Lê Tuấn
Huy
Tháng
10 25, 2014
Ngày
28/04/2014, các văn bản của giới học thuật trong và ngoài nước, phản đối việc
thẩm định luận văn và thu hồi bằng Thạc sỹ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan,
được chính thức trao
cho người đại diện của Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đến nay,
không có phản hồi.
Ngày
15/05/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành Thông tư số
15/2014/TT-BGDĐT (Thông tư 15) để ban hành Quy chế đào tạo trình độ thạc
sĩ (mới), có hiệu lực từ ngày 01/07/2014. Đến nay, có một phản ứng.
Với
những gì tôi đề cập ở hai bài trước, thiển nghĩ, khía cạnh pháp lý, khoa học và
chính trị của vụ việc, kể cả đối với thông tư mới, ít nhiều đã được cơ bản vạch
ra. Nhưng với hai diễn biến vừa nhắc, có lẽ cần nói thêm vài điều.
Thông
tư 15 có thể hợp pháp hóa cho các quyết định bị phản đối của Đại học Sư phạm Hà
Nội không? Đương nhiên là không, bởi nguyên tắc bất hồi tố không cho phép. Thêm
vào đó, ở quy chế mới, Điều 41, với hai khoản cụ thể, đã giới hạn hết sức rõ
ràng phạm vi của nó, là chỉ áp dụng đối với các khóa tuyển sinh từ ngày
01/07/2014 trở đi.
Thông
tư 15 có thể hợp lý hóa cho hành động phi pháp và phi lý của Đại học Sư phạm Hà
Nội không? Cũng không. Bởi, cho dù ở quy chế mới, với Điều 30 về thẩm định luận
văn, có đem lại sự biện minh “hậu kiểm” về động cơ hay nội dung (phần nhiều,
tùy thuộc thái độ chủ quan), thì những người soạn thảo nó cũng chưa dám phá vỡ
giới hạn cuối cùng của sự liêm sỉ về mặt thể thức (phải tuân thủ, bất kể thái
độ chủ quan).
Tại
điểm c, khoản 2, Điều 30, dù gạt học viên, người hướng dẫn và hội đồng chấm
luận văn khỏi phiên họp thẩm định, quy chế mới vẫn giữ cho họ quyền được thông
báo và có thể gửi ý kiến, cung cấp tài liệu tới hội đồng thẩm định. Như vậy, họ
không phải hoàn toàn bị trói tay, bịt mắt, khóa miệng; mà hội đồng thẩm định
cũng không phải là “thực thể” tuyệt đối bí mật, cả về con người lẫn thời gian,
địa đểm.
Bên
cạnh đó, tại khoản 2 của điều này, các giải pháp nhằm bảo đảm quyền lợi cho học
viên sau khi luận văn bị thẩm định không đạt không vì lý do sao chép bất hợp
pháp, cũng được đưa ra.
Vậy
mà, bỏ xa cả Thông tư mới, vượt hẳn lên chuẩn mực hành xử văn minh, Đại học Sư
phạm Hà Nội và Hội đồng Thẩm định Luận văn Đỗ Thị Thoan đã phá vỡ mọi chuẩn
thức. Họ xử trí vấn đề không trên tinh thần duy lý và đối thoại của nhà khoa
học, không trên tinh thần khoan dung và thiện ý của nhà giáo dục, mà bằng sự
cáo buộc và phán xử của quan tòa, bằng việc xuống tay vô tình và dứt điểm của
đao phủ.
Song,
nói như thế không có nghĩa Thông tư 15 là hợp lý. Bản thân việc biến cái gọi là
thẩm định luận văn thành một “định chế” chính thức đã là sự chà đạp thô bạo lên
khoa học và tự do học thuật. Những điều phi lý của việc làm này – mà tôi đã
cảnh báo – nay biểu hiện cụ thể ra ở quy chế mới:
1.
