thủ cũng không thấy ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trong cuộc họp với
Lý Khắc Cưởng.
Thái
độ nhu nhược này cũng diễn ra trong các cuộc họp giữa các ông Nguyễn Phú Trọng,
Trương Tấn Sang và Phạm Bình Minh với Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì tại
Hà Nội ngày 27/10 (2014). Những vi phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo Việt Nam
và hành động vô nhân đạo, bất chấp sinh mạng của ngư dân Việt Nam và luật pháp
quốc tế của phía Trung Cộng cũng đã không được báo chí của đảng CSVN và Bộ
Ngoại giao nói đến trong dịp này.
Nếu
cứ tin vào ngôn ngữ của nhà nước và báo chí Việt Nam thì không có chuyện gì xảy
ra giữa Việt Nam và Trung Cộng trước và trong thời gian ông Dương Khiết Trì có
mặt ở Hà Nội.
Như
vậy, thiệt thòi cuối cùng đã thuộc về nhân dân Việt Nam, chủ nhân của đất nước
nhưng quyền này đã bị đảng cướp mất từ lâu nên cứ è cổ ra mà gánh chịu hậu quả
bởi những quyết định sai lầm trong quan hệ ngoại giao với Trung Cộng.
Lời
hứa của Nguyễn Tấn Dũng
Trước
hết hãy nói về chuyện ở Milan, Ý Đại Lợi, ngày 16/10 (2014) ông Dũng đã nhân
danh Chính phủ cam kết với Lý Khắc Cường những điều sau đây, theo Bộ Ngoại giao
Việt Nam:
Ông:
“Khẳng định Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam quý trọng giữ gìn và mong muốn
củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống và tăng cường hợp tác toàn
diện giữa hai nước phát triển lành mạnh, ổn định.”
Ông:
“Đề nghị hai bên duy trì gặp gỡ và tiếp xúc cấp cao để tăng cường tin cậy,
thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, đồng thời kịp thời chỉ đạo giải
quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trong quan hệ hai nước.”
Ông
cũng đã đồng ý: “Hai bên nhất trí triển khai thực chất 03 nhóm công tác hợp
tác về xây dựng cơ sở hạ tầng, hợp tác về tiền tệ và bàn bạc hợp tác cùng phát
triển trên biển trong khuôn khổ đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh
thổ hai nước.”
“Về
vấn đề Biển Đông”, Bản tin Bộ Ngoại giao nói tiếp, “Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng nhấn mạnh đề nghị hai bên kiểm soát tốt tình hình trên biển, không có hành
động làm phức tạp thêm tình hình, thúc đẩy các cơ chế đàm phán tiến triển,
nghiêm túc thực hiện Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn
đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc; tôn trọng Luật pháp quốc tế, cùng nhau duy
trì hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới.”
Về
phía ông Lý Khắc Cường, Bộ Ngoại giao cho biết ông ta đã: “Khẳng định Đảng,
Chính phủ Trung Quốc luôn kiên trì phương châm láng giềng hữu nghị, hợp tác
cùng có lợi với Việt Nam, luôn mong muốn xử lý thỏa đáng các vấn đề khó khăn
phát sinh trong quan hệ hai nước, cùng thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát
triển lành mạnh, ổn định.”
Sau
cùng, Bộ Ngoại giao Việt Nam nói ông Lý Khắc Cường “đã phản hồi tích cực đối
với những đề xuất của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về các biện pháp cụ thể nhằm
tăng cường quan hệ hai Đảng, hai nước thời gian tới.”
Tất
nhiên là phải “phản hồi tích cực” vì những gì ông Nguyễn Tấn Dũng nói ra từ
miệng mình, trong tư cách một Thủ tướng Việt Nam, đã đáp lại đúng lập trường
bất di bất dịch của Trung Cộng gọi là “quyền lợi cốt lõi” của Trung Quốc ở Nam
Hải (Biển Đông) qua tuyên bố “Biển của ta, gác tranh chấp cùng khai thác”.
Chủ
trương coi lãnh thổ của người khác cũng là của mình đã được Lãnh tụ Đặng Tiểu
Bình đưa ra năm 1979 và được các thế hệ lãnh đạo thừa kế của Trung Cộng tuyệt
đối tuân thủ và thi hành qua chiều bài “tự vẽ” ra hình Lưỡi Bò, hay “đường 9
đoạn” rồi chuyển sang “10 đoạn” chiếm ¾ diện tích 3.5 triệu cây số vuông Biển
Đông.
Hai
ông Trọng - Sang
Vì
vậy mà ta không lạ khi thấy trong ngôn ngữ cuối cùng sau một ngày họp giữa
Dương Khiến Trì và Phạm Bình Minh, phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang không gay gắt như khi hai ông Trọng tiếp họ
Dương ngày 18 tháng 6 năm nay (2014).
