Theo
Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 9-12-1998, Liên Hiệp Quốc thừa nhận
sự quan trọng của cuộc hợp tác quốc tế nhằm loại trừ hữu hiệu các vi phạm nhân
quyền và những quyền tự do cơ bản của các dân tộc và các cá nhân trong đó phải
kể đén những vi phạm tập thể, thô bạo và có hệ thống bắt nguồn từ sự kỳ thị
chủng tộc, từ chế độ thực dân, đô hộ hay chiếm đóng, sự gây hấn
hay đe dọa chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ do
sự phủ nhận quyền dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc và
các cá nhân được hành sử đầy đủ chủ quyền của họ đối với tài nguyên và
nguồn lợi thiên nhiên của đất nước.
BÌNH
GIẢI VỚI ÔNG TẬP CẬN BÌNH VỀ CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Mới
đây, các học giả trong Viện Nghiên Cứu Chính Sách Hoa Kỳ đã phê phán chính
sách bá quyền của Trung Quốc là Chính Sách Phát Xít Cổ Điển. (Bejiing
Embraces Classical Fascism).
Thay
vì tiếp thu chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng theo sự mong đợi của mọi người, giới
lãnh đạo Trung Quốc càng ngày càng trở nên giáo điều và bảo thủ. Cũng như tại Ý
Đại Lợi, 50 năm sau Cách Mạng Phát Xít, Mussolini đã chết nhưng Nhà Nước Ý vẫn
giữ chế độ độc tài và chủ yếu vẫn đàn áp chính trị. Để biện minh cho chế độ, họ
thường xuyên nêu lên quan hệ về sự vinh quang cổ xưa của “Dân Tộc Ý Vĩ Đại”. Từ
thế kỷ thứ nhất Đế Quốc La Mã đòi chủ quyền lãnh thổ toàn vùng Biển Địa Trung
Hải chạy từ Tây Âu (Tây Ban Nha) qua Tây Á (Thổ Nhĩ Kỳ). Họ gọi đó là biển lịch
sử hay Biển Của Chúng Tôi (Mare Nostrum, Our Sea).
Ngày
nay, phỏng theo Chủ Nghĩa Phát Xít Cổ Điển Ý, Bắc Kinh cũng đề xướng “Dân Tộc
Hán Vĩ Đại” nhằm phục hồi Đế Quốc Đại Hán
Chủ
trương cố hữu của Bắc Kinh được quy định như sau: Những lãnh thổ trước kia đã
được Trung Quốc chinh phục và khai hóa nay phải trả về cho (Trung Quốc) văn
minh chứ không thể thuộc về phe (Đế Quốc) dã man.
Trong
Chiến Tranh Biên Giới Ấn-Hoa năm 1962 Trung Quốc đòi chủ quyền vùng biên giới
Ấn Độ rộng 90 ngàn cây số vuông thuộc tiểu bang Arunachal Pradesh phía Đông
Bắc.
Chính
Sách Bá Quyền được phổ biến năm 1954 trong cuốn “Lược Sử Tân Trung Quốc” có
kèm theo bản đồ và lời tuyên bố của Mao Trạch Đông: “Tất cả các lãnh thổ và hải
đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe các Đế Quốc Tây
Phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế Chiến I, như Ngoại
Mông, Triều Tiên, “An Nam”, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Hồng
Kông, Macao, cùng những đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Ryukyu,
Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc”.
Hiện nay, tại vùng Biển
Đông Nam Á, rập theo tham vọng của Đế Quốc La Mã hồi thế kỷ
thứ nhất coi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử La Mã, Bắc Kinh cũng đưa ra
thuyết Biển Lịch Sử hay Đường Lưỡi Bò Chín Đoạn và coi đó là
mục tiêu chiến lược từ 1955, nhất là từ khi Trung Quốc ký Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển tại Montego Bay, Jamaica ngày 10-12-1982. Công Ứớc này đã
được phê chuẩn để có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
Tuy
nhiên thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đã lỗi thời. Nó đi trái những điều khoản của
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và đi trái Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án
Công Lý Quốc Tế The Hague.
Theo
Công Pháp Quốc Tế
Chiếu
Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải được
hưởng quy chế Thềm Lục Địa 200 hải lý (370km) để thăm dò và khai thác dầu khí.
Đây là chủ quyền chuyên biệt (sovereign exclusive right),
không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố minh
thị (occupation, exploration or assertion of right). Mọi sự tự tiện chiếm cứ
của ngoại bang dầu có võ trang hay không đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô
hiệu lực (các Điều 77 và 81).
