Wednesday, February 29, 2012

NHÌN VỀ TRUNG QUỐC [Kỳ 1 & 2] - (Phạm Hy Sơn)



Phạm Hy Sơn
26-2-2012

Lời nói đầu: Từ khi ông Đặng Tiểu Bình đảo ngược chủ thuyết kinh tế Cộng sản để mời gọi tư bản vào đầu tư năm 1989, nước Trung Hoa đã phát triển và trở thành nền kinh tế có tổng sản lượng quốc gia (GDP) đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Nhưng dù thất bại nặng nề trong việc áp dụng 40 năm chủ nghĩa Cộng sản tại Trung Hoa (1949 – 1979), Đảng Cộng sản còn ngự trị với bao nhiêu quyền hành, đặc quyền, đặc lợi. Chủ quyền quốc gia và quyền sống của người dân vẫn do Đảng Cộng sản nắm chặt không khác gì dưới thời Mao Trạch Đông. Người dân không thể hiện được quyền làn chủ đất nước và làm chủ cuộc sống của mình, có nghĩa vẫn bị đàn áp, vẫn bị nghèo khổ vì nông dân thì bị cướp đoạt ruộng đất, công nhân thì bị bóc lột công sức, cùng với nạn tham ô, cường hào ác bá trải rộng khắp nước từ Trung ương tới địa phương.
Đã có những đòi hỏi hay kiến nghị cải cách chế độ nhưng đều bị đàn áp, bác bỏ. Cách nay hơn một năm, Trung tướng Lưu Á Châu, giáo sư Viện Đại học Quân sự, con rể cựu Thủ Tướng Lý Tiên Niệm đã cảnh cáo nếu chế độ không được thay đổi thì chỉ trong vòng 10 năm nữa sẽ sụp đổ.
Có thể ông đã tiên đoán sai về thời gian, vì những tháng gần đây giai cấp công, nông nổi lên liên tiếp, không phải chỉ vài chục, vài trăm người mà hàng chục ngàn người ở cảng Đại Liên ngày 14-8-2011; không phải chỉ đòi hỏi quyền lợi hay khiếu nại mà còn giương cao biểu ngữ đòi “Giết chết bọn quan chức tham ô”, “Đả đảo chế độ độc tài”, “Nợ máu phải trả bằng máu” (Huyết trái, huyết hoàn), lật đổ chính quyền cũ, lập chính quyền mới ở xã Ô Khảm, tỉnh Quảng Đông mới đây. Những tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản như Nhật báo Nhân Dân, Thời báo Hoàn Cầu (Global Times) không còn có thể im tiếng nữa mà thảng thốt la lên: “Tín nhiệm dành cho giới lãnh đạo Đảng bị lật nhào” (Global Times 25-9-2011), “Dân chúng càng ngày càng bất mãn với chính phủ” (Nhật báo Nhân Dân 03-11-2011). Nhiều học giả và các giáo sư Đại học chuyên nghiên cứu về Trung Quốc tiên đoán có thể nước này sẽ gặp đại loạn trong thời gian sắp tới.
Để có một cái nhìn tổng quát hơn về những diễn biến có thể sẽ xẩy ra, chúng ta cùng lướt qua về bối cảnh xa xưa của đất nước có 1.300 triệu dân với nền văn hóa lâu đời này, tiếp đến là nói về Mao Trạch Đông và nội tình Trung Quốc hiện nay.

