Nguồn: Joseph S. Nye (2007).
“Intervention, Institutions, and Regional and Ethnic Conflict” (Chapter
6), in Joseph S. Nye, Understanding International Conflicts (New
York: Longman), pp. 157-203.
Biên
dịch:
Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted
on 27/10/2014 by The Observer
Sau
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, khả năng một cuộc chiến tranh lớn nổ ra không
nhiều, nhưng xung đột khu vực và nội chiến vẫn tồn tại dai dẳng và tạo áp lực
buộc các quốc gia khác và các thể chế quốc tế phải can thiệp. Trong số 111 cuộc
xung đột diễn ra từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến đầu thế kỷ 21, 95
cuộc xung đột là hoàn toàn giữa các lực lượng trong nước (nội chiến) và 9 cuộc
xung đột nội bộ khác có sự can thiệp từ bên ngoài. Hơn 80 chủ thể quốc gia đã
tham gia, bên cạnh hai tổ chức khu vực và hơn 200 tổ chức phi chính phủ.[1]
Xung
đột sắc tộc
Các
cuộc xung đột giữa các cộng đồng này thường được gọi là chiến tranh sắc tộc –
những cuộc chiến tranh trong đó các bên tham chiến xác định bản sắc của mình
dựa theo các tiêu chí văn hóa như ngôn ngữ, tôn giáo và các đặc điểm tương tự.
Một nhóm sắc tộc có một tên gọi chung, những ký ức lịch sử và các biểu tượng
chung.
Hầu
hết các cuộc chiến tranh sắc tộc xảy ra nơi các cơ chế hòa giải xung đột bị đổ
vỡ. Sự bất lực của chính phủ trong việc trung gian hòa giải xung đột thường
xuyên xảy ra sau khi các đế chế sụp đổ, như các đế quốc thực dân của Châu Âu ở
Châu Phi hay Liên Xô ở vùng Cápcadơ và Trung Á. Những “quốc gia thất bại” như
vậy hoặc không có một chính phủ mạnh hoặc chính phủ của họ bị suy yếu bởi các
điều kiện kinh tế, mất tính hợp pháp hay bị can thiệp từ bên ngoài. Vì vậy cho
dù sự kết thúc cuộc xung đột giữa hai cực trong Chiến tranh lạnh dẫn tới việc
rút quân khỏi Afghanistan, Campuchia, Angola và Somalia, các cuộc xung đột sắc
tộc vẫn tiếp tục. Và ở Nam Tư cũ, vốn từng giữ được thống nhất nhằm bảo vệ độc
lập trong một thế giới lưỡng cực, cái chết của Thống chế Tito và sự kết thúc
Chiến tranh lạnh đã làm suy yếu khả năng của chính phủ trung ương trong việc
hóa giải các cuộc xung đột sắc tộc.
Các
nhà theo chủ nghĩa kiến tạo đã chỉ ra rằng sắc tộc không phải là một thực tế
bất biến khiến chiến tranh không thể tránh khỏi. Sắc tộc được kiến tạo qua các
quá trình xã hội, theo đó các biểu tượng, lịch sử và ký ức có thể bị biến đổi
qua thời gian. Ví dụ ở Rwanda, nước chịu nạn diệt chủng năm 1994, người dân nói
cùng một ngôn ngữ và có cùng màu da, nhưng có sự phân tầng giai cấp về kinh tế
giữa người Tutsi có nguồn gốc văn hóa du mục di cư tới Rwanda hàng thế kỷ trước
đây với người Hutu có dân số lớn hơn chủ yếu làm nghề trồng trọt nông nghiệp.
Dần dần hôn nhân giữa hai sắc tộc và biến đổi xã hội đã làm xóa nhòa một số sự
khác biệt nhưng những khác biệt này lại được củng cố trong thời kỳ thực dân.
Trong vụ diệt chủng năm 1994 khiến 750.000 người Tutsi bị giết, nhiều người
Hutu ôn hòa hay có vẻ giống người Tutsi cũng bị thảm sát.