Về
mặt địa lý, tại quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách Quảng Ngãi
135 hải lý, và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy quần
đảo Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa 200 hải lý của Việt Nam.
Về
mặt địa chất, các chuyên gia quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Armand
Krempf, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu, đo đạc và vẽ
bản đồ các hải đảo và đáy biển, đã lập phúc trình kết luận rằng: “Về mặt địa
chất, các đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam”. (Geologiquement
les Paracels font partie du Vietnam). Về địa hình đáy biển Hoàng Sa là một cao
nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp lục địa Việt Nam.
Vì
đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền kéo
dài ra ngoài biển nên
chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Việt Nam có triển vọng được
Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho mở rộng Thềm Lục Địa Pháp Lý
200 hải lý (370km) thành Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng có thể
đến 350 hải lý (650km).
Trong
khi đó từ Hoàng Sa về lục địa Trung Hoa có một rãnh biển sâu tới 2,300m. Như
vậy về mặt địa chất và địa hình đáy biển, Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự
nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Trong trường hợp này
Trung Hoa không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng. (Extended Continental
Shelf).
Tại Trường
Sa cũng vậy, tại Bãi Thanh Long Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, độ
sâu chỉ tới 400m, và tại đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200m. Như vậy về mặt địa
chất và địa hình đáy biển, cũng như Hoàng Sa, các đảo Trường Sa là sự
tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Theo
quan điểm của các Luật Sư Covington và Burling trong Bản Tường
Trình ngày 19-6-1995 gửi Chính Phủ Việt Nam, quần đảo Trường Sa có
triển vọng được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng đến mức tối đa 350 hải lý.
Trong
khi đó từ Trường Sa về bờ biển Quảng Đông có một rãnh biển sâu tới
4,550m. Như vậy các đảo Trường Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của
lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Và Trung Quốc không được hưởng quy
chế Thềm Lục Địa Mở Rộng 350 hải lý. Dầu sao, trong mọi trường hợp, khoảng cách
từ Hoa Lục tới đảo Trường Sa là 750 hải lý (quá xa tầm 350 hải lý Thềm
Lục Địa Mở Rộng nếu có).
Hơn
nữa, về mặt địa lý, Bãi Thanh Long Tứ Chính và đảo Trường Sa chỉ
cách lục địa Việt Nam từ 150 đến 220 hải lý. Trong khi đó quần đảo
Trường Sa cách lục địa Trung Hoa từ 550 đến 800 hải lý nên không nằm
trong thềm lục địa Trung Hoa.
Ngày
14-7-1995 nhân danh Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại California người viết
bài này đã gửi văn thư cho 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội Các Quốc Gia
Đông Nam Á (ASEAN) yêu cầu các quốc gia duyên hải Biển Đông Nam Á đưa
vụ tranh chấp ra trước Tòa Án Liên Hiệp Quốc về Luật Biển hay Tòa Án Công Lý
Quốc Tế The Hague để phân định chủ quyền các hải đảo và các vùng hải phận của
các quốc gia duyên hải. Đồng thời đổi danh xưng Biển Nam Hoa thành
Biển Đông Nam Á. Vì Biển Nam Hoa có thể được giải thích sai lầm là biển của
nước Trung Hoa về phía nam.
Trong
Bản Tường Trình nạp tại Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc ngày 11-
5-2009, Chính Phủ Bắc Kinh cố tình đề cập đến hải phận trên
bản đồ Đường Lưỡi Bò Chín Đoạn mà họ gọi là Biển Lịch Sử. Chứ không vẽ Thềm Lục
Địa Mở Rộng theo các tiêu chuẩn luật định về khoa học và kỹ thuật như Quy Chế
Liên Hiệp Quốc đòi hỏi. Do đó Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa đã bác bỏ không cứu
xét đơn thỉnh nguyện năm 2009 của Bắc Kinh.
Lưỡi
Rồng Trung Quốc
Lưỡi
Rồng Trung Quốc (mà dân gian gọi là Lưỡi Bò) chiếm 80% hải phận
Biển Đông Nam Á. Nó nằm sát bờ biển các quốc gia duyên hải, chỉ cách Quảng
Ngãi 40 hải lý, và cách Phi Luật Tân và Mã Lai 25 hải lý.