--------------------------

I – Trung Quốc ngày xưa: Khổng Tử

Dân tộc Trung Hoa khởi đầu sinh sống ở phía Tây Bắc Hoàng Hà rồi dần bành trướng về phía Đông xuống phần hạ lưu và phía Nam con sông này. Đầu óc phong kiến đã sớm phát triển rất mạnh trong con người Trung Hoa. Vì thế mà nạn tranh giành quyền lực liên tục xẩy ra làm cho người dân vô cùng lầm than vì bị các lãnh chúa đè nén, bóc lột qua sưu cao, thuế nặng và nhân lực để phục vụ chiến tranh do họ gây ra. Đất nước Trung Hoa có những giai đoạn suy tàn vì chiến tranh nên bị các nước nhỏ xung quanh như Kim, Mông, Mãn… xâm chiếm và đô hộ. Vào đầu đời nhà Chu – Tây Chu (1.135-770 trước Tây lịch), chư hầu có tới 3.000 nước. Những đám phong kiến này luôn tranh chiếm tiêu diệt lẫn nhau và vào thời Đông Chu còn khoảng vài trăm nước. Thời Chiến quốc còn lại thất hùng gồm Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Tần, Sở, Yên. Nước nào cũng nhân danh nhà Chu (như thời Trịnh, Nguyễn của Việt Nam nhân danh nhà Lê) để gây chiến với nước khác. Cuối cùng thì Tần, với Tần Thủy Hoàng, toàn thắng vào năm 221 (trước Tây lịch) lập ra nhà Tần. Đây là lần đầu tiên Trung Hoa được thống nhất sau hàng ngàn năm chinh chiến, nhưng nhà Tần chỉ kéo dài được 15 năm. Hạng Võ diệt được Tần thì lại có cuộc tranh hùng với Lưu Bang. Lưu Bang thắng Hạng Võ lập ra nhà Hán tương đối ổn định được hơn 300 năm thì xảy ra loạn Hoàng Cân, tức giặc Khăn Vàng, đưa nước Tàu đến loạn Tam quốc (Ngụy, Thục, Ngô) với ba nhân vật nổi tiếng là Tào Tháo, Khổng Minh, Ngô Quyền quyết sống chết với nhau hơn 40 mươi năm trời. Tư Mã Ý từ Ngụy diệt được Thục, Ngô lập ra nhà Tấn (năm 265 sau Tây lịch) cũng chỉ ổn định được hơn 50 năm lại xảy ra loạn Ngũ Hồ gồm 16 nước chiến tranh liên miên và với những cuộc thay bậc đổi ngôi trong khoảng 300 năm cho đến năm 618 (sau Tây lịch) Lý Uyên chiến ngôi nhà Tùy lập ra nhà Đường….
Đầu óc phong kiến, đã có từ mấy ngàn năm, ăn sâu vào xương tủy người Trung Hoa nên luôn luôn xảy ra chiến tranh giữa những lãnh chúa khi họ nắm quyền trong tay. Thời cận đại và hiện nay, dù thế giới đã tiến tới thời đại dân chủ, đầu óc phong kiến của người Trung Hoa hình như lại càng tăng chứ không giản. Mao Trạch Đông và chế độ cộng sản sẽ được nói đến sau. Cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 mệnh danh là cách mạng dân chủ lập ra Trung Hoa Dân Quốc và tôn Tôn Dật Tiên lên hàng quốc phụ, thực chất chỉ là lập ra một chế độ phong kiến mới. Quốc Dân Đảng chưa làm chủ hoàn toàn đã chia làm hai: phe Vũ Hán ủng hộ Lê Nguyên Hồng; phe Nam Kinh, Thượng Hải ủng hộ Tôn Dật Tiên; chưa hết, tiếp theo là cuộc tranh quyền giữa Quốc Dân Đảng và Viên Thế Khải, một người có mộng lên ngôi hoàng đế Trung Hoa!
Đầu óc phong kiến của Tôn Dật Tiên cũng không kém! Khi làm Tổng thống lâm thời ông đã bổ quá nhiều người tỉnh Quảng Đông vào chính phủ. Gia đình bên vợ ông lũng đoạn nền kinh tế quốc gia, sáu người con trong gia đình Tống Giáo Nhân người nào cũng là triệu phú Mỹ kim thời ấy (bây giờ là tỷ phú). Tiêu biểu là Tống Tử Văn từng là Tổng thủ quỹ Hỏa Xa, Bộ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Ngoại giao…; Tưởng Giới Thạch, em rể, người kế vị ông là một người có đời sống xa hoa. Khi Tưởng Giới Thạch của Quốc Dân Đảng bị Mao đánh bại phải chạy qua Đài Loan năm 1949 thì đầu óc phong kiến của Tưởng nổi bật không thế chối cãi: Tưởng Giới Thạch làm Tổng thống suốt đời trên đảo quốc này và trước khi nhắm mắt truyền ngôi cho con trai là Tưởng Kinh Quốc. Chỉ sau khi Tưởng Kinh Quốc chết, Đài Loan mới mang màu sắc dân chủ, chứ chưa thực sự là dân chủ, vì cứ Tổng thống sau tìm cách bỏ tù Tổng thống trước. Năm 2009, cựu Tổng thống Trần Thủy Biển bị kết án 17 năm tù vì tham nhũng, rửa tiền và gian lận; ngày 30-6-2011 đến lượt cựu Tổng thống Lý Đăng Huy bị truy tố và kết án tù vì biển thủ hơn 5 tỷ euro (hơn 7 tỷ USD). Ông trước ông sau, dù ai phải ai trái, cũng biểu lộ đầu óc phong kiến hoặc là coi quốc gia thuộc quyền sở hữu của mình nên tha hồ vơ vét, hoặc là một hình thức thanh toán nhau để tranh giành quyền lực!
