Thursday, October 27, 2011

ĐẠO ĐỨC & CHỦNG TỘC (Nguyễn Hưng Quốc)



Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Năm, 27 tháng 10 2011

Qua vụ tai nạn của bé Yue Yue - Wang Yue - ở Quảng Đông, Trung Quốc ngày 13 tháng 10 vừa rồi, báo chí Tây phương nêu lên câu hỏi "Người Trung Quốc nhẫn tâm?" hoặc tỏ rõ thái độ phê phán, xem đó là “một xã hội bệnh hoạn trầm trọng” (A seriously ill society).
Trên các mạng lưới xã hội như Facebook hay Twitter cũng như các bản tin và phát biểu gửi qua email, người ta lại càng mạnh miệng hơn. Cái ác của người Trung Quốc không phải chỉ xuất hiện như một nhận xét. Mà như một tiếng chửi. Từ một số câu chuyện vô tâm và vô cảm như vậy, nhiều người khái quát lên thành một nhận xét: Người Trung Quốc, với tư cách một chủng tộc, tự bản chất, vốn ác. Ác với người dân của họ. Và dĩ nhiên càng ác hơn với người nước ngoài.
Nói đến người nước ngoài, không thể không nhớ mấy thước phim tài liệu xem cách đây mấy năm về cảnh 43 người Tây Tạng vượt biên qua Ấn Độ tị nạn. Lính Trung Quốc, đứng trên một ngọn đồi cao, nhắm từng người, từng người bắn. Hết người này ngã gục đến người khác ngã gục. Như người ta giết súc vật.
Đọc nhiều bản tin về những cái ác ở Trung Quốc, tuy nhiên, tôi vẫn không chấp nhận luận điệu cho người Trung Quốc, tự bản chất, là ác.
Không chấp nhận, thứ nhất, vì nguyên tắc. Bất cứ sự khái quát hóa nào cũng liều lĩnh. Khái quát hóa về bản tính của một dân tộc lại càng liều lĩnh. Nhận diện bản tính của một dân tộc chỉ vài ba triệu dân đã khó. Với một dân tộc lên đến cả tỉ người như Trung Quốc lại càng khó. Ngay cả việc dựa vào số đông – tức là chấp nhận trước vô số ngoại lệ - cũng khó. Mà không phải chỉ với cả một dân tộc. Ngay chỉ với một người, một người cụ thể nào đó thôi, việc đánh giá cũng khó và đầy nguy cơ sai lầm. Lý do chính là con người, ngay cả những kẻ đơn giản và chất phác nhất, vẫn có tính đa diện; và vì đa diện, nên có thể dẫn tới những nhận định hoàn toàn khác nhau.
Thứ hai, cho dù các con số thống kê cung cấp đầy đủ chứng cứ là một cộng đồng hay một dân tộc nào đó phạm tội ác nhiều hơn, thậm chí, nhiều hơn hẳn các cộng đồng hoặc các dân tộc khác thì điều đó cũng không nhất thiết dẫn đến việc quy trách nhiệm vào yếu tố chủng tộc. Như ở Mỹ, chẳng hạn. Hầu như tất cả các con số thống kê đều cho thấy tỉ lệ tội phạm của người da đen cao hơn hẳn người da trắng. Ở Úc, thống kê thời gian gần đây cũng cho thấy tỉ lệ bạo động của một số cộng đồng di dân từ Phi châu rất cao. Họ đánh nhau. Đánh các sắc dân khác. Và đánh cả cảnh sát. Thường, các chính khách cũng như báo giới ít khi nêu đích danh vấn đề tội phạm của một cộng đồng nào đó. Tuy nhiên, thỉnh thoảng do vấn đề quá trầm trọng, họ phải lên tiếng. Trường hợp của người Sudan ở tiểu bang Victoria vào đầu năm 2011 này là một ví dụ. Tuy nhiên, ngay cả những con số thống kê như vậy cũng không chứng minh được là dân tộc hay chủng tộc này dữ và ác hơn dân tộc hay chủng tộc khác. Dưới mắt các nhà xã hội học, ở các nước phát triển, đằng sau những tội phạm và tộc ác của một cộng đồng, ẩn chứa nhiều lý do khác quan trọng và quyết định hơn nhiều, ví dụ, hoàn cảnh kinh tế, điều kiện giáo dục, ký ức về một tuổi thơ từng bị áp bức, mặc cảm bị thua kém và bất lực, v.v…