Sự
tan rã của liên bang Nam Tư cũ năm 1991 cũng dẫn tới các cuộc xung đột sắc tộc.
Một số xung đột tồi tệ nhất đã diễn ra giữa người Serbia, Croatia và người Hồi
giáo Bosnia, sắc tộc thuần khiết nhất trong số các nước cộng hòa thuộc Nam Tư.
Nhưng chúng ta cũng có thể coi cuộc xung đột đó như là một cuộc xung đột giữa
các khu vực nông thôn nơi các bản sắc và truyền thống vẫn còn sức sống mạnh mẽ
với các cộng đồng thành thị nơi nhiều người có hôn nhân pha trộn sắc tộc và tự
nhận mình là người Nam Tư hơn là người Serbia, Croatia hay người Hồi giáo. Một
khi Nam Tư sụp đổ và xung đột nổ ra, một số người trong số này bị áp đặt một
bản sắc mới. Như một người đàn ông đã kể với tôi năm 1993 rằng “Suốt cả cuộc
đời tôi tự nhận mình là người Nam Tư, không phải là một người Hồi giáo. Giờ đây
tôi là người Hồi giáo bởi tôi bị ép buộc như vậy.” Hay khi tôi hỏi một vị tư
lệnh quân đội người Bosnia gốc Croatia trong một trận đánh ở Mostar rằng làm
sao biết được nên bắn ai bởi người dân trên phố trông rất giống nhau, ông ta
trả lời rằng trước khi chiến tranh nổ ra bạn cần biết được tên của họ, nhưng
giờ đây đồng phục làm mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Một số nhà lý luận cho rằng
xung đột sắc tộc xuất phát từ mối thù hằn sâu sắc từ thời xa xưa hay những cuộc
xung đột lớn giữa các nền văn minh, nhưng Sigmund Freud có một từ hay hơn để
miêu tả những sự khác biệt về sắc tộc, đó là “hội chứng chú ý những sự khác
biệt nhỏ.”
CHIẾN
TRANH Ở NAM TƯ CŨ VÀ HẬU QUẢ, GIAI ĐOẠN 1991-2005
|
Mùa
hè 1991
Slovenia
và Croatia tuyên bố độc lập khỏi Nam Tư. Người Serbia và Croatia bắt đầu
chiến sự chống lại nhau ở Croatia. Liên Hợp Quốc áp đặt lệnh cấm vận đối với
tất cả thành viên của Cộng hòa Nam Tư cũ.
Mùa
xuân 1992
Bosnia-Herzegovina
(44% người Hồi giáo, 31% người Serbia, 17% người Croatia) tuyên bố độc lập và
được phương Tây công nhận. Những người Bosnia gốc Serbia tuyên bố thành lập
một nhà nước Serbia độc lập trong lòng Bosnia. Căng thẳng sắc tộc bùng nổ dẫn
tới chiến tranh ở Bosnia. Liên Hợp Quốc khai trừ Nam Tư do nguời Serbia lãnh
đạo.
Mùa
hè 1992
Xuất
hiện các báo cáo về nạn “thanh lọc sắc tộc” – chính sách giết hoặc xua đuổi
cư dân khác nhằm tạo ra một khu vực sắc tộc thuần khiết – chống lại người Hồi
giáo ở Bosnia.
Mùa
đông 1992-1993
Phái
đoàn nhân đạo của Liên Hợp Quốc tới những khu vực của người Hồi giáo ở Bosnia
bị các lực lượng người Serbia ngăn chặn. Liên Hợp Quốc tuyên bố một số thành
phố của Bosnia là “Khu vực An toàn.” Kế hoạch Hòa bình Vance-Owen đề xuất
chia Bosnia theo nhóm sắc tộc bị Quốc hội Bosnia của người Serbia bác bỏ.