Căn cứ để ra quyết định thẩm định đạt đến độ tùy tiện cao nhất: Ngoài việc có
đơn tố cáo, quy chế mới cho phép thủ trưởng cơ sở đào tạo lập hội đồng thẩm
định “khi thấy cần thiết”, mà tuyệt nhiên không xác định như thế nào là “thấy
cần thiết”.
2.
Thay cho việc minh định, sự mơ hồ được lấy làm tiêu chuẩn khoa học: Tại điểm c,
khoản 2, Điều 26, luận văn được yêu cầu phải “phù hợp với thuần phong mỹ tục
của người Việt Nam”, trong khi khái niệm “thuần phong mỹ tục” vốn không được
định tính và định lượng một cách khoa học, mà chỉ dựa trên cách hiểu dân gian,
võ đoán và mang tính bảo thủ cố hữu của ý thức xã hội. Rồi đây, học viên các
ngành văn học, triết học, tâm lý học, xã hội học… hẳn sẽ không dám đi vào các
đề tài như thơ Hồ Xuân Hương, libido, cách mạng tính dục, mãi dâm, v.v.. Mà
cũng chưa cần đụng đến các đề tài ấy, bất kỳ nội dung nào, câu chữ nào bị gán
cho là trái thuần phong mỹ tục cũng đều có thể bị truy xét.
3.
Thay cho bình đẳng và đối thoại khoa học, áp chế hành chính trở thành cơ sở để
xử lý học thuật:
-
Biến “thẩm quyền” hành chính thành “quyền lực” khoa học: Hội đồng thẩm định có
quyền định đoạt cuối cùng nhưng lại không có bất kỳ tiêu chí gì cho thấy họ có
năng lực chuyên môn – đúng với đề tài liên quan – cao hơn hội đồng ban đầu.
Nên
nhớ, trình độ thạc sỹ có quy trình đào tạo chỉ qua một cấp bảo vệ luận văn chứ
không phải hai cấp như trình độ tiến sỹ (hội đồng cấp cơ sở và hội đồng cấp nhà
nước), nên không thể lấy thẩm quyền hành chính cao hơn ra mà áp đặt và gán ghép
một quyền lực khoa học mặc nhiên cho hội đồng thẩm định.
-
Áp đặt “khoa học”: việc cách ly cả học viên, người hướng dẫn, lẫn hội đồng đánh
giá khỏi phiên họp thẩm định áp dụng cho mọi lý do chứ không phải chỉ với những
trường hợp gian lận (đạo văn, viết hộ…).
-
Biến người hướng dẫn từ người gợi mở và trao đổi khoa học thành người kiểm
duyệt và đồng trách nhiệm với học viên: Điều 27, khoản 2, điểm c quy định người
hướng dẫn có ý kiến xác nhận luận văn đạt các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều
26 (có đóng góp lý luận hoặc thực tế, có giá trị, phù hợp thuần phong mỹ tục…),
trong khi đó là việc mà hội đồng xét đề tài luận văn đã làm một cách sơ khởi,
và sẽ được từng thành viên hội đồng chấm luận văn làm rõ.
Đồng
thời, người hướng dẫn và hội đồng đánh giá – xét ở chính vai trò này – chỉ làm
công việc thuần khoa học với luận văn, nhưng cũng bị đưa vào diện có thể “bị xử
lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự” (Điều
40, khoản 2, điểm c). Hội đồng thẩm định, cũng làm việc với luận văn, lại không
bị đặt vấn đề như thế.
4.
Không những lẫn lộn tầng cấp đào tạo, còn nhầm lẫn cả lĩnh vực hoạt động, giữa
đánh giá khoa học với phán xử tư pháp; mà lại là loại tư pháp nguyên sơ nhất:
(không có đối thoại mở và bình đẳng khoa học) chỉ có thẩm quyền tuyệt đối, kín
và chung quyết của hội đồng thẩm định, mà không có cơ chế để kháng nghị từ phía
đối tượng bị tái thẩm hay công luận.
5.
Trao thẩm quyền “tự trị” độc đoán và vô hạn cho thủ trưởng cơ sở đào tạo.