Thứ ba, giới nghiên cứu, đặc biệt giới nghiên cứu Tây phương, càng ngại ngần khi quy chuyện dữ hay ác vào yếu tố chủng tộc. Bởi, nhìn vào tấm bản đồ tội ác trên thế giới trong suốt thế kỷ 20 vừa qua, người ta dễ dàng nhận ra ngay một điều: không có nơi nào thực sự vô tội cả. Ở châu Phi thì hầu như triền miên có chiến tranh và cùng với chiến tranh là nạn diệt chủng. Bộ lạc này giết bộ lạc kia. Dân tộc này giết dân tộc khác. Ghê rợn nhất là vụ diệt chủng tại Rwandan, một nước nhỏ ở Tây Phi, vào năm 1994: Trong vòng mấy tháng, có khoảng gần một triệu người, hay 20% dân số, bị giết chết. Họ ác ư? – Vâng, thì ác. Nhưng nhìn sang châu Á mà xem. Trước hết là người Nhật. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, dân tộc có truyền thống thiền và kiểu chào cực kỳ lễ phép ấy đã giết cả hàng mấy chục triệu người, trong đó, riêng tại Việt Nam, có khoảng từ một đến hai triệu người trong trận đói Ất Dậu (1945). Trung Quốc cũng không thua gì Nhật Bản. Mao Trạch Đông cũng đã giết chết cả mấy chục triệu người. Toàn là dân Trung Quốc cả. Rồi Pol Pot ở Cam Bốt. Cũng những cánh đồng xương mênh mông với hàng triệu oan hồn. Từ đó, có thể nói là người châu Á, nói chung, dữ và ác ư? – Vâng, thì ác. Nhưng còn châu Âu, nơi văn minh phát triển nhất thế giới với tư tưởng nhân văn và nhân đạo được xem là trụ cột của văn minh nhân loại từ thời hiện đại đến hậu hiện đại? Chính ngay trung tâm của cái châu Âu đầy tự hào và rực rỡ hào quang ấy, trong thập niên 1940, đã diễn ra những vụ giết người diệt chủng tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại với cả mấy triệu nạn nhân. Cũng thuộc châu Âu, Nga đóng góp vào bản đồ tội ác một mảng màu đen tối không thua gì phát xít Đức. Còn Mỹ? Hai quả bom nguyên tử thả xuống Nhật, dù được biện minh cách nào đi nữa, cũng để lại trong lương tâm người Mỹ những vết thương rất khó lành.
Chính vì ở đâu cũng xảy ra tội ác như vậy, không có ai đủ tự tin để lên án cái ác của những người khác và ở những nơi khác. Người ta biết rõ một điều: cái ác, nếu nằm trong máu, thì nó có thể tìm thấy ở tất cả mọi người, hậu duệ của những kẻ trải qua cả hàng chục, thậm chí, hàng trăm ngàn năm sống bằng nghề săn bắn, vốn là nghề căn bản ở thời thượng cổ. Nó đã trở thành một thứ bản năng của con người. Văn hóa và văn minh có thể đè nén hay thuần hóa cái bản năng ấy. Nhưng chắc chắn là không hoàn toàn. Bằng chứng? Thì cứ nhìn lại Holocaust mà xem. Những cách giết người ở Holocaust rất “khoa học”. Và cũng rất “văn minh”.
Lý do thứ tư, việc cho dân tộc này hay dân tộc khác ác - trong khi chưa chắc đã chính xác, dễ dẫn đến những sự kỳ thị chủng tộc vốn bị xem là một trong những nguyên nhân chính gây nên những cái ác khủng khiếp nhất trên thế giới. Như vậy, chúng ta sẽ ở trong vòng lẩn quẩn: Chúng ta lên án cái ác và, cùng lúc, nuôi dưỡng mầm mống của cái ác bằng chính việc lên án - qua đó, khuyến khích tinh thần kỳ thị chủng tộc - của chúng ta. Đó là điều tuyệt đối không nên.
Nhưng nếu cái ác không gắn liền với yếu tố chủng tộc thì chúng ta sẽ giải thích như thế nào về hiện tượng cái ác thường xảy ra, với mức độ đậm đặc và đáng ghê sợ, ở nơi này nhiều hơn hẳn ở những nơi khác?
Nguyên nhân nằm ở đâu?