Nhìn xa hơn sang hòn đảo nhỏ bé xa xôi Singapore, nơi đây so với Đại Lục chẳng đáng gì về dân số, chỉ có một nhúm người Trung Hoa sinh sống (khoảng 3,5 triệu năm 2007) và bị Anh đô hộ 150 năm. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính, tất nhiên phải chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương, nhất là giới có học thức, nhưng đầu óc phong kiến vẫn tồn tại trong tiềm thức của họ, chờ có dịp là trỗi dậy.
Singapore độc lập năm 1965, lãnh tụ là Lý Quang Diệu tốt nghiệp Đại học Cambridge tại nước Anh lên làm Thủ Tướng từ đó đến 1990 (25 năm). Trong thời gian này, những lãnh tụ đối lập bị Lý dùng tòa án đàn áp đến thân tàn ma dại: bản thân đi tù, toàn bộ tài sản bị tịch thu để bồi thường danh dự cho ông ta vì tội công kích Lý khi tranh cử hoặc có những lời tố cáo chế độ. Hoa Lục hiện áp dụng triệt để phương sách này đối với nghệ sĩ Ngải Vị Vị và những người hoạt động đấu tranh cho dân chủ. Năm 1990 Ngô Tác Đống (Goh Chok Tong) lên thay, làm chỗ đệm cho dòng họ Lý. Năm 2004 “Thái tử” Lý Hiển Long chính thức lên ngôi nối nghiệp cha cho đến nay là 8 năm. Lý Quang Diệu chỉ rời khỏi nội các của chính quyền Singapore ngày 14-5-201 sau khi cuộc Cách Mạng Hoa Lài hay Mùa Xuân Ả Rập đã lật đổ hai nhà độc tài lâu năm ở Tunisia và Ai Cập và những chế độ độc tài khác ở Lybia, Syria, Yemen… đang lung lay. Trên thực tế, Lý Quang Diệu cai trị Singapore 46 năm (1965-2011), hết làm Thủ tướng thì làm Bộ trưởng Cao cấp trong nội các. Có thể nói chế độ Lý Quang Diệu là chế độ gia đình trị vì ông ta, vợ ông ta, 3 người em trai, 2 người con trai, 1 con gái đều nắm những chức vụ quan trọng trong chính quyền hay làm chủ những đại công ty ở Singapore! Như vậy dù đi đến đâu, đầu óc thống trị, phong kiến của người Trung Hoa cũng không thay đổi.
Những nhà Nho, với sự tán đồng của các vua chúa đã tôn Khổng Tử là đấng “Vạn thế sư biểu” (ông thầy vạn đời) vì có lợi cho cả hai: một đằng là con đường tiến thân đem lại quyền hành, danh lợi; một đằng dùng chủ thuyết của Khổng Tử mê hoặc dân chúng để thống trị muôn đời! Thực ra thuyết tôn quân có trước Khổng Tử hàng ngàn năm, từ thời Tây Chu đặc biệt với Chu Công Đán (Chu Công) là con thứ của Chu Văn Vương đã đúc kết kinh nghiệm trị nước các triều đại trước thành một học thuyết chính trị rất có lợi cho vua chúa (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, trang 476). Khổng Tử chỉ là người san định, giải thích, bổ khuyết và sắp xếp thành hệ thống chặt chẽ thôi.
Bất cứ học thuyết chính trị hay chế độ độc tài nào, người ta cũng đều đề cao nhân nghĩa, đạo đức để che đậy những điều khắc nghiệt, tàn ác ẩn giấu bên trong. Thuyết Đại Đông Á của Nhật đề cao sự hùng mạnh, thịnh vượng cho các nước vùng Đông Nam Á để lối kéo những dân tộc Đông, Nam châu Á đang bị thực dân phương Tây đô hộ hồi đầu thế kỷ 20; thuyết dân tộc chủ nghĩa của Hitler đề cao huyết tộc Đức…. Khổng Tử đề cao cái Đức lớn của vua chúa, lấy Đức trị dân, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà hành xử trong thiên hạ tạo nên “tứ hải giai huynh đệ”, nghĩa là muôn dân trên thế giới nhờ cái đức lớn của thiên tử trở thành anh em “bốn bể một nhà” thân ái!