Những
điểm cơ bản trên không hẳn đã báo hiệu cái chết của đào tạo và khoa học, bởi nó
đã chết từ lâu trước khi có Thông tư 15, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội.
Thông tư này chỉ góp thêm vào “tính rừng” của hệ thống văn bản pháp lý, nhằm
“cung ứng” thêm một công cụ tự kiểm duyệt cho học viên và người tham gia đào
tạo sau đại học.
Có
thể, để đồng bộ, Thông tư 15 sẽ là hình mẫu cho một “định chế” tương tự trong
đào tạo tiến sỹ, sẽ ra đời ở một thông tư khác. Hậu quả của chúng như thế nào,
xin không bàn đến nữa.
Liên
quan đến thông tư đang đề cập, Luận văn của Đỗ Thị Thoan cũng chỉ như một việc
đã rồi. Tuy nhiên, với sự cụ thể đến mức hơi bất thường ở Điều 41 (để ngăn làn
sóng tố ngược các luận văn giai đoạn hóa rồng học vị vừa qua chăng?), đã chứng
minh thêm nữa sự bất hợp pháp trong việc thẩm định Luận văn Đỗ Thị Thoan và
củng cố cơ hội sử dụng các biện pháp pháp lý đối với việc làm đó.
Đối
với Đỗ Thị Thoan và Hội đồng Đánh giá Luận văn, con đường công luận rõ ràng đã
thành công. Nay, con đường pháp lý – nếu muốn – là công việc liên hệ trước tiên
với những người liên can trực tiếp. Công luận chỉ có thể hỗ trợ.
Đối
với Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, các quy định mặc nhiên miễn cho ông
trách nhiệm pháp lý trong việc trả lời các văn bản của giới học thuật trong và
ngoài nước. Nhưng với tư cách một cá thể trong cộng đồng khoa học và giáo dục,
ông vẫn mang trách nhiệm đạo lý và trách nhiệm khoa học. Tất nhiên, ông hoàn
toàn có thể xem đó chẳng có gì là trách nhiệm, nhưng trở thành một vết nhơ dưới
con mắt của cộng đồng này, trong lịch sử học thuật nước nhà, là cái giá không
nhỏ, cho dù ông có được sự hậu thuẫn của những quyền lực ngoài khoa học.
Dù
sao, đến lúc này, trên bình diện chung, câu chuyện Đỗ Thị Thoan xem ra đã nhẹ
hơn việc ra đời của Thông tư 15.
Có
lẽ, rồi sẽ có thêm tiếng nói về nó, nhưng một khi phần đông giới đại học vẫn
xem việc lên tiếng là công việc của người khác, còn mình thì sẵn sàng chấp nhận
một tầng mới được gia cố vào cái “vòng kim cô” vốn có, thì đừng mong có được
hiệu quả như việc Bộ Công an đã “đính
chính” Thông tư 28/2014/TT-BCA ngày 07/07/2014 của bộ này.
Và,
bất cứ sự đấu tranh nào với Thông tư 15 mà không tính đến đến hiệu quả, không
tính đến những hình thức khả dĩ để gia tăng trọng lượng (vận động không hợp tác
quốc tế, không tham gia đào tạo, v.v…), thì tốt nhất, đừng làm gì.
01-05/10/2014
©
2014 Lê Tuấn Huy & pro&contra
*
Lê Tuấn
Huy
Tháng
3 25, 2014
Qua
ảnh chụp một
phần văn bản được cho là công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương, được biết
một hội đồng thẩm định đã thu hồi Luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành
thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa và “không công nhận học hàm
(sic!) thạc sỹ của chị Đỗ Thị Thoan”. Dù độ xác thực của văn bản chưa được kiểm
chứng, thông tin này được củng cố qua việc trang Bauxite Việt Nam cung cấp danh
sách thành viên hai hội đồng liên quan đến luận văn được đề cập.