Như vậy nó tước đoạt ít nhất 160 hải lý của Thềm Lục Địa Việt Nam, và 175
hải lý của các Thềm Lục Địa Phi Luật Tân và Mã Lai. Đây hiển nhiên là sự
vi phạm thô bạo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển dành chủ quyền chuyên biệt
cho các quốc gia duyên hải như Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai được hưởng
tối thiểu 200 hải lý Thềm Lục Địa Pháp Lý để thăm dò và khai thác dầu khí.
Theo
Học Giả Mark J. Valencia tại Viện Hải Học Đông Tây Hawaii (East-West Institute) yêu sách
của Trung Quốc về Biển Lịch Sử không được Luật Pháp và Tòa Án chấp nhận.
Ngày nay càng ngày dư luận quốc tế càng phê phán và chế giễu Lưỡi Rồng Trung
Quốc là khôi hài và lố bịch (China’s claim is being
increasingly criticized and even ridiculed: China and the South China Sea
Disputes, Mark J. Valencia, Oxford University Press. October 1995).
Mặc
dầu vậy, từ 1955, để phục hồi Chủ Nghĩa Bá Quyền, Bắc Kinh lại nêu lên
thuyết Biển Lịch Sử để đòi chủ quyền lãnh thổ tại vùng hải phận và các
hải đảo Hoàng Sa Trường Sa. Họ cho đó là một vấn đề “bất khả tranh nghị”.
Về
điểm này chúng ta nhắn nhủ nhà cầm quyền Bắc Kinh rằng: Trong thế kỷ
này và dưới vòm trời này, không có điều gì, việc gì, hay vấn đề gì là bất khả
tranh nghị! Về mặt tinh thần, văn hóa, pháp lý và đạo lý, Trung Quốc không
thể nói một đàng làm một nẻo. Họ phải tôn trọng danh dự quốc gia
và chữ ký của họ trong các Công Ước Quốc Tế. Họ phải chấp nhận công
khai hóa vụ tranh chấp và phải đưa ra trước thanh thiên bạch nhật những tài
liệu và quan điểm cho biết tại sao và căn cứ vào đâu mà đòi tước đoạt chủ quyền
lãnh thổ của các quốc gia Đông Nam Á tại các thềm lục địa như đã quy định trong
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc đã ký kết tham gia
với tư cách một trong Ngũ Cường hội viên thường trực Hội Đồng Bảo An? Nếu không
đưa ra sự giải thích hợp lý và các cơ sở pháp lý thì Trung Quốc vẫn chỉ là kẻ
sử dụng Luật Rừng Xanh Mạnh Được Yếu Thua. Để tước đoạt 4/5 Thềm Lục
Địa Pháp Lý của Việt Nam, đồng thời tước đoạt 7/8 Thềm Lục
Địa Pháp Lý của Phi Luật Tân và Mã Lai.
Hơn
nữa, chiếu các Điều 77 và 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, chủ
quyền của các quốc gia duyên hải tại Thềm Lục Địa có tính tuyệt
đối và chuyên biệt. Bất cứ sự xâm phạm nào của ngoại bang dầu là
xâm chiếm võ trang hay không võ trang cũng đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô
hiệu lực. Cũng như việc Nhật Bản đã chiếm cứ bất hợp pháp các hải đảo và
hải phận tại Hoàng Sa và Trường Sa thời Thế Chiến II từ 1938 đến 1945.
Chắc
hẳn Trung Quốc cũng hay biết rằng Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển 1982 là một văn kiện chính sửmà
các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc đã ký kết có nghĩa vụ phải tôn trọng và
thực thi.
Ngoài
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, còn có rất nhiều tài liệu lịch sử
rút ra từ chính sử Trung Quốc theo đó chủ quyền của Việt Nam tại các hải đảo
Hoàng Sa Trường Sa đã được thừa nhận bởi các quốc gia trên thế giớikể cả
Trung Quốc.
