Tue,
10/14/2014 - 13:16 — ledienduc
Cách
đây 50 năm, vào một sáng sớm mùa thu tháng 10 năm 1964, học sinh trường tiểu
học chúng tôi tập trung ngoài sân chào cờ. Nhưng buổi chào cờ hôm ấy mang một
bầu không khí đặc biệt. Sau lễ chào cờ, chúng tôi không giải tán để đi vào lớp
mà ở lại nghe thầy hiệu trưởng nói về người anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trôi và
làm lễ mặc niệm. (Trong những ngày đầu tiên, do thông tin đưa ra miền Nam thiếu
chính xác nên người ta gọi tên Nguyễn Văn Trỗi thành Nguyễn Văn Trôi).
Thầy
hiệu trưởng nói về Nguyễn Văn Trỗi, là biệt động quân Sài Gòn, một nguời thợ
điện còn rất trẻ, mới 24 tuổi, vừa mới lấy vợ chưa có con, đã xung phong nhận
nhiệm vụ đánh bom ám sát Bộ Trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNanara đang ở thăm
Sài Gòn. Dự tinh bom sẽ được đặt dưới cầu Công Lý, nơi phái đoàn cao cấp của Mỹ
do McNamara dẫn đầu, đi qua. Kế hoạch bị bại lộ, Nguyễn Văn Trỗi bị bắt và bị
chính quyền Việt Nam Cộng hòa kết án tử hình. Ngày 15 tháng 10 năm 1964 bản án
được thi hành.
Trong
9 phút ngắn ngủi trên pháp trường Nguyễn Văn Trỗi đã làm nên lịch sử bởi tư thế
hiên ngang, bất khuất với những lời hô vang dội, thầy hiệu trưởng nhấn mạnh, và
đọc lời của Hồ Chí Minh:
"Vì
tổ quốc vì nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế
quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi là
tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước - nhất là các cháu thanh
niên, học tập".
Chúng
tôi lắng nghe trong sự xúc động, nghẹn ngào và uất hận. Lễ mặc niệm kéo dài ba
phút. Sau đó thầy hiệu trưởng phát động phong trào thi đua sống, hộc tập và
chiến đấu như anh Nguyễn Văn Trỗi.
Phong
trào nổi lên rầm rộ và được cảm nhận bởi học sinh đến mức năm 1965 trong cuộc
thi giỏi văn toàn miền Bắc dành cho học sinh cấp 2, đề bài nói về anh hùng
Nguyễn Văn Trỗi, một học sinh thay vì viết văn xuôi đã làm một bài thơ dài,
đoạt giải ba (không có giải nhất), mở đầu:
"Vì
Tổ quốc vì nhân dân kính mến
Anh
xây nên những giây phút anh hùng
Tặng
quê hương một hơi thở cuối cùng
Tặng
Tổ quốc một trang vàng chói lọi".
Nhiệt
huyết và tinh thần sôi động ấy chính là hiệu quả từ bộ máy tuyên truyền của chế
độ. Âm thanh trước hết được khuyếch trương trên báo đảng. Tố Hữu, lúc bấy giờ
là Uỷ viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã mô tả toàn bộ cuộc
hành quyết Nguyễn Văn Trỗi trên báo Nhân Dân qua bài thơ "Hãy nhớ lấy lời
tôi":
"Chúng
trói Anh vào cọc, mấy vòng dây
Mười
họng súng. Một băng đen bịt mắt.
Anh
thét lớn: "Chính Mỹ kia là giặc!"
Và
tay Anh giật phắt mảnh băng đen
Anh
muốn thiêu, bằng mắt, lũ đê hèn
Với
cái chết, Anh muốn nhìn giáp mặt
Như
ngọn lửa không bao giờ dập tắt!
Chúng
run lên, xông trói chặt Anh hơn
Đôi
môi Anh đã khô cháy căm hờn:
Phải
chiến đấu không sợ gì súng đạn!
Lệnh:
Hàng đầu quỳ xuống! Một giây thôi
Anh
thét lên: Hãy nhớ lấy lời tôi:
Đả
đảo đế quốc Mỹ!
Đả
đảo Nguyễn Khánh!
Hồ
Chí Minh muôn năm!
Hồ
Chí Minh muôn năm!
Hồ
Chí Minh muôn năm!
Phút
giây thiêng, Anh gọi Bác ba lần!
Súng
đã nổ, mười viên đạn Mỹ"...
và:
"Anh
gục xuống. Không. Anh thẳng dậy
Anh
hãy còn hô: Việt Nam muôn năm!"
Các
nhà văn, nhà thơ, đạo diễn đồng loạt cho ra đời các tác phẩm ngợi ca Nguyễn Văn
Trỗi, biểu tượng của ngọn lửa anh hùng cách mạng. Một nhà thơ (hình như Giang
Nam) phụ hoạ:
"Vứt
mảnh băng đen anh gằn giọng: "Không cần
Để ta nhìn lần cuối cùng Tổ quốc"
Để ta nhìn lần cuối cùng Tổ quốc"
Đạo
diễn Bùi Đình Hạc và Lý Thái Bảo xây dựng phim truyện "Nguyễn Văn
Trỗi" (1966), nhạc sĩ Vũ Thành sáng tác bài "Lời anh vọng mãi
ngàn năm" phát oang oang trên đài phát thanh "Ôi, tên anh truyền khắp
hoàn cầu, cuồn cuộn sôi trong muôn con tim...". Còn chúng tôi, những đứa
học sinh, chuyền tay nhau đọc tập bút ký "Sống như anh" của Trần Đình
Vân...