Căn
cứ để Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội lập Hội đồng thẩm định, là Luật
Giáo dục (2005) và Điều lệ trường Đại học (2010) – hai văn bản
không quy định cụ thể cho việc đào tạo sau đại học. Trong khi đó, Quy chế
Đào tạo Trình độ Thạc sĩ ban hành kèm theo Thông
tư số 10/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định rõ tiến
trình đào tạo cho học vị này, thì bị lờ đi. Ngay cả Luật
Giáo dục Đại học (2012), sát sườn hơn một luật mà phạm vi là cả hệ
thống giáo dục quốc dân, cũng không được nhắc đến. Có thể lý giải điều này như
thế nào?
Việc
không liên hệ đến Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ thì dễ hiểu, bởi nó không cho phép viện dẫn để thực hiện
cái gọi là “thẩm định”.
Còn
không căn cứ vào Luật Giáo dục Đại học, dù nó cũng chỉ là những quy định
chung, là bởi Điều 73 quy định rằng: “Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật”.
Nếu chiếu theo đó, sẽ buộc phải “phục hoạt” và tuân thủ Quy chế Đào tạo
Trình độ Thạc sĩ, do đấy chính là “quy định chi tiết” để thực hiện luật này
của “cơ quan có thẩm quyền” trực tiếp.
Căn
cứ vào Luật Giáo dục, bởi Điều 120 của nó viết rằng: “Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này”. Năm 2009, ra đời Luật
Sửa đổi, Bổ sung một số Điều của Luật Giáo dục, và điều cuối cùng được
sửa dừng lại ở Điều 110c. Như vậy, dùng cái luật không sát sườn này,
người ta có thể vô hiệu hóa một cách “hợp pháp” những văn bản có hiệu lực của
“cơ quan có thẩm quyền”. Và lấy Điều lệ trường Đại học đi kèm, ngoài
việc tăng thêm số lượng văn bản căn cứ, cũng cho thấy ẩn ý cố tình vận dụng Điều
120, bởi nó được ban hành từ Quyết
định số 58/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng.
Bên
cạnh việc “vận dụng” luật pháp như thế, đáng lưu ý từ thông
tin của Đỗ Thị Thoan, tất cả chủ thể liên quan trực tiếp và không thể nào
bỏ qua của Luận văn, từ người viết và người hướng dẫn, đến người phản biện và
hội đồng chấm, đều tuyệt nhiên bị cách ly khỏi “quy trình” thẩm định.
Nếu
sự việc quả như vậy, tự nó, đã ghi dấu một cột mốc đen tối và tạo một tiền đề u
ám.
Để
thấy nó hắc ám như thế nào, cần nhắc lại mặt thủ tục. Trước khi được ban hành
trên phạm vi cả nước, quy trình đào tạo sau đại học đã được các trường xây dựng
và vận hành, mà quy chế hiện hành chỉ là phản ánh và chính thức hóa những gì đã
diễn ra. Theo đó, hội đồng chấm luận văn có quyền hạn cao nhất đối với luận văn
được phân công chấm và đối với kết quả của nó. Do đặc thù của khoa học (đặc
biệt là khoa học xã hội) và theo thông lệ quốc tế, một khi luận văn đã có kết
quả, vấn đề tái thẩm không được đặt ra nếu không có lý do thuần túy khoa học,
là đạo văn.
Nghiên
cứu của Đỗ Thị Thoan không bị đặt vấn đề từ tiêu chí đó. Mà, theo luồng dư luận
dọn đường, và đọc hai văn bản làm căn cứ pháp lý – vốn không có chỗ cho quy
trình lẫn khái niệm “thẩm định” sau đại học – có thể thấy rằng, có lẽ cơ sở cho
hành động ấy là ở Điều 20 và Điều 39 của văn bản đầu, cùng Điều
6.9 của văn bản sau.
Điều
20
viết: “(…) Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục để xuyên tạc chủ trương, chính
sách, pháp luật của Nhà nước (…)”. Điều 39 là: “(…) Mục tiêu của giáo
dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức
phục vụ nhân dân (…)”
Điều
6.9
thì: “Không để bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào lợi dụng danh nghĩa và cơ sở vật
chất của nhà trường để tiến hành các hoạt động trái với các quy định của pháp
luật và của Điều lệ này”.
