VŨ ĐỨC VƯỢNG
11/10/14
07:17
(GDVN) -Tự chủ tài
chính, tự trị quản lý và tự do học thuật là cái kiềng ba chân để nền giáo dục
đại học ở Việt Nam có hy vọng hoàn thành được sứ mạng thật sự của mình.
Một thực tế không ai
chối cãi là giáo dục ở Việt Nam đã đi tụt hậu và tệ hơn nữa, trong vòng hai
thập kỷ gần đây, tham nhũng đã ăn sâu vào giáo dục - từ lớp mầm non đầu tiên
tới văn bằng tiến sĩ - đến nỗi ít phụ huynh nào dám nghĩ là con mình sẽ được
giáo huấn thành người trong thời buổi này.
Nhiều lý do khách
quan cũng như chủ quan đã gây ra tình trạng này và cũng đã được nhiều người
trong mọi giới, từ chính các sinh viên đến các lãnh đạo nhà nước, mổ xẻ trong
nhiều thập niên qua.
Góp ý cho vấn đề
này, Báo Giáo dục Việt Nam giới thiệu bài viết của tác giả Vũ Đức Vượng,
nguyên là giám đốc Chương Trình Giáo Dục Tổng Quát tại ĐH Hoa Sen, TP.HCM, và
hiện biên tập tờ TRỒNG NGƯỜI, một “chợ đầu mối” về các vấn đề giáo dục tại Việt
Nam, xuất bản hàng tháng ở San Francisco, Mỹ.
Bài viết này cũng đã
được ông trình bày tại cuộc toạ đàm về hướng phát triển cho giáo dục ngoài công
lập, mới được tổ chức gần đây tại TP.HCM.
Bài viết thể hiện
quan điểm, góc nhìn và cách hành văn của tác giả. Trân trọng giới thiệu cùng
độc giả.
-----------------
Tôi
sẽ đi ngay vào vấn đề làm sao để các trường ngoài công lập (NCL) phát triển
vững mạnh, đáp ứng các nhu cầu chính đáng của sinh viên và của đất nước.
Tôi
nghĩ có ba điều kiện chính trong cuộc cải tổ giáo dục mà ai cũng tuyên bố là
phải “căn bản” và “toàn diện”: tự chủ về tài chính, tự trị về quản lý, và tự do
học thuật.
Tự chủ
tài chính
Mảng
này có lẽ đơn giản nhất trong ba khía cạnh cải tổ: để các trường ĐH tự chủ về
tài chính của họ.
Đa
số các trường ngoài công lập mà thành công đã đạt được tự chủ này: họ thu học
phí, trả lương giảng viên, nhân viên, xây cất trường ốc, tặng học bổng cho sinh
viên ưu tú hay có hoàn cảnh khó khăn, mua sắm thiết bị, v.v. và còn đóng
thuế cho nhà nước nữa.
Do
đó, dự kiến tự chủ tài chính mà chính phủ đang thảo luận sẽ ảnh hưởng nhiều hơn
đến các trường công lập, vì cho tới nay các trường công vẫn còn dựa vào ngân
sách quốc gia hơn là hoạt động như một doanh nghiệp có trách nhiệm.
Kinh
nghiệm của các trường công lập bên Mỹ, hầu hết là trường của tiểu bang trong hệ
thống chính trị liên bang, từ sau Thế chiến II có thể là một thí dụ trong
trường hợp này: nhà nước sẽ giảm ngân sách cho các trường công, buộc các trường
này sẽ phải xét lại biên chế cho hiệu quả hơn, chắc chắn sẽ phải tăng học phí, và
sẽ phải dần dần hành xử giống như các trường ngoài công lập.
Đây
không phải là một đại họa hay một nguy cơ cho các trường công. Ở Mỹ, hệ thống
trường công vẫn là cột trụ của GDĐH, nên các trường công ở Việt Nam cũng còn
rất nhiều lợi thế để giữ cương vị chủ chốt của họ.
Nhưng
lý do trường ở Mỹ thành công cho đến nay là hai điều kiện khác nữa, quan trọng
hơn tự chủ tài chính nhiều; và đây mới là hai vấn đề cốt lõi mà các ĐH ở Việt
Nam, công cũng như tư, phải đạt được thì mới có hy vọng thành công.
Tự trị
quản lý
Có
người đã ví von gọi GDĐH ở Việt Nam là một con gà công nghiệp.