Người Croatia, trước đây hợp lực với người Hồi giáo chống lại người Serbia,
bắt đầu các chiến dịch thanh lọc sắc tộc của mình.
Mùa
thu 1993
Quân
đội Bosnia chiếm được một số lãnh thổ từ tay những người Croatia ly khai.
Nước Cộng hòa Bosnia của người Serbia kêu gọi tổng động viên đối với tất cả
người tị nạn Bosnia gốc Serbia.
Mồng
4 tháng 2 năm 1994
Một
vụ đánh bom khu chợ ở Sarajevo làm 68 người chết và hơn 200 người bị thương
khiến công luận căm phẫn về vụ đánh bom này cùng những hành vi tàn bạo khác.
Mùa
hè 1994
Chính
phủ và quân đội Bosnia tiến quân chống lại những người Serbia ly khai, giành
lại được một số lãnh thổ xung quanh Bihac, Đông Bắc Bosnia.
Mùa
thu 1994
Lực
lượng của người Serbia giành lại được khu vực xung quanh Bihac. Để trả đũa,
NATO đánh bom các đường băng sân bay ở Krajina do người Serbia kiểm soát.
Người Serbia giữ hơn 300 lĩnh Liên Hợp Quốc làm con tin.
Ngày
11 tháng 7 năm 1995
“Khu
vực An toàn” Sebrenica của Liên Hợp Quốc ở Đông Bosnia bị người Serbia đánh
chiếm, 6.000 đàn ông người Hồi giáo bị giết trong vụ thảm sát tồi tệ nhất ở
Châu Âu từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Tháng
8-9 năm 1995
Lực
lượng người Croatia chiếm được khu vực Krajina từ tay người Serbia và lực
lượng người Serbia địa phương phải bỏ trốn nhằm tránh chiến dịch thanh lọc
sắc tộc quy mô lớn. NATO không kích các mục tiêu người Bosnia gốc Serbia. Các
bên tham chiến đồng ý tiến hành hòa đàm.
Tháng
11 năm 1995
Bosnia,
Serbia và Croatia ký Hiệp ước Hòa bình Dayton nhằm chấm dứt chiến tranh ở
Bosnia. Lực lượng gìn giữ hòa bình của NATO được cử tới Bosnia.
Tháng
3 năm 1998
Slobodan
Milosevic chuyển quân vào dập bạo loạn ở Kosovo. Một cuộc chiến tranh du kích
với Quân đội Giải phóng Kosovo nổ ra. Milosevic bác bỏ những lời kêu gọi can
thiệp của quốc tế.
Tháng
9 năm 1998
NATO
ra tối hậu thư đối với Milosevic: Ngừng đàn áp người Kosovo gốc Anbani nếu
không sẽ bị không kích.
Tháng
3 năm 1999
Người
Kosovo gốc Anbani và Nam Tư không đạt được thỏa thuận ở Paris. Các cuộc không
kích của NATO được tiến hành khắp Nam Tư. Hàng ngàn người Kosovo gốc Anbani
chạy trốn sang Anbani, tạo nên một cuộc khủng hoảng người tị nạn lớn.
Tháng
5 năm 1999
Tòa
án tội phạm chiến tranh của Liên Hợp Quốc coi Milosevic là tội phạm chiến
tranh.
Tháng
6 năm 1999
NATO
tạm dừng không kích sau 78 ngày khi Serbia bắt đầu rút quân khỏi Kosovo.
Tháng
9 năm 2000
Vojislav
Kostunica giành nhiều phiếu hơn Milosevic nhưng ủy ban bầu cử liên bang cho
rằng Kostunica không giành được đa số phiếu. Những người ủng hộ Kostunica bác
bỏ kết luận và bắt đầu một chiến dịch đình công và phản kháng hòa bình buộc
Milosevic phải từ chức.
Tháng
10 năm 2000
Một
cuộc tuần hành lớn trước tòa nhà Quốc hội kết thúc với việc những người biểu
tình đột nhập vào và đốt cháy tòa nhà. Một ngày sau Milosevic thừa nhận thất
bại và Kostunica tuyên thệ nhậm chức tổng thống.