Những
điều chung chung như thế, trên thực tế, có thể dùng để suy diễn, quy chụp ở mức
cao nhất đối với bất kỳ quan điểm độc lập hay phản biện nhỏ nhất nào.
Việc
một trường đại học mà lại vận dụng luật pháp “tùy nghi”, bất chấp chuẩn mực hữu
lý tối thiểu, đã thể hiện sự tan rã khoa học trong lòng sự tan rã xã hội, khi mà giới hữu
trách khoa học cũng áp đặt luật rừng cho đồng môn: lấy sức mạnh làm chân lý,
dùng công cụ kinh tế và hành chính để khóa miệng, bịt mắt, trói tay.
Việc
thẩm định không minh bạch đối với Luận văn của Đỗ Thị Thoan thực chất là phiên
tòa kín về chính trị, tuyên án tử đối với sinh mệnh khoa học của một người có
tư duy độc lập. Phiên tòa ấy còn được nâng cấp hơn cả những phiên tòa
tôn giáo thời Trung cổ, xử các nhà khoa học, mà ít ra còn để người bị xử hiện
diện và cất tiếng.
Từ
nay, bất cứ lúc nào, bất cứ chủ thể, công trình, trạng thái và hành vi khoa học
nào cũng có thể bị “hồi tố” hay tước bỏ tức thời bằng những căn cứ ngoài khoa
học, có phạm vi điều chỉnh mênh mông, bất tận, cả từ động cơ “công bộc” lẫn ý
đồ tư riêng.
Bất
chấp tính pháp lý và hợp lý của quy chế đào tạo, thử hỏi, có còn cần hay không
một quy trình chặt chẽ (và tốn kém) từ việc trình đề cương, hướng dẫn, phản
biện, đến hình thành hội đồng chấm, thu nhập nhận xét độc lập ngoài hội đồng,
rồi họp hội đồng chấm luận văn?
Với
một hội đồng có quyền hồi thẩm, vượt trên và có quyền phủ nhận kết quả của hội
đồng chấm, có cả quyền cách ly hội đồng chấm và người viết luận văn, chẳng khác
là mấy với hình thức phúc tra của giáo dục phổ thông, vậy để tiện cho cả người
học, nhà trường và nhà nước, sao không tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp cao học,
với đáp án có sẵn, giảng viên chuyên ngành nào cũng có thể chấm, và cũng dễ
dàng phúc khảo khi cần?
Cần
nói thêm, tùy theo loại hình, các trường đại học có hội đồng quản trị, hội đồng
nhà trường, hội đồng khoa học, hội đồng tư vấn… Đó là loại hội đồng thường
xuyên và định kỳ. Các hội đồng chấm luận văn và luận án là loại hội đồng bán
thường xuyên và đơn kỳ. Hội đồng như vừa thực hiện với Luận văn của Đỗ Thị
Thoan là loại hội đồng đặc biệt và đơn kỳ (hoặc đa kỳ, nếu muốn). Hai loại
trước tồn tại theo thông lệ và có quy định pháp lý. Loại sau cùng, không có
tiền lệ và không có quy định pháp lý, dù theo thông lệ, nó có thể tồn tại,
nhưng duy nhất chỉ với lý do khoa học chứ không vì lý do chính trị.
Dẫu
biết rằng khó mà có kết quả ngược lại khi nó đã được áp đặt bằng sức mạnh của
cả hệ thống, những người có tư duy độc lập và công tâm – bao gồm cả ThS. Đỗ Thị
Thoan, PGS, TS. Nguyễn Thị Bình, các vị thuộc Hội đồng chấm luận văn, các GS
thâm niên và từng có cương vị tại Đại học Sư phạm Hà Nội – vẫn phải cất tiếng
đấu tranh về khoa học và về mặt pháp lý – hành chính, vẫn phải tiến hành chất
vấn hay kiến nghị chính thức, với văn phong và nội dung thích hợp.