Tuyên
Cáo Cairo 1943
Trong
khi Thế Chiến II còn đang tiếp diễn, năm 1943, ba cường quốc đồng minh đại diện
bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung
Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đã ký Tuyên
Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó có đoạn như sau:
“Đối
tượng của các quốc gia đồng minh là tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các
lãnh thổ và hải đảo tại Thái Bình Dương mà Nhật đã cưỡng chiếm từ khi khởi sự
Thế Chiến I. Tất cả các lãnh thổ và hải đảo mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của nhân
dân Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ phải giao
hoàn cho Trung Hoa Dân Quốc”. Điều đáng lưu ý là, tại Hội Nghị Cairo Tổng Thống
Tưởng Giới Thạch không đòi Hoàng Sa và Trường Sa. Và như
vậy đã khước từ chủ quyền tại hai quần đảo này. (U. N. Treaty
Series, American Policy 1950-1955)
Theo
công pháp quốc tế Tuyên Cáo Cairo 1943 là một hiệp ước quốc tế tạo nên những
nghĩa vụ quốc tế áp dụng cho các quốc gia liên hệ. Nó có hiệu lực cưỡng hành
đối với Trung Quốc, dầu là Trung Hoa Dân Quốc hay Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc là quốc gia kế thừa chủ quyền. Đặc biệt là, trong hiện
vụ, ngày 4-12-1950, Chu Ân Lai, lúc này là ngoại
trưởng, cũng đã tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo 1943 là văn
kiện lịch sử quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đã ký kết để làm căn bản
cho Hòa Ước với Nhật Bản (Hòa Ước San Francisco ngày 8-9-1951). (Chou En Lai’s
Statement on the Peace Treaty with Japan. People’s China, 12-16-1950).
Hội
Nghị Hòa Bình San Francisco 1951
Năm
1951, 51 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị để ký Hòa Ước Cựu Kim Sơn ngày
8-9-1951. Mục đích để chấm dứt tình trạng chiến tranh, phục hồi và tái thiết
Nhật Bản nhằm xây dựng hòa bình thế giới trong tinh thần hòa giải, hợp tác và
hữu nghị theo tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Ngày
12-7-1951 Ban Tổ Chức Hội Nghị San Francisco phổ biến bản Dự Thảo Hòa Ước trong
đó Điều 2 về Lãnh Thổ (Territory) đề cập đến những vấn đề chủ yếu như sau:
- Nhật Bản khước từ chủ quyền tại đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ [để giao hoàn cho Trung Quốc].
- Nhật Bản khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [để giao hoàn cho Việt Nam].
Đây
là một quyết định hợp lý.
Ngày
5-9-1951, trong phiên Khoáng Đại thứ 5, Ngoại Trưởng Liên Sô Andrei Gromyko đệ
trình Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây
Sa và Nam Sa) cho Trung Quốc. Tuy nhiên Tu Chính Án này đã bị Hội Nghị
bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng.
Ngày
7-9-1951, trong phiên Khoáng Đại thứ 7, Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng
Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn công
bố chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và không gặp
sự phản kháng nào của 50 quốc gia tham dự Hội Nghị (kể cả Liên Xô).
Với
sự công bố chủ quyền của Việt Nam về Hoàng Sa Trường Sa trước 50 quốc gia hội
viên Liên Hiệp Quốc tham dự Hội Nghị San Francisco 1951, chúng ta khẳng định
rằng: Từ 1951 các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia
trên thế giới thừa nhận thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, chứ không
thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Hiệp
Định Geneva 1954
Tháng
7-1954, để giải quyết Chiến Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva được triệu
tập với sự tham dự của 9 quốc gia gồm Ngũ Cường Mỹ, Anh,
Pháp, Liên Xô và Trung Quốc, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước Việt
Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc).
Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa, đã minh thị xác nhận chủ quyền của
Việt Nam Cộng Hòa (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Thật
vậy Điều 4 Hiệp Định Geneva 1954 quy định như sau:
“Giới
tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài
ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển
“Lực
lượng Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và đồng minh) phải rút
khỏi tất cả các hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17).
“Quân
đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các hải đảo phía Nam giới
tuyến” (Vĩ
Tuyến 17) nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (từ Vĩ Tuyến 17 đến
Vĩ Tuyến 7, từ Quảng Trị xuống Nam Cà Mau). .Do đó chiếu Hiệp Định Geneva
1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam
Cộng Hòa. (Từ 1955 Quốc Gia Việt Nam thay đổi chính thể và lấy quốc hiệu là
Việt Nam Cộng Hòa).
Vì
Bắc Việt không có chủ quyền lãnh thổ từ Vĩ Tuyến 17 vào Nam, nên không có tư
cách để chuyển nhượng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Quốc. Hậu quả là Công
Hàm Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai ngày 14-9-1958 không có giá trị và không có
hiệu lực pháp lý. Theo Điều 12 Tuyên Cáo ngày 21-7-1954 “Trong quan
hệ với Việt Nam, các quốc gia tham dự Hội Nghi Geneva 1954 cam kết tôn trọng
nền độc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Vì
Chu Ân Lai đã hướng dẫn phái đoàn tham dự Hội Nghị Geneva 1954 nên không thể
quên Điều 12 Tuyên Cáo nói trên.