Hồi
đó, ông Trọng đã “khẳng định lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối với
các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên biển Đông là không thay đổi và không
thể thay đổi.” (Thông tấn xã Việt Nam, TTXVN).
Theo
tin Chính phủ Việt Nam thì trong cuộc gặp Dương Khiết Trì ngày 27/10/2014, hai
ông Trọng và Sang đã: "Khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung
Quốc; nhấn mạnh việc giữ gìn, củng cố và làm cho mối quan hệ Việt Nam-Trung
Quốc phát triển lành mạnh là trách nhiệm chung của cả hai bên, phù hợp với lợi
ích căn bản, lâu dài của nhân dân hai nước và cũng có lợi cho cục diện hòa
bình, ổn định của khu vực và thế giới."
Hai
Lãnh đạo Việt Nam cũng: “Đề nghị Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác song phương cần tiếp
tục phát huy tốt hơn vai trò định hướng, góp phần thiết thực thúc đẩy quan hệ
hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh.”
Ông
Sang không gặp Dương Khiết Trì ngày 18/06/2014, nhưng trong lần gặp hôm 27/10
(2014) vừa qua, Chủ tịch nhà nước CSVN nói: “Vấn đề trên biển hết sức hệ
trọng đối với mỗi nước cũng như quan hệ hai nước. Đây không chỉ là vấn đề giữa
hai Đảng, hai nước mà còn là vấn đề giữa nhân dân hai nước. Nếu hai Đảng, hai
nước không kiểm soát được bất đồng trên biển thì quan hệ hai Đảng, hai nước
không những bị ảnh hưởng mà tình cảm của nhân dân hai nước cũng bị tổn thương.”
Tại
buổi tiếp này, ông Dương Khiết Trì “khẳng định Đảng, Chính phủ Trung Quốc
hết sức coi trọng và luôn mong muốn tăng cường trao đổi cấp cao, củng cố hữu
nghị nhân dân, xây dựng môi trường thuận lợi để phát triển quan hệ tốt đẹp, ổn
định lâu dài với Việt Nam, đồng thời sẵn sàng cùng với Việt Nam đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả hợp tác trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an
ninh, văn hóa, xã hội, giao lưu nhân dân…”
Ông
Dương Khiết Trì nhấn mạnh: “Việc xử lý thỏa đáng bất đồng là phù hợp với lợi
ích căn bản của nhân dân hai nước, có ý nghĩa tích cực đối với ổn định và phát
triển của khu vực.”
Sự
thật đã phơi ra
Qua
những câu chữ đấy tình “vừa là đồng chí vừa là anh em” ngọt xớt này, tuy vắng
bóng 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt.) nhưng bên trong vẫn thấy bóng dáng của “những nỗi xót xa”
hiện ra nguyên hình trong thỏa thuận Phạm Bình Minh-Dương Khiết Trì sau đây:
1)
“Hai bên cho rằng, xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển có ý nghĩa quan trọng
đối với quan hệ hai nước.”
2)
“Hai bên thực hiện nghiêm chỉnh nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai
Đảng, hai nước, căn cứ “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” thúc đẩy các cơ chế đàm phán về
vấn đề trên biển. Dựa trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, sớm
triển khai công việc khảo sát chung, tạo cơ sở cho việc thúc đẩy đàm phán phân
định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ đi đôi với hợp tác cùng phát triển tại
vùng biển này như Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã nhất trí với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc gặp tại Mi-lan, I-ta-li-a ngày 16/10/2014.
Ở
đoạn này, cả hai bên Việt Nam và Trung Cộng đều không giải thích hay làm cho rõ
“khảo sát chung” những cái gì, khoáng sản, dầu khí, hay cả các tài nguyên, ngư
trường khác nữa?
Và
tại sao Việt Nam lại đồng ý “khảo sát chung” với Trung Cộng khi Bắc Kinh không
có chủ quyền ở vùng Biển Đông?
Ngoài
ra, nguy hiểm hơn, Việt Nam còn đồng ý “đàm phán phân định vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ đi đôi với hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này”?
Như
vậy là rõ ràng thỏa hiệp Phạm Bình Minh-Dương Khiết Trì ngày 27/10/2014 đã vượt
ra khỏi thỏa hiệp giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch Nhà nước Trung
Quốc Tập Cận Bình ngày 20/06/2013 tại Bắc Kinh.
Hồi
đó một “thỏa hiệp mới được phía Việt Nam gọi là “gia hạn” và “sửa đổi” lần
thứ 4 hợp tác giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng Công ty dầu khí ngoài khơi
quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation, CNOOC),
thì diện tích tìm kiếm chung sẽ mở rộng từ 1541 cây số vuông lên thành 4076 cây
số vuông. Và hiệu lực của Thỏa thuận Thăm dò Chung có hiệu lực đến hết năm
2016.”