Còn
những người chủ trương và ủng hộ việc bất chấp tất cả để thủ tiêu cho được Luận
văn của Đỗ Thị Thoan, tất nhiên, xem việc làm đó là hợp lý và hợp pháp, bởi đối
với họ, cái tiên quyết để nhìn một vấn đề khoa học là tính chính trị, và là cái
chính trị dưới nhãn quan “đặc thù” của họ chứ không phải dưới cái nhìn phổ
quát. Nên, hãy để họ nhắc đi nhắc lại một chiều rằng không có gì tách khỏi
chính trị, chính trị là thống soái, vốn là cái lập luận đã đẩy khoa học xã hội
và nhân văn của các nước xã hội chủ nghĩa trước kia thành một thứ văn vẻ minh
họa, góp phần lớn vào việc ru ngủ toàn bộ hệ thống, và ngủ sâu đến độ hôn mê,
rồi chìm vào cái chết mà quên cả cú giãy có thể hồi tỉnh.
22-24/03/2014
©
2014 Lê Tuấn Huy & pro&contra
-----------
VỤ ÁN NHÃ THUYÊN
Hình thức tồn tại
không thay thế bản chất của samizdat (Nhân Dân
5-5-14)
ĐỌC BẢN NHẬN XÉT PHẢN
BIỆN LUẬN VĂN NHÃ THUYÊN của PGS PHAN TRỌNG THƯỞNG (TS Vũ Thị Phương Anh) 27-4-2014
LỀ PHẢI ƠI ! (Nguyễn
Hoài An) 23-4-2014
TRÍ THỨC VIỆT KIỀU
GỬI THƯ NGỎ PHẢN ĐỐI VIỆC TƯỚC BẰNG CỦA NHÃ THUYÊN (Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự) 20-4-2014
VỊ TRÍ CỦA KẺ NGOÀI
RÌA (Thùy Linh)
3-4-2014
KỲ ÁN NHÃ THUYÊN (Thư
Hiên) 31-3-2014
Toàn Văn Luận Văn Nhã
Thuyên: "Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn
Văn Hóa" (Kệ sách eBook)
BẤT THƯỜNG QUANH MỘT
LUẬN VĂN (BBC) 24-3-2014
21-3-2014
TS. Vũ Thị Phương
Anh: 8 CÂU HỎI VỀ VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ CỦA NHÃ THUYÊN (Nguyễn Xuân Diện-Blog) 20-4-2013
BAN TUYÊN
GIÁO TW BỊT MỒM BÁO CHÍ VỤ NHÃ THUYÊN BỊ TƯỚC BẰNG THẠC SĨ (Nguyễn Xuân
Diện-Blog) 19-3-2014
VỤ ÁN NHÃ THUYÊN (Nguyễn Hưng Quốc) 31-7-2013
PHÊ BÌNH
CHỈ ĐIỂM (Phạm Xuân Nguyên) 31-7-2013
HY VỌNG GÌ
. . . (Nguyên Ngọc) 29-7-2013
CUỘC PHÊ
PHÁN LUẬN VĂN CỦA ĐỖ THỊ THOAN hay là SỰ XUNG ĐỘT VỀ KHUNG TRÍ THỨC & THẾ
HỆ (Trần Đình Sử) 27-7-2013
* Báo Văn Nghệ, Thanh Tra, Quân đội Nhân dân và Nhân dân:
MỘT
“GÓC NHÌN” PHẢN VĂN HÓA VÀ PHI CHÍNH TRỊ
(Tuyên Hóa - báo Quân Đội Nhân Dân)
Một
luận văn kích động sự phản kháng và chống đối (Chu Giang
- báo Văn Nghệ TPHCM)
NHÂN
DANH “NGHIÊN CỨU” ĐỂ CA NGỢI THỨ “THƠ” RÁC RƯỞI (Cẩm Khê
- báo Nhân Dân)
Nổi
loạn là điều kiện để sáng tạo?
(Minh Tâm - báo Thanh Tra)
No comments:
Post a Comment