Tháng
3-4 năm 2001
Giới
chức cố gắng bắt giữ Milosevic. Lính đặc nhiệm bố ráp dinh thự của Milosevic
và đọ súng đã nổ ra với vệ sĩ của ông. Sau 36 tiếng đồng hồ, Milosevic đã bị
bắt và tạm giam. Công tố viên trưởng của Liên Hợp Quốc Carla Del Ponte công
bố một trát bắt giam mới đối với Milosevic vì các tội ác phạm phải ở Bosnia.
Tháng
6-7 năm 2001
Milosevic
được trao cho tòa án La Hay nhằm điều tra các cáo buộc tội ác chiến tranh.
Tháng
2 năm 2002
Phiên
tòa xét xử Milosevic ở La Hay bắt đầu.
Tháng
11 năm 2005
Mười
năm sau lễ kí Hiệp định Dayton lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế vẫn được
triển khai ở Bancăng và các vấn đề về vị thế cuối cùng của các bên vẫn chưa
được giải quyết.
Tháng
3 năm 2006
Milosevic
được phát hiện đã chết trong phòng giam; các chuyên gia y tế xác nhận ông
chết vì những nguyên nhân tự nhiên.
|
Tại
sao người ta giết nhau chỉ vì những sự khác biệt nhỏ? Hầu hết người ta thường
không làm như vậy. Con người thường phân biệt mình thành những nhóm khác nhau,
và sự khác biệt thường đi kèm với định kiến và thù ghét. Nhưng những sự khác
biệt như vậy hiếm khi dẫn tới bạo lực quy mô lớn. Không có hai cuộc xung đột
nào hoàn toàn giống nhau, nhưng có một điểm chung đó là các biểu tượng và
truyền thống sắc tộc tạo nên sự chia rẽ, sự đối địch về kinh tế hay sự suy yếu
của quyền lực nhà nước mang lại sự sợ hãi đối với sự tồn vong của các nhóm.
Giới tinh hoa hay các nhà lãnh đạo lúc đó vận động sự ủng hộ bằng cách dựa vào
các biểu tượng sắc tộc, và bất cứ sự kiện nào (như việc Bosnia tuyên bố độc lập
năm 1992 hay cái chết của tổng thống Rwanda trong vụ rơi máy bay tháng 4/1992)
có thể làm bùng phát bạo lực.
Nhà
khoa học chính trị John Mueller nhấn mạnh vai trò của các nhóm vũ lực đạt được
mục đích của mình bằng cách thao túng các truyền thống hay sự sợ hãi của các
sắc tộc. Theo quan điểm của ông, toàn bộ khái niệm “chiến tranh sắc tộc” là
không chính xác vì nó hàm ý chiến tranh hỗn mang tất cả chống lại tất cả theo
tư tưởng của Hobbes, trong khi cái gọi là xung đột sắc tộc “được phát động bởi
một nhóm chiến binh, những người ủng hộ bạo lực và giết chóc nhân danh một thực
thể lớn hơn.” Mueller lập luận rằng nhóm thiểu số sử dụng bạo lực đã phá hủy
không gian của nhóm người trung dung ôn hòa, và các phần tử cực đoan và tội
phạm được dịp tung hoành trong sự hỗn loạn diễn ra sau đó. Stuart Kaufman nhấn
mạnh vai trò của chính trị dựa trên các biểu tượng. Các “doanh nhân chính trị”
và các nhóm cực đoan sử dụng sức mạnh tình cảm của các biểu tượng sắc tộc nhằm
nhào nặn lại sở nguyện của các nhóm lớn hơn. Trường hợp lưỡng nan an ninh kinh
điển được miêu tả trong Chương 1 xuất hiện giữa các chủ thể duy lý khi sự thiếu
tin tưởng và sự bất lực trong việc thực thi các thỏa thuận trong điều kiện vô
chính phủ khiến cho các xung đột nghiêm trọng được dịp bùng phát. Nhưng trong
quan điểm của Kaufman, nhiều cuộc xung đột sắc tộc “nổ ra bởi vì một hoặc cả
hai bên thích xung đột hơn hợp tác.” Ở những quốc gia thất bại như Sierra Leone
hay Liberia, những thanh niên không được giáo dục và không có việc làm dần dần
tìm thấy lợi ích tự thân trong việc cướp bóc, trấn lột. Bên cạnh vấn đề mà các
chủ thể duy lý gặp phải trong cấu trúc vô chính phủ, những tình huống lưỡng nan
về an ninh trong các giai đoạn đầu của xung đột sắc tộc thường xuất hiện do sự
thao túng, điều khiển các biểu tượng tình cảm bởi những người ưa thích bạo lực.