Như
một đứa con “gà công nghiệp” năm nay đã 40 tuổi nhưng mẹ vẫn lo cho từng bữa
ăn, từng ly nước; vẫn giặt ủi quần áo và chỉ cho con mỗi ngày mặc bộ nào; vẫn
kiểm soát con đi chơi với ai, ở đâu, làm gì … bất cứ lúc nào; bố vẫn mua xe cho
con và cho tiền đổ xăng, và tiếng là muốn có cháu để bồng nhưng thực tế thì vẫn
không muốn con cưng của mình lọt vào tay bất cứ người nào khác.
Thế
nên chi bằng, cứ o bế nó, dù nó có đôi lúc nghẹt thở đi nữa, nhưng nó vẫn nằm
trong vòng kiểm soát của mình. Còn gì bảo đảm hơn ?
Cũng
vậy, nền giáo dục ở Việt Nam là một con gà công nghiệp, không được dạy tư duy
độc lập, càng không dám phản biện lại bố mẹ mình vì vừa sợ mất miếng ngon vừa
không biết phản biện thế nào.
Tôi
nghĩ GDĐH nước ta còn tệ hơn gà công nghiệp nhiều: con gà không có mục đích gì
khác trong cuộc đời ngắn ngủi của nó là “leo lên bàn” hoặc để cúng ông bà, hay
để các tay bợm nhậu hả hê với nhau.
Sau
đó chỉ còn đống xương và lông, đem ra hố rác là xong. Giáo dục thì khác: học
xong mới là lúc đem ra áp dụng và giúp mình, giúp đời. Vì thế, nếu không để cho
giáo dục tự do và tự tin thì nó sẽ không bao giờ dám bay bổng, dám sáng tạo.
Ngược
lại, ở Mỹ, trẻ con từ rất bé đã được trau dồi ý thức tự lập, tự quyết định cho
chính mình, nhưng trong khuôn khổ mỗi người là một thành viên cơ hữu của xã hội
chứ không ai là một “hải đảo.”
Lớn
lên, xã hội và giáo dục Mỹ luôn dạy mỗi người có trách nhiệm với xã hội, và khi
thấy điều gì bất công thì người dân có quyền đòi thay đổi. Bao nhiêu cải tổ
trong xã hội Mỹ là dẫn chứng cho lối tư duy này, từ những vấn đề bình quyền của
mọi người đến những vấn đề xã hội như cấm lái xe khi say xỉn, bài trừ tệ nạn
hút thuốc lá, hay những luật để bào vệ môi trường… Tất cả đều do sáng
kiến, đề xuất, và thường là tranh đấu của người dân đòi chính quyền thay đổi.
Về
giáo dục, không những các trường Mỹ tự chủ về tài chính, như đã nói bên trên,
mà còn tự trị về quản lý. Mấy tháng nay, truyền thông trong nước đầy những
tranh luận về ĐH lợi nhuận hay phi lợi nhuận (LN v. PLN), nên chắc quí vị trong
cử tọa hôm nay không lạ gì với vấn đề này cũng như việc tự trị của các trường
NCL. Ở đây, tôi chỉ dùng các các trường công bên Mỹ để làm ví dụ về tự trị quản
lý.
Nói
một cách đơn giản, chính quyền tiểu bang chỉ định thành phần Hội Đồng Quản Trị
gồm những người am tường và thiện chí để bảo vệ quyền lợi cho mọi người trong
bang.
Dĩ
nhiên, trong trường hợp này, sinh viên và giảng viên là ưu tiên. HĐQT tuyển
chọn, công khai, Hiệu trưởng rồi để HT gần như tự do quản lý nhà trường. Nhưng
một số thành phần khác cũng có ảnh hưởng đến các chính sách hay cách làm việc
của HT như tổ chức của các giảng viên (Academic Senate hay Faculty
Association), các công đoàn (Unions) các nhóm có quan tâm riêng (interest
groups) và Đoàn sinh viên, v.v….
Mỗi
nhóm cố gắng bảo vệ những quyền lợi chính đáng của các thành viên, nên hiệu
trưởng không thể là nhà độc tài, nhưng lại rất có hiệu quả nếu thuyết phục,
thỏa hiệp được với các thành phần khác trong trường.