Cạo bỏ lớp sơn hào nhoáng bên ngoài đó,trên thực tế con người dưới học thuyết Khổng Tử – trừ vua chúa và quan lại – đều là tôi mọi và nô lệ vì ông vua là con trời (Thiên tử) có toàn quyền cai trị muôn dân. Vua bảo chết phải chết, không chết là bất trung (quân sử thần tử, thần bất tử bất trung); những hình phạt như xẻo thịt (lăng trì), tứ mã phanh thây, voi giày, vứt vào vạc dầu sôi, tru di tam tộc… dành cho tội khi quân hay nổi loạn chống vua! Những bậc quân tử, tức những người theo Nho học đỗ đạt ra làm quan là cha mẹ, dân là con cái (dân chi phụ mẫu). Họ thuộc giai cấp sĩ, giai cấp cao quý nhất, dân chúng còn lại tất cả đều là tiểu nhân. Theo lệnh Thiên tử, họ thống trị 3 giai cấp dưới trong xã hội Trung Hoa là nông, công, thương. Người dân, dưới mắt Khổng Tử là đám ti tiện, khó dạy, trộm cướp, bất nhân. Người quân tử không muốn ở chung với bọn chuyên làm tội ác đó. Khổng Tử ví người quân tử như gió, gió thổi tới đâu cỏ rạp tới đó (người quân tử như gió, kẻ tiểu nhân như cỏ). Người quân tử, theo Nho học, phải tu thân để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, nghĩa là làm một kẻ thống trị. Trong gia đình thì thống trị vợ con, trong quốc gia thì thống trị dân chúng, trên thế giới thì thống trị những dân tộc khác. Nên chúng ta không lạ gì nước Tàu không mấy khi được thống nhất dù là theo thuyết tôn quân vì đầu óc phong kiến nên người nào cũng muốn tề gia, trị quốc cả. Khi được thống nhất thì phần lớn lại do các bạo chúa như Tần Thủy Hoàng hay Mao Trạch Đông thực hiện bằng những biện pháp tàn ác, sắt máu. Đối với những nước khác, khi nước Tàu đã trở nên cường thịnh thì đem quân đi xâm lăng, đó là chủ thuyết “bình thiên hạ” của Khổng Tử.
Một hạng người nữa bị nhà nho miệt thị là phụ nữ. Phụ nữ bị xếp ngang hàng với bọn tiểu nhân: “Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán. Luận Ngữ, Dương Hóa” (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, trang 483). Các triều đại vua chúa thời Nho giáo coi người phụ nữ không có tư cách pháp nhân, họ bị giám sát chặt chẽ như một đứa trẻ con: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà phục tùng cha, lấy chồng phục tùng chồng, chồng chết phục tùng con trai). Họ không có quyền về tài sản, tất cả tài sản họ kiếm được và con cái do họ sanh ra đều thuộc quyền người chồng. Kể cả bản thân họ người chồng có thể cho, bán, sang nhượng cho người khác khi cần. Chúng ta đang nói về tương quan giữa người chồng và người vợ Trung Hoa, riêng những người đàn bà bị mua về làm nàng hầu, thê thiếp thì bị xếp vào hàng súc vật.
Câu nói nổi tiếng nhất của Khổng Tử khi nói về phụ nữ: “Nữ nhân nan hóa” (đàn bà khó dạy). Văn hào Trung Hoa, Lỗ Tấn hỏi lại rằng Khổng Tử có nói câu đó với mẹ ông không? Theo Khổng Tử, phụ nữ chỉ là hạng người phục vụ cho đàn ông với tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh), phải lo trau chuốt để làm vừa lòng chồng. (Đàn bà ở nông thôn, những người nghèo khó (chiếm tới 98%, 99% phụ nữ Trung Hoa) đầu tắt mặt tối chưa đủ ăn lấy tiền đâu mua son phấn? Thì giờ đâu mà thêu thùa? Nên những lời dạy này của Khổng Tử chỉ áp dụng cho một số nhỏ phụ nữ thuộc giới vua chúa, quan quyền thôi). Cao điểm của học thuyết này là người đàn bà bị bó chân từ lúc 6,7 tuổi để hiến thân cho vua, chúa và những kẻ quyền thế khi đã khôn lớn! Nhân, Nghĩa, Đạo Đức… chỉ là chiêu bài cho một chủ thuyết bất nhân, chuyên thống trị con người.
Nhà văn Trung Hoa Cao Hành Kiện, đoạt giải Nobel văn chương năm 2.000, nhận xét: “Khổng giáo phát triển qua các triều đại, xây dựng lên hệ thống đạo đức trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Thế nên Khổng giáo là để phục vụ cho quyền lực, nó là một hệ thống được tận dụng để hậu thuẫn cho quyền lực. Nếu chúng ta vứt bỏ quyền lực này đi, Khổng giáo chẳng còn gì ngoài lý thuyết.” (Web site BBC ngày 8 tháng 1 năm 2010).
Nhận xét trên tưởng còn nhẹ.