--------------------------

Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Tư, 26 tháng 10 2011

Tuần qua, ngoài tin tức liên quan đến cái chết của Gaddafi ở Libya, hình như tin tức về vụ tai nạn giao thông ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc là lôi cuốn sự chú ý của dư luận thế giới nhiều nhất. Mở báo tiếng Anh hay tiếng Việt, ở đâu cũng thấy tin tức về bé Yue Yue (Duyệt Duyệt) bất hạnh. Tin tức loan tải trên Facebook và Twitter lại càng nhiều. Khắp nơi. Có nhà báo còn cho biết đó là một trong đề tài nóng nhất trên rất nhiều diễn đàn.
Bé Yue Yue - tên thật là Wang Yue - chỉ mới hai tuổi. Ngày 13 tháng 10 vừa rồi, cháu bị một chiếc xe van tông. Tên tài xế, biết là vừa mới tông người, khựng lại một lát, nhưng thay vì xuống xe xem xét, hắn lái đi thẳng; bánh xe sau lại cán lên cháu bé. Người hai bên đường không ai phản ứng gì cả. Lát sau, một chiếc xe khác, lại là xe tải, trờ tới và tông lên bé Yueyue lần thứ hai. Rồi phóng đi. Bé Yue Yue nằm bất tỉnh trên đường, máu me bê bết. Máy camera giám sát cho thấy từ lúc tai nạn xảy ra, có 18 người đi ngang qua. Tuyệt đối không ai có phản ứng gì cả. Có người lái xe máy thấy bé, nhưng thay vì cứu giúp, hắn lái xe chạy quanh một vòng để né cái thân thể tí xíu gần như dập nát của bé. Rồi đi luôn. Có người đi bộ đứng lại nhìn, rồi cũng đi luôn. Tổng cộng: 18 người! Cuối cùng, bảy phút sau, một phụ nữ hốt rác trên đường đi ngang qua, thấy, và dừng lại, la lên. Mẹ bé, vốn đang bận bán hàng gần đó, nghe tiếng, chạy tới. Yue Yue được chở vào bệnh viện. Nhưng vết thương của bé quá nặng. Gần một tuần sau, bé chết.
Tai nạn giao thông là chuyện bình thường trên thế giới. Ngày nào chả có người chết. Tuy vậy, cái chết của bé Yue Yue vẫn là một cú sốc đối với thế giới. Tại sao? Ở đây không phải là vấn đề giao thông. Mà là vấn đề con người. Con người vô cảm đến gần như không còn tình người. Bánh xe trước tông vào một em bé. Sau một thoáng ngập ngừng, lại thản nhiên cho chạy xe tiếp để bánh xe sau cán lên em một lần nữa. Rồi chiếc xe thứ hai. Và gần 20 người đi ngang qua. Dửng dưng. Hoàn toàn dửng dưng.
Chính sự dửng dưng ấy khiến mọi người bàng hoàng.
Mà, thật ra, đâu phải bây giờ. Mười năm trước, trên tạp chí marie claire số tháng 6 năm 2001, có bài tường thuật về xác một bé gái sơ sinh bị vất bên vệ đường, gần một bưu điện. Điều kỳ lạ là không ai thèm chú ý đến cái xác ấy cả. Người ta đi qua, nhìn, rồi đi thẳng. Người ta nhìn cái xác của một em bé sơ sinh như nhìn một đống rác nhỏ. Thậm chí, không bằng ở Tây phương, chúng ta thấy xác chim hay xác mèo bị xe cán ngoài đường. Có một phụ nữ, một người duy nhất, động lòng, lại sờ em bé, thấy em còn hơi ấm. Bà la lên. Nhưng không ai thèm chú ý cả. Họ vẫn dửng dưng. Người phụ nữ ấy gọi xe cứu thương. Không ai đến cả. Bà đành đứng nhìn. Và chụp hình. Cuối cùng, có một người "hảo tâm" khác đến nhặt xác em bé bỏ vào một thùng giấy và đem bỏ vào... thùng rác.
Sau đó thì cảnh sát Trung Quốc cũng đến. Nhưng không phải để điều tra về cái chết của em bé. Không. Họ không cần biết. Không hề hỏi một câu. Dường như, với họ, đó không phải là vấn đề. Họ đến chỉ để bắt người phụ nữ từng gọi điện thoại kêu cứu và chụp hình. Sau đó thì họ cũng thả người phụ nữ ấy. Nhưng toàn bộ phim chụp cảnh bất nhẫn ấy đều bị tịch thu. Té ra, với họ, điều đáng quan tâm là mấy bức ảnh chứ không phải là xác một đứa trẻ bị vất ngoài đường.