Chính
quyền liên bang cũng như tiểu bang không can thiệp vào vấn đề quản lý của
trường, chẳng hạn như không tỉnh nào có quyền phê chuẩn hay bãi nhiệm HT, việc
này chỉ có HĐQT làm được. Cũng không có chuyện “tuyển cử” từ chính quyền địa
phương như chúng ta đọc trên báo cách đây vài tuần. Chỉ khi nào có vấn đề
phạm pháp thì chính quyền mới vào cuộc.
Chính
sách tự trị quản lý này đã giúp các trường ĐH công cũng như tư ở Mỹ phát triển
và đạt được mức hiệu quả như ta đã thấy.
Tự do
học thuật
Tôi
nghĩ tự do học thuật là động lực then chốt và nét đặc trưng của các đại học
tiên tiến và thành công trên thế giới. Giáo dục là tranh luận, khám phá,
so sánh, lựa chọn, và là một tiến trình mà ai cũng phải tiếp tục suốt
đời. Nhất là trong thế giới hôm nay khi iPhone 6 chưa kịp bán thì Apple
đã chuẩn bị cho các sản phẩm mới hơn, hay hơn vào năm tới.
Hiện
thời ở các trường ĐH Việt Nam còn nhiều môn học đã hết hiệu lực nhưng Bộ GD-ĐT
và chính quyền vẫn trung thành bắt buộc các trường dạy. Sinh viên chán các môn
này, và thật ra cũng không còn áp dụng được vào đời sống nữa; nhưng nhiều
trường vẫn phải dạy và các môn này thành nguồn thu nhập khá tốt cho các trường.
Có
nhiều người đề nghị thay đổi sách giáo khoa và thay cả giáo trình nhưng đây mới
chỉ là mặt nổi của tảng băng và một phần tương đối nhỏ trong công cuộc cải cách
giáo dục. Quyết định “Dạy cái gì?” thì đơn giản hơn những vấn đề khác như
“Dạy thế nào?” “Ai được dạy” “Ai được học” “Học thế
nào?” “Dạy để làm gì?” v.v…
Giáo
dục trên thế giới đã vượt xa chúng ta nên việc mượn giáo trình của họ không có
gì khó. Cái khó là chúng ta có dám chấp nhận lối tư duy đằng sau các giáo trình
đó không? Hoăc nhà nước chúng ta có dám tin vào những người làm giáo dục
và “cởi trói” để họ có thể làm giáo dục chân chính? Hay chúng ta vẫn khư khư
“trói buộc” và kiểm soát từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ trong nhà trường, và hậu
quả như ta đã thấy.
Một
tiêu cực nữa của những qui định và kiểm soát quá khắt khe, nhiều khi chồng chéo
nhau trong giáo dục là tạo một chỗ trú ẩn cho những ai thiếu trách nhiệm hay
thiếu khả năng: họ thường viện cớ là “không được làm” cái này, cái nọ…. để lười
không phải sáng tạo cũng như trốn trách nhiệm những khi sai phạm.
Tóm
lại, chỉ khi nào tự chủ tài chính đi cùng với tự do học thuật và tự trị về quản
lý thì chúng ta mới có hy vọng dạy và học nghiêm túc để đào tạo những thế hệ
Việt trẻ vừa là công dân tốt vừa là con người tốt.
Hôm
nay chúng ta chú trọng vào các trường NCL nhưng những bước tôi vừa trình bày ở
trên tưởng cũng không khác lắm với các trường công.
Chính
phủ đang thảo luận phương cách để các trường công được tự chủ hơn về tài chính.
Đó có thể là một chính sách khá hay, buộc các trường công cũng phải thoát
ra khỏi sự lệ thuộc hoàn toàn vào ngân sách quốc gia và hành xử gần giống như
các trường NCL.
Nhưng
tự chủ về tài chính này chỉ có ý nghĩa và hiệu quả khi mọi trường ĐH ở Việt Nam
cùng được tự trị về quản lý và được bảo đảm tự do học thuật. Nói cách khác, tự
chủ tài chính, tự trị quản lý và tự do học thuật là cái kiềng ba chân để nền
giáo dục đại học ở Việt Nam có hy vọng hoàn thành được sứ mạng thật sự của
chính nó.