Trong truyện ngắn Nhật ký người điên, văn hào Lỗ Tấn gọi nhà Nho là lũ ăn thịt người. Ông viết: “Ta mở sử ra tra – pho sử này không ghi năm tháng, trang nào cũng thấy vẹo vẹo, xiêu xiêu mấy chữ: nhân, nghĩa, đạo, đức. Ta không sao ngủ được, tỉ mỉ đọc đến nửa đêm, mới nhận thấy giữa các khe chữ, nhan nhản toàn thị hai chữ “ăn người”, và: “Đã có thể đổi con mà ăn được, thì gì cũng đổi được hết. Trước kia ta chỉ nghe ngài giảng đạo lý, thì ta cũng à uôm, ỡm ờ bỏ qua; bây giờ mới biết, ra lúc ngài giảng giải, chẳng những mép ngài nhờn mỡ người, mà lòng ngài cũng đầy ý muốn xơi người”! (Lỗ Tấn, Tuyển tập, Giản Chi dịch, Nhà xuất bản Tổng Hợp Hậu Giang 1987, trang 17, 18).
Tóm lại, mục đích chính của đạo Khổng là tạo ra một tầng lớp cai trị với đầu óc tự tôn, đặc quyền, đặc lợi và tạo ra mặc cảm thấp hèn cho những kẻ bị trị để làm tê liệt đầu óc chống đối của họ.
P. H. S.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

*
*

Phạm Hy Sơn
27-2-2012

II – Trung Quốc ngày nay: Mao Trạch Đông (1883 – 1976)

Người dân Trung Hoa bị phong kiến gồm vua chúa kết hợp với giai tầng quan quyền của đạo Khổng trấn áp, thống trị về thể chất bằng quyền lực – chém giết tù tội, và về tinh thần bằng cách dùng Nho giáo để mê hoặc, ru ngủ trong khoảng hơn 2.000 năm. Bị thống trị như vậy, để sống còn người dân chỉ có cách vâng phục và tìm cách lo lót cho những người có quyền thế nên kẻ giàu càng ngày càng giàu thêm, kẻ nghèo càng ngày càng nghèo đi. Ở nông thôn, ngoài sự tuân phục, phục dịch quan quyền còn bị những kẻ có quyền thế ở địa phương bóc lột, chèn ép. Quan tha ma bắt, ruộng đất dần dần thu gom vào một số người giàu có hay thần thế. Những nông dân nghèo có vài ba sào ruộng bình thường đã không đủ ăn, khi ốm đau, bệnh tật, tang ma đành đem bán hoặc cấm cố cho nhà giàu. Tay không, vào ngày mùa đi làm thuê kiếm miếng ăn nhưng khi mùa màng hết, công việc không có, nhiều người xin đi làm cả ngày chỉ được trả công bằng một bữa ăn trưa!
Đó là thực trạng xã hội Trung Hoa thời tiền Cộng sản vào đầu thế kỷ 20. Sự chênh lệch giàu – nghèo và tệ nạn tham ô, hối lộ… làm thối rữa xã hội Trung Hoa, tạo môi trường rất thích hợp để chủ nghĩa Cộng sản nảy nở, lớn mạnh thay vì phát triển ở những xứ công nghệ Âu, Mỹ như Marx tiên đoán và hy vọng.
Mao Trạch Đông, con một nông dân làm nghề buôn heo, sinh ngày 26-12-1883 tại thôn Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, nắm lấy cơ hội, đã cùng các đồng chí tuyên truyền chủ nghĩa Marx với những hứa hẹn lật đổ chế độ phong kiến áp bức bóc lột, diệt trừ cường hào ác bá ở nông thôn, tịch thu ruộng đất của địa chủ để chia cho nông dân, mọi người đều tự do, bình đẳng, bình quyền, giải phóng phụ nữ, nam – nữ bình quyền…. Chủ nghĩa Marx (sau này cải biến thành chủ nghĩa Mao tàn khốc hơn nhiều) như nguồn nước cứu tinh đổ vào cái xã hội đang khao khát tự do, khao khát có miếng ruộng cày vì bị bóc lột, đàn áp, miệt thị và nghèo đói triền miên. Nông dân Trung Hoa vào những năm 1920 chiếm đến 98, 99% và hầu hết ở nông thôn đã nhanh chóng ùa theo Cộng sản nên chỉ mấy năm sau khi Đảng Cộng sản được thành lập (1921), Mao phát động chiến tranh du kích, lấy nông thôn bao vây thành thị.