Can
thiệp và chủ quyền
Khi
các quốc gia thất bại xuất hiện hay có mối đe dọa diệt chủng, một số nhà phân
tích cho rằng các quốc gia bên ngoài nên làm ngơ nguyên tắc chủ quyền. Năm
2005, Ủy ban cấp cao của Liên Hợp Quốc về các mối Đe dọa, Thách thức và Thay
đổi đã ủng hộ “quy tắc rằng quốc tế phải có trách nhiệm chung trong việc bảo
vệ… những thường dân khỏi các tác động của chiến tranh và các hình thức vi phạm
nhân quyền.”[2] Theo ủy ban này trách nhiệm trên “có thể
thực thi được bởi Hội đồng Bảo an bằng cách cho phép can thiệp quân sự như là
biện pháp cuối cùng khi xảy ra nạn diệt chủng, các vụ thảm sát quy mô lớn,
thanh lọc sắc tộc hay những vi phạm luật nhân đạo nghiêm trọng mà các chính phủ
có chủ quyền tỏ ra bất lực hoặc không muốn ngăn chặn.”[3]
Can
thiệp là một khái niệm không rõ ràng bởi vì bản thân từ đó mang cả hai đặc tính
miêu tả và qui phạm. Nó không chỉ miêu tả những điều đang xảy ra, mà còn mang lại
những đánh giá về giá trị. Vì vậy các thảo luận về can thiệp thường liên quan
đến các vấn đề đạo đức. Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia
có chủ quyền là chuẩn tắc cơ bản trong luật quốc tế. Không can thiệp là một
chuẩn tắc quan trọng bởi nó ảnh hưởng đến cả trật tự lẫn công lý. Trật tự tạo
ra một giới hạn cho sự rối loạn. Tình trạng vô chính phủ trên phạm vi quốc tế –
nghĩa là không có một chính quyền đứng trên quốc gia – không đồng nghĩa với sự
rối loạn nếu những qui tắc cơ bản được tuân thủ. Chủ quyền và không can thiệp
lẫn nhau là hai trong số các chuẩn tắc giúp duy trì trật tự trong một hệ thống
thế giới vô chính phủ. Cùng lúc đó, không can thiệp cũng ảnh hưởng tới công lý.
Quốc gia-dân tộc là những cộng đồng con người xứng đáng được hưởng quyền phát
triển một cuộc sống bình thường trong phạm vi biên giới quốc gia của mình.
Những quốc gia bên ngoài nên tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của họ.
Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia đều phù hợp với ý tưởng đó. Chủ quyền
là một khái niệm được áp dụng cho nhiều quốc gia nơi khái niệm này hầu như
không tương thích. Ví dụ, các nhóm và bộ tộc xung đột lẫn nhau có nghĩa là
không có chính phủ nào thực tế nắm quyền kiểm soát ở Sierra Leone, Liberia và
Somalia những năm đầu thế kỷ 21. Thậm chí trẻ em cũng bị ép tham gia chiến
trận. Vì vậy thường nảy sinh căng thẳng giữa trật tự và công lý, dẫn đến sự
không nhất quán về việc liệu có nên can thiệp hay không.