Trong
xã hội miền Bắc, con người sống như bị giam hãm trong "trại súc vật",
bị tẩy não, bị thuần hoá, mù tịt thông tin, chỉ biết thế giới bên ngoài qua các
phương tiện báo chí truyền thông của đảng. Lúc ấy cũng chưa có Internet, dường
như ai ai cũng tin, tin như đinh đóng cột vào cả những điều phi lý hiển nhiên.
Một con người nơi pháp trường đã bị trói gập khuỷ tay làm sao có thể giật mảnh
băng đen bị mắt. Rằng, đã bị súng bắn chết gục sao còn có thể "thắng
dậy" mà hô khẩu hiệu! Nhưng tuyệt nhiên không hề có một sự nghi kị nào!
Phải
đợi tới 34 năm sau, năm 1998 khi cuốn sách "Chân dung và đối thoại"
của Trần Đăng Khoa phát hành, thì một số ít người mới biết được sự thật. Diễn
biến toàn cảnh Nguyễn Văn Trỗi bị xử tử hình trên không như Tố Hữu ca ngợi mà
bị xiên xẹo, bịa đặt, dối trá. Cả một nửa đất nước đã bị lừa gạt thảm hại bởi
bút pháp "bậc thầy" và nghệ thuật bịa của "nhà thơ lớn".
Trong
một lần tâm sự với Trần Đình Khoa, Tố Hữu, lúc này là một con người thất thế,
chán nản nhân tình thế thái, như một lời tự thú, đã nói ông ngồi nhà bịa như thật
khiến người đọc cứ tưởng như ông đang ở ngoài mặt trận, khi viết bài thơ
"Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" và cũng dịp ấy ông thú nhận:
"Tôi
hô khẩu hiệu đấy, tôi chả sợ. Tôi muốn nói rằng: Không có cái gì là không thành
thơ được. Tôi cho cả Nguyễn Văn Trỗi hô: Hồ Chí Minh muôn năm. Mà hô những ba
lần kia".
Cái
kim bọc kỹ lâu ngày cũng lòi ra. "Anh hùng" Nguyễn Văn Trỗi bị bắn
chết nhưng "nhà thơ" đã kịp nhét khẩu hiệu vào mồm! Để hô. Hô to cho
dân miền Bắc nghe qua báo đảng!
Sau
này xem lại clip video mới thấy Nguyễn Văn Trỗi, một kẻ khủng bố đúng nghĩa với
ngôn ngữ ngày nay, chẳng thấy anh ta hô hoán khẩu hiệu nào, mà cũng chẳng thấy
đâu cái tư thế "lẫm liệt":
Nhưng
cũng hết sức thô bỉ và đáng xấu hổ! Biết là bịa mà Trần Đăng Khoa cũng cố nịnh:
"Tất
nhiên, sau ba câu khẩu hiệu Hồ Chí Minh muôn năm, Tố Hữu đã hạ một câu thơ thật
là thần tình: Phút giây thiêng anh gọi Bác ba lần. Và thế là ngay lập tức, mấy
câu khẩu hiệu khô khốc trên kia đã không còn là khẩu hiệu nữa, nó đã thành tình
cảm, xúc cảm, thành nỗi niềm thiêng liêng của cả một đời người ở cái giây phút
hiểm nghèo nhất. Và người đọc bỗng ứa nước mắt. Đấy là tài nghệ của một bút
pháp lớn. Bút pháp bậc thầy".
Sự
dối trá về Nguyễn Văn Trỗi cũng tương tự như "ngọn đuốc sống" Lê Văn
Tám trong thời chống Pháp, một nhân vật được Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Tuyên
truyền và Cổ động của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sáng tác, dựng lên.
Trớ
trêu thay, cho đến ngày nay, người ta cũng bất chấp dư luận, sống sượng và vô
liêm sỉ đến mức vẫn lấy tên Lê Văn Tám để đặt tên cho nhiều truờng học và công
viên ở Việt Nam. Họ cũng chẳng chỉnh sửa, đính chính những điều không có về
hình ảnh Nguyễn Văn Trỗi.
Các
thế hệ sau chiến tranh tiếp tục bị nhồi sọ bằng những biểu tuợng lịch sử gian
dối, mà đỉnh cao nhất là nhân vật Hồ Chí Minh, được tuyên truyền như "một
danh nhân văn hoá".
Chế
độ cộng sản tồn tại được nhờ vào hai yếu tố: bạo lực và dối trá. Bạo lực để đàn
áp sự chống đối và phủ tâm lý sợ hãi lên toàn xã hội. Dối trá để nhồi sọ, ngu
dân.
Cựu
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Liên Xô Michail Gorbachev đã từng cay đắng nói: “Cả
cuộc đời tôi đi theo chủ nghĩa cộng sản chỉ thấy toàn là nói dối, nói dối và
nói dối”.
Lech
Walesa, cựu thủ lĩnh Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan, người thợ điện đã làm chập mạch
toàn bộ hệ thống cộng sản châu Âu nói rằng, “Người cộng sản là những tổ sư
chuyên về phá hoại. Họ c ó thể biến cái hồ cá thành tô súp cá dễ như
chơi".
Còn
Aeschylus (524 TCN – 456 TCN), nhà soạn kịch Hy Lạp cổ đại, cha đẻ của bi kịch
hiện đại, từ xa xưa đã nhận định: "Không có gì tồi tệ hơn sự dối trá được
thể hiện bằng những ngôn từ hoa mỹ".
©
Lê Diễn Đức
---------------------------------
Báo chí cộng
sản ca tụng Nguyễn Văn Trỗi
No comments:
Post a Comment