Chính những sự dửng dưng và hờ hững đến độ tuyệt đối vô cảm như vậy đã khiến rất nhiều người trên thế giới bàng hoàng. Đó là lý do khiến chuyện một em bé bị xe cán, một trong hàng trăm ngàn tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày trên thế giới, đã lôi kéo sự chú ý của mọi người và làm mọi người xúc động. Và phẫn nộ. Hầu như ai cũng thấy, qua cái tai nạn nho nhỏ này, diện mạo thực sự của xã hội Trung Quốc hiện nay. Bản tin trên đài BBC ở Anh đặt hẳn một nhan đề là "Người Trung Quốc nhẫn tâm?" Dấu hỏi, ở cuối, là một dấu hỏi có tính chất tu từ, nhằm làm nhẹ vấn đề hơn là nêu lên một nghi vấn thực sự. Nhiều tờ báo tiếng Anh tại Úc, khi tường thuật tai nạn ấy, đã gọi thẳng Trung Quốc là “một xã hội bệnh hoạn trầm trọng” (A seriously ill society).
Mà điều đó cũng không có gì quá đáng. Chúng ta hay nói nhiều đến đạo đức. Và giới nghiên cứu, đặc biệt các triết gia, từ xưa đến nay đã tốn bao nhiêu công sức để đào xới về nguồn gốc, ý nghĩa và đặc biệt nền tảng của đạo đức, chủ yếu xoay quanh câu hỏi: đạo đức có cơ sở từ thần quyền hay từ sự tiến hóa qua lịch sử (trong đó hai yếu tố chính nổi bật nhất là sinh học và xã hội)? Các cuộc tranh luận diễn đi diễn lại mãi và có lẽ sẽ chẳng bao giờ kết thúc cả. Tuy vậy, bất chấp mọi sự khác biệt trong diễn dịch và quan điểm, có một điều hầu như ai cũng đồng ý: Nội dung đầu tiên và quan trọng nhất của mọi cái gọi là đạo đức là lòng thương người. Biểu hiện đầu tiên và quan trọng nhất của lòng thương người là sự quan tâm đến người khác. Trong chữ Hán, chữ “nhân” (), hiểu theo nghĩa là lòng thương người và là một trong những nền tảng của đạo đức học Nho giáo, được kết hợp bằng hai chữ: nhân (, người) và nhị (, hai). Theo đó, mầm mống đồng thời cũng là nội dung của cái gọi là đạo đức chính là quan hệ giữa người và người. Trong quan niệm của Khổng Tử, đức “nhân” có hai khía cạnh, một tiêu cực và một tích cực. Tiêu cực: Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân). Tích cực: Mình muốn đứng vững thì cũng giúp cho người đứng vững; mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công (Kỉ dục lập nhi lập nhân; kỉ dục đạt nhi đạt nhân). Nền tảng chung của hai khía cạnh tiêu cực và tích cực ấy là sự quan tâm đến người khác. Ở Tây phương, nhắc đến ý niệm lòng nhân hay đạo đức, hầu như không ai không nhớ đến câu nói nổi tiếng của Publius Terentius Afer (sinh khoảng 195/185 và mất năm 159 trước Công nguyên), một kịch tác gia La Mã thời cổ đại: “Homo sum, humani nihil a me alienum puto". Có lẽ phần lớn người Việt Nam đều biết câu ấy, chủ yếu là qua lời giới thiệu của Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa cộng sản, người muốn xây dựng một nền đạo đức học mới cho nhân loại: “Tôi là người, không có gì thuộc về con người mà lại xa lạ với tôi”.
Nếu sự quan tâm đến con người là nền tảng của đạo đức thì một xã hội mà người ta không còn quan tâm đến nhau nữa, người ta hoàn toàn thờ ơ và hờ hững trước nỗi đau, thậm chí, nỗi đau lớn nhất là đối diện với cái chết, xã hội đó là gì nếu không phải là một xã hội bệnh hoạn, hay nói theo chữ dùng trên báo The Age ở Úc, “bệnh hoạn một cách trầm trọng”.
Ở trên, khi nhắc đến lòng nhân đạo, trung tâm của đạo đức, tôi cố tình nhắc đến Khổng Tử và Karl Marx, hai người được xem là có ảnh hưởng lớn và sâu đậm nhất trong văn hóa Trung Quốc, một ở thời cổ đại và trung đại, và một ở thời hiện đại. Điều này gợi lên một câu hỏi khác: tại sao một xã hội được nuôi dưỡng bởi những tư tưởng nhân đạo lại trở thành vô cảm đến như vậy?
Tại sao?
------------------

Tin liên hệ

.
.
.

No comments:

Post a Comment