Ông
Đỗ Văn Hậu-Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã giải thích
về nguồn gốc của thỏa thuận giữa hai nước như thế này: “Theo Quy định tại
Điều 7 của Hiệp định Việt Nam-Trung Quốc về Phân định Lãnh hải, Vùng Đặc quyền
Kinh tế và Thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ (ký ngày 25/12/2000 và có hiệu lực từ
ngày 20/6/2004), nếu có các mỏ dầu khí vắt ngang qua Đường Phân định, hai nước
sẽ cùng nhau hợp tác khai thác chung.
Từ
năm 2005, Tổng Công ty Dầu khí Quốc gia Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Việt Nam (Petrovietnam) và Tổng Công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung
Quốc (CNOOC) đã ký kết và thực hiện Thỏa thuận Khung về hợp tác dầu khí trong
Khu vực Thỏa thuận Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ. Trên cơ sở kết quả thực hiện
Thỏa thuận Khung, Thỏa thuận Thăm dò chung Việt Nam-Trung Quốc trong Khu vực
xác định Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa Petrovietnam và CNOOC
ngày 6/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 2/1/2007, sau khi được Chính phủ hai nước
phê chuẩn.”
Hiệp
định về Vịnh Bắc Bộ năm 2000, cũng như “Hiệp
ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” do Tổng bí thư đảng Lê Khả Phiêu ký
với Trung Cộng ngày 30/12/1999 đã không được đem ra thảo luận tại Quốc hội
trước khi ông Phiêu đặt bút ký nên toàn dân, cho đến bây giờ (2013), vẫn chưa
được biết tường tận về những điểm lợi và hại của hai văn kiện quan trọng này.
Quốc
hội của Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng đã nhắm mắt phê chuẩn Hiệp định này vào
năm 2004 mà không có bất cứ cuộc điều tra hay nghe điều trần của Chính phủ nên
cũng mập mờ như dân!
Do
đó, sau khi có loan báo từ Bắc Kinh nói rằng hai phía Việt-Trung đã thỏa thuận
“gia hạn” và “sửa đổi” hợp tác giữa hai tập đoàn dầu khí của hai nước trên Vịnh
Bắc Bộ thì mọi người mới biết rằng Việt Nam đã chịu để cho Trung Cộng được
quyền cùng khai thác dầu khí bên trong phần biển thuộc về Việt Nam, dù khu vực
khai thác chung nằm trên đường ranh giới phân định giữa hai nước!
Ông
Đỗ Văn Hậu giải thích tiếp rằng: “Thỏa thuận hợp tác giữa PVN và CNOOC được
ký lần đầu từ năm 2006 phù hợp với Hiệp định đã ký kết giữa hai nước về phân
định Vịnh Bắc Bộ. Thỏa thuận này đã được gia hạn 3 lần và lần này là lần thứ 4
với thời hạn đến năm 2016.
Theo
đó, Việt Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận với nhau về một vùng biển nằm trên
Vịnh Bắc Bộ, nằm trên đường phân định hai quốc gia; cùng thăm dò và cùng khai
thác khi phát hiện có dầu khí. Ngoài việc gia hạn, thỏa thuận lần thứ 4 này đã
thống nhất mở rộng khu vực thăm dò chung nằm trên đường phân định hai quốc gia
trên Vịnh Bắc Bộ lên gần 3 lần so với lần đầu năm 2006.
Khu
vực này được chia đều qua đường phân định trên Vịnh Bắc Bộ, một nửa nằm phía
Việt Nam và một nửa nằm bên phía Trung Quốc. Trên khu vực này, hai Tổng công ty
của hai Nhà nước sẽ cùng nhau tiến hành thăm dò, nhằm phát hiện các cấu tạo địa
chất có chứa dầu khí. Khi phát hiện có dầu khí thì 2 bên sẽ tiếp tục bàn thảo,
để cùng nhau hợp tác khai thác.” (Thống tấn xã Việt Nam, TTXVN, 20-6-2013)
Giờ
đây, Việt Nam và Trung Cộng lại đồng ý “thúc đẩy đàm phán phân định vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ đi đôi với hợp tác cùng phát triển tại vùng biển
này” là vùng biển nào, nếu không là vùng còn lại của Biển Đông vẫn thuộc
chủ quyền của Việt Nam thì của ai ?
Không
có bất cứ bản tin nào của phía Việt Nam hay của Trung Quốc gỉải thích rõ về
điểm quan trọng này, ngoài việc ông Phạm Bình Minh đã: “Khẳng định Việt Nam
luôn coi trọng việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với
Trung Quốc; nhấn mạnh hai bên cần triển khai hiệu quả những thỏa thuận đạt được
trong chuyến thăm Trung Quốc của đồng chí Lê Hồng Anh, Đặc phái viên của Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8/2014) về việc khôi phục giao lưu hợp
tác, kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp,
mở rộng tranh chấp.”