------------------------
Ngọc Quang - GDVN
13/10/14
06:45
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Bo-Giao-duc-dang-nham-lan-giua-day-chu-va-day-nguoi-post149320.gd
(GDVN)
- GS.TS, Nhà giáo nhân dân Trần Đình Sử: "Trong thời đại khoa học kỹ thuật
phát triển như ngày nay, không có chữ là không có gì hết, không làm được gì
hết".
Trao
đổi với PV Báo Giáo dục Việt Nam, GS.TS.NGND Trần Đình Sử - nguyên Giảng viên
Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội (Tổng chủ biên nhiều sách ngữ văn Trung học
và sách ngữ văn nâng cao PTTH) nhận định, đề án “Đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông” có tác động sâu sắc và toàn diện tới đời sống xã
hội.
Vì
vậy, cần phải có đánh giá kỹ lưỡng các cơ sở khoa học của nó, để khi đi vào
thực thi có thể đem lại những kết quả tốt đẹp như kỳ vọng, tránh gây xáo trộn,
gây ra bất ổn, làm mất đi các giá trị chúng ta đã đạt được.
Nhận
thức sai hay chỉ là lầm lẫn "kỹ thuật"?
Theo
GS. Trần Đình Sử, dự thảo chương trình dựa trên sự đánh giá đối lập dạy kiến
thức với đào tạo năng lực, đối lập dạy chữ với dạy người, dẫn đến yêu cầu sự
hài hòa hai mặt ấy, một mặt nào đó thì đúng. Tuy nhiên, ngay tại dự thảo đã có
cái sai là không xem đào tạo tri thức là đào tạo con người, đối lập dạy chữ với
dạy người, dẫn đến coi nhẹ đào tạo kiến thức cơ bản thì rất không đúng.
Trong
hệ thống các năng lực mà dự thảo đề cập chỉ thấy các năng lực gắn với đạo đức,
hành vi xã hội, mà không thấy rõ vị trí của kiến thức trong việc tạo thành các
năng lực đó như thế nào? Sự đối lập giữa dạy chữ với dạy người có vẻ như muốn
gợi cho người ta thấy dạy người quan trọng hơn, mà không cho thấy chữ chính là
một phẩm chất, năng lực cơ bản của con người.
Phân
biệt dạy chữ và dạy người ở đây không đúng, chẳng những thế sẽ gây ngộ nhận
theo lối thô thiển là cốt dạy người (dạy năng lực) còn kiến thức thế nào cũng
được. Thí dụ, về kiến thức có còn nguyên tắc cơ bản, hiện đại nữa không? Trong
thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay, không có chữ là không có gì
hết, không làm được gì hết.
GS
Trần Đình Sử nêu thí dụ: "Ý thức coi nhẹ kiến thức thể hiện rõ nhất khi
thuyết minh về nguyên tắc cấu tạo môn tiếng Việt, ngữ văn trong phần phụ lục.
Tại trang 40 ghi “Chương trình môn học được tổ chức theo bốn mạch tương ứng với
bốn kỹ năng giao tiếp, đọc viết, nói và nghe. Kiến thức tiếng Việt và văn học
không được biên soạn thành bài học riêng mà chỉ được dạy học như là công cụ bổ
trợ”.
Vậy
ở đây tiếng Việt và văn học có mạch kiến thức riêng hay không, hay chỉ có mạch
kỹ năng là đủ? Kỹ năng là hệ thống, còn tri thức là công cụ? Nếu thế thì học
sinh lấy đâu ra học vấn phổ thông nền tảng? Nêu thí dụ này để thấy việc xử lý
mối quan hệ giữa hệ thống tri thức và hệ thống năng lực cần có nhận thức thấy
đáo để chỉ đạo biên soạn chương trình môn học".
Giáo
sư Sử cũng cho rằng, trong hệ thống các năng lực đã cung cấp một hệ thống các
năng lực cần phải có, nhưng thiếu hẳn năng lực tự nhận thức về bản thân mình.
Thiếu năng lực này thì không thể nói đến năng lực tự trọng được.