Định
nghĩa sự can thiệp
Theo
nghĩa rộng, can thiệp là những hành động từ bên ngoài có ảnh hưởng đến
những công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền (Hình 6.1). Một vài nhà
phân tích sử dụng nghĩa hẹp hơn là sự can thiệp vũ trang vào công việc nội bộ
của một quốc gia khác. Định nghĩa hẹp này chỉ là một cực của một phổ các ảnh hưởng,
từ mức độ ép buộc thấp đến mức độ ép buộc cao (xem Hình 6.1). Ở mức độ ảnh
hưởng thấp, sự can thiệp đơn giản có thể chỉ là một bài phát biểu nhằm gây ảnh
hưởng đến những công việc nội bộ của một quốc gia khác. Ví dụ vào năm 1990,
tổng thống Mỹ George H. W. Bush đã kêu gọi người dân Iraq lật đổ chính quyền
Saddam Hussein, và năm 1999, Saddam kêu gọi nhân dân một số quốc gia Ảrập lật
đổ các nhà lãnh đạo của họ. Những phát biểu như vậy nhằm mục đích can thiệp vào
nền chính trị nội bộ của một quốc gia khác – và thường không mang lại nhiều
hiệu quả. Vào những năm 1980, chính phủ Mỹ thiết lập đài Radio Marti để phát
sóng những thông điệp của họ chống lại Chủ tịch Fidel Castro của Cuba, nhưng
Castro vẫn nắm quyền cho tới đầu thế kỷ mới.
Hỗ
trợ kinh tế là một cách khác để gây ảnh hưởng lên những vấn đề nội bộ của một
quốc gia khác. Ví dụ, trong thời kỳ Chiến tranh lạnh chính phủ Mỹ viện
trợ kinh tế cho El Salvador và Liên Xô hỗ trợ cho Cuba nhằm mục đích gây ảnh
hưởng lên công việc nội bộ của các quốc gia này. Dù là một hình thức hỗ trợ
kinh tế bất hợp pháp nhưng hối lộ các quan chức cấp cao nước ngoài có thể giúp
thuyết phục họ theo đuổi các chính sách mà bên thứ ba mong muốn. Trong suốt
thời kỳ Chiến tranh lạnh, tình báo Mỹ và Liên Xô thường đổ nguồn lực vào các
cuộc bầu cử ở nước ngoài nhằm mang lại một kết quả có lợi. Tương tự, vào thập
kỷ 1970, chính phủ Hàn Quốc đã chi rất nhiều tiền để tài trợ cho các chính trị
gia Mỹ có tư tưởng thân Hàn Quốc trong các chiến dịch bầu cử của họ.
Mức
độ ép buộc cao hơn trong dãy các ảnh hưởng là việc cung cấp các cố vấn quân sự.
Trong những năm 1950, thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ bắt đầu
bằng can thiệp bằng hỗ trợ kinh tế và sau đó chuyển sang hỗ trợ quân sự. Tương
tự như vậy, Liên Xô và Cuba cung cấp viện trợ quân sự và cố vấn cho Nicaragua
và những quốc gia “đồng minh” khác. Một dạng can thiệp khác là ủng hộ phe đối
lập. Ví dụ, trong những năm đầu thập niên 1970, nước Mỹ cấp tiền cho phe đối
lập của Salvador Allende, tổng thống được bầu một cách dân chủ của Chile, và
Liên Xô cũng đã nhiều lần cấp tiền cho những nhóm hoà bình ở những quốc gia Tây
Âu. Gần đây hơn, Mỹ đã cấp hỗ trợ tài chính cho các phong trào dân chủ sơ khai
ở các nước thuộc Liên Xô cũ, trong đó có Ucraina.