Căn
cứ vào những tài liệu lịch sử nói trên, Trung Quốc đã ý thức sự yếu kém
của họ về cả ba mặt pháp lý, địa lý và lịch sử. Do đó họ không bao giờ
dám công khai thảo luận về vấn đề tranh chấp chủ quyền các hải đảo và hải phận
tại Biển Đông Hải. Họ thường tránh né và cho đó là một vấn đề bất khả
tranh nghị. Lý do là vì họ không có tài liệu hay lý lẽ gì để đưa ra
tranh nghị công khai dưới thanh thiên bạch nhật trong tinh thần chính đại quang
minh. Tất cả lý lẽ và lập trường của Trung Quốc chỉ thu gọn trong câu: “Biển
Nam Hoa là Biển Lịch Sử của Trung Quốc”. Theo các luật gia và chuyên
viên hải học trên thế giới, thuyết Biển Lịch Sử của Đế Quốc Đại Hán đã lỗi thời
và lạc hậu.
Kể
từ 1982, vấn đề Biển Lịch Sử đã được giải quyết chung thẩm bởi Điều 8
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển:
“Tòa
Án Quốc Tế The Hague định nghĩa Biển Lịch Sử là Nội Hải, nghĩa
là vùng biển tọa lạc trên đất liền về phía bên trong đường cơ sở (ranh giới)
của Biển Lãnh Thổ (12 hải lỷ). Theo Tòa Án Quốc Tế: “Biển Lịch Sử hay nội
hải của một quốc gia nằm bên trong đất liền về phía bên trong đường cơ sở của
biển lãnh thổ”. (The International Court of Justice has defined
“historic waters” as “internal water” (Fisherys cases UK vs. Norway, 1951, I.
C. J. 116, 130); “Waters on the landward side of the baseline of the
territorial sea form part of the internal water of the State” (Art. 8 LOS
Convention 1982). Vì vậy Biển Nam Hoa chỉ được coi là ngoại hải, chạy
từ bờ biển Trung Hoa đến bờ biển Nam Dương, và rộng tới 2000 cây số. Lẽ
dĩ nhiên nó không phải là Biển Lịch Sử hay Thềm Lục Địa của Trung Hoa.
Đổi
Mới hay Chiến Thuật Giai Đoạn?
Một
vấn đề thời sự đáng lưu ý là ngày 14-12-2012 Trung Quốc đệ nạp Liên Hiệp Quốc
hồ sơ đăng ký chủ quyền tại Đông Trung Quốc Hải (Biển Hoa Đông) nhân vụ tranh
chấp chủ quyền các hải đảo Điếu Ngư (Diaoyu) hay Senkaku tiếp giáp Okinawa của
Nhật Bản.
Trong
vụ này Bắc Kinh cũng viện dẫn Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển đòi chủ quyền lãnh thổ Điếu Ngư vì cho rằng đảo này tọa lạc
trong Thềm Lục Địa 200 hải lý tại Biển Hoa Đông. Điểm đặc biệt là trong suốt
thời gian 3 thập niên (từ tháng 12-1982 khi Trung Quốc ký Công Ước đến tháng
12-2012 khi đăng ký chủ quyền hải đảo Điếu Ngư) chưa bao giờ Trung Quốc thừa
nhận, tôn trọng hay thi hành Công Ước.
Với
sự chấp chính của Tập Cận Bình, tự nhận là đại diện cho phe đổi mới và trọng
pháp, những người am tường sách lược Cộng Sản vẫn hoài nghi cho rằng Trung Quốc
phát động mặt trận pháp lý như một mục tiêu lạc hướng nhằm xoa
dịu những bất mãn của quần chúng và những khó khăn nan giải của chế độ.
Trong
trường hợp Bắc Kinh yêu cầu Liên Hiệp Quốc áp dụng Điều 76 Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển cho vụ tranh chấp tại các đảo Điếu Ngư trong Biển Đông Trung
Hoa thì họ cũng phải tôn trọng và áp dụng Điều 76 Luật Biển cho các Quần Đảo
Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông Nam Á.
Và
Như Vậy Là Công Lý.
LS
Nguyễn Hữu Thống
ỦY
BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN
No comments:
Post a Comment