“Ngoài
ra, trong các năng lực này còn thiếu năng lực thẩm mỹ, trước đây khi tôi nêu ra
thì được trả lời rằng đó là năng lực chuyên biệt. Tuy nhiên, tôi xin nói rằng
nhận thức đó là không đúng, bởi vì theo quan điểm mác xít thì năng lực thẩm mỹ
là năng lực phổ quát nhất. Con người làm mọi việc đều theo nguyên tắc của cái
đẹp, từ ăn mặc cá nhân cho đến phép ứng xử với mọi người xung quanh; từ vệ sinh
cá nhân đến vệ sinh chung đều theo nguyên tắc cán đẹp cả. Vậy tại sao lại hiểu
là năng lực chuyên biệt, chỉ nằm trong phạm vi hội họa, âm nhạc?”, GS Sử đặt
vấn đề
Tốt
hay xấu cốt ở người thầy
Phương
pháp dạy học không chỉ là phương pháp sư phạm nói chung mà còn là phương pháp
dạy học bộ môn. Theo GS. Trần Đình Sử, chương trình – sách giáo khoa tốt và có
chất lượng là một chuyện; còn năng lực quản lý, năng lực dạy học của giáo viên,
việc tổ chức kiểm tra đánh giá thực tế không khích lệ được học sinh lại là
chuyện khác.
GS.
Sử phân tích: Thời gian qua, chính do quản lý yếu kém cũng như lúng túng trong
phương pháp dạy học đã không chỉ hạn chế ưu thế của sách giáo khoa, mà còn gây
nhiều bức xúc cho xã hội như học thêm dạy thêm, bài thi theo lối học tủ, bài
học ghi theo lối đọc chép. Đó là yếu kém về phương pháp dạy học mà đến nay vẫn
chưa khắc phục được.
Theo
chương trình mới lại phải tích hợp các môn khoa học xã hội (Sử, Địa) thì phương
pháp dạy tích hợp này là mới hoàn toàn. Lại thêm giáo viên trước nay vẫn đào
tạo theo từng môn Sử, Địa tách biệt, chưa đào tạo các môn tích hợp, vậy lấy đâu
ra đội ngũ này?
GS
Sử đánh giá: “Vấn đề phương pháp dạy học vẫn cần được coi trọng, đó là điều mà
tôi thấy trong đề án, được xây dựng, coi như đã giải quyết xong rồi, không quan
tâm nữa. Thế nhưng thực tế không phải vậy. Ngay bộ môn ngữ văn, phương pháp dạy
tiếng Việt, dạy đọc hiểu cũng chưa có tiến triển gì nhiều, nếu phương pháp tốt
thì đã không tái mù, đã viết đúng chính tả và viết câu không sai ngữ pháp.
Người ta có thể thấy ẩn ý của đề án ở đây là cố tránh né vấn đề khó.
Nói
thẳng thắn, việc soạn chương trình – sách giáo khoa không quá khó, mà việc tạo
chuyển biến cho cả đội ngũ giáo viên đông đảo về phương pháp dạy học theo hướng
mới thì khó hơn rất nhiều. Vì thế cần phải nêu rõ thực trạng về phương pháp dạy
học và phương hướng giải quyết nó như thế nào, một khi toàn bộ chương trình đã
thay đổi, còn phương hướng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chưa thấy có gì đổi mới
cả”.
GS
Trần Đình Sử đề nghị đề án lấy tên là “Đề án đổi mới giáo dục phổ thông”, trong
đó có chương trình, sách giáo khoa và đổi mới quyết liệt phương pháp dạy học
cùng vấn đề đổi mới đào tạo giáo viên, quản lý giáo dục… thành hệ thống có tính
tổng thể.
“Tôi
chưa hiểu vì sao Chính phủ lại tách chương trình và sách giáo khoa ra thành một
đề án riêng, còn các vấn đề cơ bản quan trọng khác trong cuộc đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục phổ thông thì để cho đề án khác hay sao? Hay là để tới
sau năm 2020 mới làm? Như thế thì làm sao đồng bộ và đảm bảo được kết quả thực
hiện chương trình sách giáo khoa lần này? Nếu có thêm các đề án khác song song
thì sao không nêu ra để thấy sự đồng bộ?
Theo
tôi, Chính phủ nên nhìn vào mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục như
một bộ máy vận hành tổng thể để chỉ đạo dự thảo đề án, không nên coi chương
trình – sách giáo khoa như là khâu quan trọng nhất, vì như vậy dễ rơi vào phiến
diện. Việc thực hiện Nghị quyết 40/2000 đã làm như thế này rồi và thấy có nhiều
hạn chế, chẳng lẽ chúng ta lại đi vào vết xe cũ?”, GS Sử nói.
--------------------
29/09/14
07:43
No comments:
Post a Comment