Dịch
sang cực ép buộc cao hơn là các hành động quân sự hạn chế. Ví dụ, vào những năm
1980, Mỹ ném bom Libya để phản ứng lại việc quốc gia này ủng hộ chủ nghĩa khủng
bố, và Liên Xô đã hỗ trợ một bên trong cuộc nội chiến ở Nam Yemen. Năm 1998 Mỹ
đã phóng tên lửa tấn công Sudan và Afghanistan nhằm trả đũa các cuộc tấn công
khủng bố vào các sứ quán Mỹ ở Đông Phi. Mỹ cũng sử dụng không quân và lục quân
để hỗ trợ lực lượng địa phương lật đổ chính quyền Taliban ở Afghanistan sau các
vụ khủng bố tháng 9/2001 trên đất Mỹ. Một cuộc xâm lược hay chiếm đóng trên qui
mô lớn là mức độ cao nhất của sự ép buộc. Các ví dụ bao gồm hành động của Mỹ
tại nước Cộng hoà Dominica năm 1965, Grenada năm 1983, Panama năm 1989 và Iraq
năm 2003; cũng như những hành động của Liên Xô tại Hungary năm 1956, Tiệp Khắc
năm 1968 và Afghanistan năm 1979. Không phải chỉ có các cường quốc mới có các
hành động can thiệp quân sự. Ví dụ, năm 1979 Tanzania đã gửi quân tới Uganda
còn Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia. Năm 1997, nước Rwanda nhỏ bé
cũng can thiệp quân sự vào công việc của quốc gia láng giềng rộng lớn hơn đang
gặp rắc rối là Congo. Một số vụ can thiệp mang tính chất đa phương, nhưng
thường do một nước dẫn đầu. Ví dụ Mỹ dẫn đầu vụ can thiệp năm 1995 của Liên Hợp
Quốc vào Haiti và vụ can thiệp của NATO năm 1999 vào Kosovo, trong khi Nigeria
dẫn đầu một nhóm các quốc gia Tây Phi can thiệp vào Liberia và Sierra Leone
những năm 1990.
Định
nghĩa rộng về can thiệp vì vậy bao gồm tất cả các loại hành vi, từ những hình
thức ép buộc ở mức thấp nhất đến mức cao nhất. Mức độ ép buộc của việc can
thiệp là điều quan trọng bởi nó liên quan đến mức độ lựa chọn của những người
dân bản địa, đồng nghĩa với mức độ các thế lực bên ngoài hạn chế quyền tự trị
của họ.
Chủ
quyền
Chủ
quyền là một khái niệm chủ chốt của hệ thống Westphalia và được củng cố bởi
Hiến chương Hội Quốc Liên và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Nó cũng là trung tâm
của các cuộc tranh cãi về tính hợp pháp của việc can thiệp. Trong khi chủ quyền
về mặt pháp lý chỉ sự kiểm soát tuyệt đối đối với một lãnh thổ thì việc kiểm soát
trên thực tế bởi một chính phủ trong phạm vi biên giới của mình thường là một
câu hỏi liên quan đến mức độ.
Vì
một vài lý do, ngay cả các chính phủ hiệu quả và được người dân củng hộ cũng ít
khi có thể kiểm soát được hoàn toàn mọi việc xảy ra trong phạm vi biên giới của
họ. Một trong số các lý do là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế quốc tế. Ví dụ,
khi Đảng Xã hội lên nắm quyền ở Pháp năm 1981, họ muốn tạo ra một sự thay đổi
lớn trong chính sách kinh tế Pháp. Nhưng họ nhận thấy rằng nền kinh tế Pháp và
những nền kinh tế khác của Châu Âu có sự phụ thuộc lẫn nhau quá lớn nên khi họ
đơn phương cố gắng tạo ra sự thay đổi, nguồn vốn sẽ chạy ra nước ngoài và giá
trị của đồng Franc Pháp sẽ giảm mạnh. Vì vậy cuối cùng Đảng Xã hội Pháp đã phải
quay trở lại chính sách kinh tế chung với những quốc gia Châu Âu khác. Sự phụ
thuộc lẫn nhau không những giới hạn chủ quyền pháp lý của Pháp mà nó chắc chắn
còn hạn chế khả năng kiểm soát trên thực tế của nước này. Nền kinh tế của Pháp
quá phụ thuộc vào các nước khác nên nước này không thể theo đuổi những chính
sách kinh tế hoàn toàn độc lập. Tương tự như vậy, năm 1998, cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á đã tạo ra sự thiếu chắc chắn trên các thị trường thế giới,
buộc các chính phủ chủ quyền ở những nơi xa xôi như Nga và Brazil cũng phải phá
giá đồng nội tệ và thay đổi các chính sách kinh tế của mình. Chúng ta sẽ xem
xét kỹ hơn các thách thức mà toàn cầu hóa kinh tế đặt ra đối với chủ quyền
trong chương tiếp theo.