Sau hơn 20 năm lao vào máu lửa, năm 1949 Mao thắng Tưởng Giới Thạch làm chủ hoàn toàn Lục Địa, đồng thời cũng là một đại đế mới hoàn toàn thống trị Trung Hoa. Có thể nói kể từ ngày lập quốc chưa có một ông vua nào có quyền hành tuyệt đối như Mao. Thời nhà Chu thì chia quyền cho các chư hầu, sau khi nhà Tần thâu về một mối thì quyền của ông vua cũng chỉ đến phủ, huyện vì dưới phủ, huyện thì các viên chức xã ấp hầu như được địa phương chọn lựa để tự lo liệu, điều hành công việc địa phương. Khi Mao lên làm chủ thì mọi chức vụ từ lớn đến nhỏ, dù ở thôn xã, cũng làm theo mệnh lệnh của Đảng, do Đảng đề cử và phải tuyệt đối phục vụ Đảng. Từ nhà máy đến cái khung dệt vải, cái đục, cái tràng đều tập trung trong tay Đảng; ruộng đất, nương rẫy, ao hồ do Đảng quản lý; buôn gánh bán bưng bị dẹp, thương mại là độc quyền của các cửa hàng quốc doanh… Người dân với hai bàn tay trắng hoàn toàn lệ thuộc vào Đảng và Đảng sai đi cày, đi cuốc rồi ban đấu ngô, đấu gạo, manh quần, manh áo mới sống còn được.
Một vị hoàng đế của các hoàng đế, đấng cứu tinh của giai cấp bần cố nông và thợ thuyền. Cán bộ Đảng là những người ưu tú, sớm giác ngộ chủ nghĩa Cộng sản, thay thế các bậc quân tử của Nho giáo theo lệnh Đảng cai trị dân! Cả một guồng máy tuyên truyền vĩ đại tôn Mao lên hàng thần thánh, đạo đức cao cả, thánh thiện, trong sạch, chí công vô tư, quên mình, xả thân phục vụ giai cấp vô sản và đất nước. Trẻ con từ 4, 5 tuổi đã được tuyên truyền, nhồi sọ về công ơn cao cả, đời sống đạo đức và sự hy sinh không bờ bến của Mao, đồng thời được dạy căm thù địa chủ, cường hào, đế quốc, tư bản….
Chủ nghĩa Mao – cải biến từ chủ nghĩa Marx – là chủ nghĩa phải đem dạy từ mẫu giáo cho đến đại học! Mao tuyển là sách gối đầu giường bắt buộc của toàn Trung Hoa. Mỗi nhà phải treo hình Mao; mọi người, mỗi buổi sáng khi đi làm ra trước ảnh Mao cúi đầu lạy, chiều về tới trước ảnh Mao cúi đầu lạy và đọc lời ăn năn sám hối những lỗi lầm trong ngày!
Mao ngự trị trong khu hoàng thành cũ ở Bắc Kinh, ba vòng đai an ninh ngày đêm canh gác và điều khiển quốc gia từ trong phòng ngủ. Trong cuốn Tư nhân bác sĩ hồi lục ký nói gọn là hồi ký, bác sĩ riêng của Mao là Lý Chí Thỏa kể lại rằng những lãnh tụ Trung Hoa như Mao Trạch Đông và Lâm Bưu là những người mắc bệnh thần kinh. Mao không bao giờ tắm, chỉ lau người và luôn luôn uống thuốc ngủ với liều lượng cao nhất, còn Lâm Bưu thì ghiền thuốc phiện nặng đến nỗi phải gửi sang Nga Xô cai nghiện. Lâm sợ gió, sợ ánh sáng và sợ nước. Cũng theo BS Lý Chí Thỏa, người luôn ở bên cạnh Mao cho đến lúc Mao chết, thì Mao là một kẻ vô luân và hoang dâm vô độ! Cùng một lúc ăn ở với hai mẹ con người phục vụ và làm tình với cả những thanh niên đẹp trai hầu cận! Mao đi đâu cũng có một đoàn các cháu gái trẻ, đẹp theo sau. Trên xe lửa có đoàn ca vũ của xe lửa theo hầu. Đến các tỉnh, các thành phố thì bí thư đảng ủy địa phương lo công việc đó. Ở Bắc Kinh, phòng ngủ của Mao là Liên Xuân Phòng và phòng 118 được bố trí sát phòng khiêu vũ để sau khi ăn uống no say là dạ vũ với các nữ vũ công, ca sĩ 18, 20 xinh đẹp được giữ lại tại phòng ngủ của Mao suốt đêm (Giang Thanh, người vợ thứ 3 sống riêng biệt ở nơi khác).
Trong khi bên ngoài nhân dân chết đói hàng chục triệu người do sai lầm trong Hợp tác hóa, Đại nhảy vọt hay bị hành hạ, chém giết bởi Vệ Binh Đỏ thì tại Đại sảnh đường Nhân dân, Mao và các lãnh tụ cao cấp của Đảng vui chơi, tiệc tùng, khiêu vũ thâu đêm!