Điều
này có nghĩa phía Việt Nam đã đồng ý “giữ nguyện hiện trạng” ở Biển Đông, hay
nói cách khác là “quân đâu đứng nguyên ở đó”, có nghĩa công nhận sự có mặt của
quân Trung Cộng trên vùng biển Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Bộ
trường Quốc phòng Phùng Quang Thanh mới họp từ Bắc Kinh về (từ 16 đến
19/10/2014) đã xác nhận với báo chí ở Hà Nội ngày 20/10 (2014).
Đáp
câu hỏi: “Hai bên có bàn về việc phía Trung Quốc đốc thúc nhiều hoạt
động xây dựng trên khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam, cũng như chuyện
giàn khoan đã xảy ra ít tháng trước?
Tướng
Thanh: “Chúng tôi có trao đổi phải giữ nguyên hiện trạng trên biển Đông và
phải thực hiện đầy đủ tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông -
DOC. Quan điểm chung là các bên không mở rộng tranh chấp, không cắm mốc mới.
Khi trao đổi với bạn, nói chung bạn ghi nhận ý kiến của phía Việt Nam.
H:
- Phía Trung Quốc có đưa ra cam kết nào về việc giữ nguyên hiện trạng, thưa
ông?
Tướng
Thanh: "Hai bên đều thống nhất phải thực hiện DOC – nghĩa là không mở
rộng, làm phức tạp thêm tranh chấp. Quan trọng là phải thống nhất với nhau giữ
cho được môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, tránh dùng vũ lực."
Bộ
Ngoại giao Việt Nam nói thêm: “Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh cũng
nêu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta trong vấn đề Biển Đông,
khẳng định Việt Nam luôn ưu tiên thông qua các biện pháp hòa bình để cùng Trung
Quốc giải quyết tranh chấp, bất đồng tại Biển Đông trên cơ sở tuân thủ các nhận
thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc, luật pháp quốc tế,
nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC).
Ủy
viên Quốc vụ Dương Khiết Trì bày tỏ, Trung-Việt là hai nước láng giềng quan
trọng của nhau, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hết sức coi trọng và
luôn kiên trì phương châm hợp tác hữu nghị với Việt Nam. Với sự nỗ lực chung,
hai bên đã khắc phục được những khó khăn gặp phải trong thời gian vừa qua. Hiện
quan hệ song phương đang từng bước khôi phục, hai bên cần nắm chắc phương hướng
phát triển quan hệ hai nước, xử lý thỏa đáng và kiểm soát tốt bất đồng trên
biển, tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác song phương. Ủy viên Quốc vụ Dương
Khiết Trì nhất trí tăng cường chỉ đạo các cơ quan hữu quan Trung Quốc tích cực
triển khai các thỏa thuận đã đạt được tại Phiên họp lần này.”
Như
vậy xem ra Dương Khiết Trì đã “mát lòng mát dạ” sau khi chỉ mất một ngày họp ở
Hà Nội với ông Phạm Bình Minh mà xem ra không tốn bao nhiêu công sức.
Bởi
vì: “Hai bên cho rằng, quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc phát triển
lành mạnh, ổn định là phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân
hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực. Hai bên sẽ
cùng nhau nỗ lực thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận và nhận thức chung của
lãnh đạo cấp cao hai nước, không ngừng củng cố và thúc đẩy quan hệ đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển ngày càng đi vào
chiều sâu.
-
Hai bên nhất trí tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy giao lưu hợp tác giữa hai
nước; đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình hành động triển khai quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược Việt Nam - Trung Quốc; khẩn trương thành lập Nhóm công
tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ để tăng cường
hợp tác trên các lĩnh vực liên quan.
-
Hai bên nhất trí thực hiện nghiêm túc 3 văn kiện về biên giới trên đất liền
Việt Nam-Trung Quốc, phối hợp giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh trong
công tác quản lý biên giới.”
Nghe
qua thì có vẻ hòa bình, hữu nghị đấy nhưng kẻ bị thiệt trong thỏa thuận Phạm
Bình Minh-Dương Khiết Trì ngày 27/10/2014 không phải là đảng CSVN mà thuộc về
số phận hẩm hiu của nhân dân Việt Nam, những người đã không những chỉ mất quyền
làm chủ đất nước vào tay đảng mà còn bị Lãnh đạo Việt Nam đầy vào chân tường
khi không giữ được tài sản của Tổ tiên để lại cho đời sau. -/-
(10/014)
No comments:
Post a Comment