Sự
phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế chỉ là một trong số các nhân tố tác động tới chủ
quyền. Một làn sóng lớn những người tị nạn có thể làm xáo trộn ngay cả những
quốc gia ổn định. Những người tị nạn từ Haiti và Cuba đổ vào nước Mỹ đã dẫn tới
các tranh luận chính trị ở Washington năm 1993 và 1994, trong khi những người
tị nạn Rwanda đổ vào những nước láng giềng như Burundi và Congo càng làm trầm
trọng thêm các cuộc xung đột sắc tộc ở đây. Buôn bán vũ khí và ma túy cũng có
thể làm xói mòn chủ quyền. Số lượng vũ khí đổ vào miền Bắc Pakistan từ
Afghanistan suốt những năm 1980 và 1990 đã làm suy yếu khả năng của chính phủ
Pakistan trong việc kiểm soát vùng lãnh thổ phía Bắc, trong khi lượng ma túy
bất hợp pháp từ ngoài chảy vào Mỹ đã tạo ra những vấn đề về mặt luật pháp và
trật tự trong nước. Các quốc gia có thể có chủ quyền về mặt pháp lý, nhưng các
chủ thể bên ngoài vẫn có thể tác động vào các vấn đề trong nước.
Ngược
lại, sự can thiệp đôi khi làm tăng khả năng tự trị. Một số quốc gia nghèo có
thể có quyền tự trị trên thực tế thấp vì năng lực yếu. Một vài cách can thiệp
có thể thật sự làm tăng năng lực, đồng nghĩa với khả năng tự trị của họ trong
tương lai. Sự hỗ trợ về kinh tế và quân sự có thể giúp một quốc gia trở nên độc
lập hơn trong dài hạn, ví dụ như sự can thiệp của Liên Hợp Quốc vào Campuchia
những năm 1990 đã giúp nước này phát triển năng lực thể chế sau hai thập kỷ nội
chiến. Đây là một vài trong số những sự phức tạp của mối quan hệ giữa chủ
quyền, tự trị và sự can thiệp.
Đánh
giá can thiệp
Các
trường hợp ngoại lệ
Các
vấn đề của quyền tự quyết
BIÊN
NIÊN SỬ: SỰ DÍNH LÍU CỦA MỸ Ở VIỆT NAM (1954-1975)
Động
cơ, phương tiện và hậu quả
Download phần còn lại của nội dung văn
bản tại đây: Su
can thiep, cac the che, xung dot khu vuc va sac toc-P1.pdf
————–
[1] Peter Wallensteen
và Magareta Sollenberg, “Armed Conflict 1989-2000,” Báo cáo số 60, trong
Magareta Sollenberg, biên tập, States in Armed Conflict 2000 (Uppsala,
Sweden: Uppsala University, Department of Peace and Conflict Research, 2001),
trang 10-12.
-
See more at:
http://nghiencuuquocte.net/2014/10/27/can-thiep-the-che-xung-dot-khu-vuc-sac-toc-p1/#sthash.IURjiFxX.dpuf
No comments:
Post a Comment