Cựu Đại tá Tân Tử Lăng, với cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, mô tả Mao như một thứ ma đầu, thủ đoạn, nham hiểm, độc đoán, tàn bạo. Khi cần lôi cuốn người dân nghèo, Đảng Cộng sản và Mao tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nhưng khi đã hoàn toàn nắm chặt quyền trong tay, Mao và Đảng Cộng sản bắt mọi người đem ruộng đất vào hợp tác xã, người dân lại hai bàn tay trắng đi làm công cho ông chủ mới duy nhất dưới sự phân công, giám sát, theo dõi từng cử chỉ, lời nói của các đảng viên Cộng sản. Sự áp bức, bóc lột và nạn tham nhũng lại diễn ra còn gay gắt hơn dưới chế độ phong kiến mà người dân phải cam chịu vì bây giờ chỉ có mỗi một ông chủ, không như ngày xưa không thích chủ này thì làm mướn cho chủ khác.
Nông dân, thợ thuyền bất mãn phản ứng tiêu cực, không tận tâm làm việc nên kinh tế bị suy bại. Cựu Đại tá Tân tử Lăng viết: “Chỉ thấy cảnh nghèo nàn, bệnh phù thũng và đầy rẫy người chết đói”! Tại hội nghị Lư Sơn năm 1959, Nguyên soái Bành Đức Hoài, Bộ trưởng Quốc phòng, thẳng thắn phê bình và cãi nhau tay đôi với Mao về thực trạng của kế hoạch hợp tác hóa nên bị cách chức. Tướng Hoàng Khắc Thành, Tổng tham mưu trưởng cùng chung số phận.
Trước hoàn cảnh thê thảm đó, thay vì phải đình chỉ để sửa chữa hay hủy bỏ kế hoạch, Mao với quyền hành tuyệt đối của lãnh tụ Đảng ra lệnh thực hiện Đại nhảy vọt và thành lập Công xã Nhân dân trên toàn quốc vào tháng 9-1959 với tham vọng Trung Quốc vượt nước Anh về sản lượng thép trong 15 năm, đốt giai đoạn vượt Nga Xô để từ một xã hội nông nghiệp thô sơ tiến thẳng lên xã hội cộng sản, không cần qua giai đoạn tư bản. Mao ra lệnh cho nông dân trồng lúa, bắp, kê… dày ken nhau để nâng cao năng suất, nhà nhà lập lò luyện thép sau hè, chỉ tính riêng tỉnh Hồ Nam có tới 50.000 lò luyện thép! Thép từ những lò luyện do các nông dân phụ trách chảy ra là một đống sắt nhão tạp vô dụng; lúa, bắp trồng dày quá không đủ không khí nên nông dân phải thay phiên nhau ra đồng ngày đêm quạt thông gió mới không bị chết, nhưng ra hạt là những hạt lép!
Mùa xuân năm 1960 nạn đói lan tràn, có làng 80 ngày không có miếng ăn, huyện Tín Dương, Hà Nam hơn 1 triệu dân chết đói! Từ 1959 đến 1962 số dân chết đói toàn quốc là 5,11% của khoảng 600 triệu dân. Tỉnh An Huy nặng nhất: 18,37%, Tứ Xuyên: 13,07%, Hồ Nam quê hương Mao: 6,81%…. Trong Đại nhảy vọt này có 37,5 triệu người chết đói! Ở tỉnh Tứ Xuyên ban ngày chôn người chết, tối đào lên xẻo thịt nấu ăn, ở huyện Sùng Khánh người ta còn giết cả trẻ con lấy thịt ăn! Đội sản xuất số 1 huyện Sùng Khánh có 83% hộ ăn thịt người!
Khi nhận được báo cáo, Mao đổ lỗi cho bọn địa chủ, phú nông lọt lưới, bọn hữu khuynh trong Đảng phá hoại và nham hiểm lên kế hoạch loại trừ mọi nguy cơ chống đối. Mao bí mật giao cho Giang Thanh thi hành âm mưu. Những kẻ có nguy cơ tiêu diệt Mao là những đồng chí cũ đang được Mao cho chia sẻ quyền hành trong Bộ Chính trị, trong Chính phủ, các tướng lãnh, các ủy viên Trung ương Đảng đang nắm quyền hành tại các tỉnh và những người dân trưởng thành trước khi Mao cầm quyền có thể so sánh chế độ trước và chế độ của Mao, nhất là những thành phần có học, con cái địa chủ và trung nông thoát khỏi đợt tàn sát hồi cải cách ruộng đất có thể phụ họa chống đối.
Những thành phần đáng tin cậy của Mao là thanh, thiếu niên từ 13, 14 tuổi trở lên hoàn toàn được giáo dục, nhồi nhét lòng hận thù địa chủ, phản động, hữu khuynh… cũng như nhồi nhét rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại, đấng cứu tinh của giai cấp, của nhân dân, được sử dụng làm nòng cốt trong chiến dịch này.
Ngày 02-8-1966 Mao đích thân ra lệnh cho hơn 1 triệu Vệ binh đỏ tụ tâp ở Bắc Kinh tấn cống các trụ sở, trường học, bệnh viện, chùa chiền. Tượng Phật, lăng mộ của Khổng Tử, Khổng Minh, Hạng Võ, Viêm Đế, Thành Cát Tư Hãn… bị đập phá. Từ 18/8 đến 26/11/1966 có 13 triệu Vệ binh đỏ từ các nơi kéo về Bắc Kinh biểu dương lực lượng ủng hộ Mao. Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước, Đặng Tiểu Bình, Tổng Bí thư Đảng và hai bà vợ của hai người này bị Vệ binh đỏ lôi ra đấu tố, đánh đập trước công chúng. Riêng Lưu Thiếu Kỳ bị đánh đập dã man chỉ còn 7 cái răng và bị nhốt trong Phủ Chủ tịch, bị đày đọa cho đến chết. Các Nguyên soái Bành Đức Hoài, Chu Đức, Hạ Long… chịu cùng tình cảnh tương tự. Riêng trong hạ tuần tháng 8-1966 tại Bắc Kinh có hàng ngàn người bị lôi ra đập chết tươi. Vệ binh đỏ tung hoành khắp nước, hạ bệ, đánh đập, giết chóc bí thư, chủ tịch ở các tỉnh địa phương mà hầu hết họ là những người đã từng vào sinh ra tử với Mao trong cuộc nội chiến chống Tưởng Giới Thạch để chiếm quyền. Những viên chức bị tố cáo là hữu khuynh, những phú nông, địa chủ và con cái địa chủ thoát chết trong cải cách ruộng đất bị hành quyết hay đập chết cả nhà. Tất cả những kẻ đó đều là kẻ thù của Mao Chủ tịch!
Máu lửa và cuồng loạn tràn ngập Trung Quốc. Hàng chục triệu người bị tàn sát hay bị hành hạ, hơn 10 triệu nhà bị lục soát! Chỉ riêng huyện Đạo tỉnh Hồ Nam trong 66 ngày (13/8 đến 17/10/1966) có 4.519 nạn nhân của Vệ binh đỏ gồm 4.193 người bị giết và 326 người bị buộc phải tự sát! Dân chúng hoảng loạn, nhiều nơi ăn thịt những người bị Vệ binh đỏ giết chết để chứng tỏ lòng trung thành với Mao. Ở tỉnh Vân Nam mỗi khi “ kẻ thù của Mao Chủ tịch” bị đập chết, người ta đem dao moi gan, xẻo thịt về nấu ăn.
Dưới quyền ngự trị của Mao, dân tộc Trung Hoa hai lần phải ăn thịt người!
Thần, Phật, tổ tiên đã bị đạp đổ hết, bây giờ Mao ngự trị Trung Quốc như một vị thượng đế nhưng thân phận người dân Trung Quốc thì không có gì thay đổi, càng ngày càng tiến đến cảnh tận cùng của nghèo khổ, đói rách cho đến khi Mao xuôi tay, nhắm mắt!
Sau này hồi tưởng lại, cựu Vệ binh đỏ Trần Hướng Dương viết: “Vì từ nhỏ đã được giáo dục hận thù: thù địa chủ, tư bản, Quốc Dân Đảng. Sự cuồng loạn ấy chẳng những hiện nay không mấy ai tin mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng Vệ Binh thật đáng nguyền rủa. Nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách để lớn tiếng hỏi lại: Ai đã giáo dục chúng tôi thành những thằng điên?” (Tân Tử Lăng, Mao Trạch Đông ngàn năm công tội).
Với những lời ghi trên, thiết nghĩ phải đưa những kẻ đầu độc trí óc dân chúng ra xét xử trước Tòa án Quốc tế về tội ác chống nhân loại.

P. H. S.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Tài liệu:
-BS Lý Chí Thỏa, Mao Trạch Đông cuộc đời chính trị và tình dục.
Trần Trung Đạo dịch (www.vietmessenger.com)
-Tân Tử Lăng, Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Thông Tấn
Xã Việt Nam dịch và in 2009 (wwww.viet-studies.info).
.
.
.

No comments:

Post a Comment