Sunday, August 21, 2011

THƯA CHUYỆN VỚI CÔNG CỤ BẠO LỰC CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN [1] - Nhà văn Phạm Đình Trọng




Phạm Đình Trọng

Chủ Nhật, 21/08/2011

1. CUỘC HẸN BẤT NGỜ, GẤP GÁP, KHÔNG THỂ TỪ CHỐI

Đúng ngày khai mạc đại hội 11 đảng Cộng sản Việt Nam đang cầm quyền, 12.1.2011, 13 giờ 30, tôi nhận được cuộc điện thoại của đại úy cảnh sát khu vực Dương Tấn Lắm: Cháu đến nhà bác mà đóng cửa. Bác đang ở đâu? Cháu có việc cần gặp bác.

Hơn năm nay, từ khi tôi từ bỏ đảng Cộng sản và có một số bài viết công bố trên các trang mạng, ông cảnh sát khu vực Lắm trở nên quan tâm, gần gũi tôi, vẫn thường hẹn gặp tôi như vậy. Khi thì từ sáng sớm ông đột ngột xuất hiện ở cửa. Khi thì ông gọi điện bảo tôi lên công an phường. Dạo tôi làm thủ tục nhập hộ khẩu cho con gái tôi, công an hộ khẩu quận Tân Bình hẹn tới hẹn lui, mỗi lần họ lại đưa ra thêm một đòi hỏi làm cho tôi mất rất nhiều thời gian và quá mệt mỏi! Con gái tôi từ thành phố Hải Phòng vào ở với tôi đã hơn ba năm và đã có công việc ổn định, có đủ các điều kiện theo yêu cầu của việc đăng kí hộ khẩu nhưng dường như đòi hỏi của công an hộ khẩu là vô tận! Tờ giấy bảo lãnh của chủ hộ, tôi viết và được công an phường xác nhận chỉ có giá trị trong thời gian sáu tháng và tôi đã phải hai lần lên công an phường làm lại giấy bảo lãnh mà việc nhập hộ khẩu của con tôi vẫn chưa được! Không đủ kiên nhẫn theo đuổi, tôi đành bỏ cuộc, cất hồ sơ đi, chấp nhận con gái tôi ở với tôi không cần hộ khẩu!
Đúng lúc đó ông cảnh sát khu vực Dương Tấn Lắm hẹn gặp tôi và bảo: Bác đưa hồ sơ nhập hộ khẩu của em Trang cho cháu đi làm giúp bác! Tôi lại có thêm vài cuộc gặp ông Lắm về việc làm hộ khẩu này!

Một buổi chiều ông Lắm hẹn gặp tôi rồi dẫn tôi lên công an quận Tân Bình và bảo tôi đợi ở phòng tiếp dân của ông quận phó công an Nguyễn Thành Tâm. Cuộc gặp của ông phó công an quận Tân Bình với tôi, ngoài ông Nguyễn Thành Tâm, ông Dương Tấn Lắm còn có ba ông cán bộ công an quận và ông Sơn ở sở công an thành phố Hồ Chí Minh. Các ông đó tự giới thiệu tên và cấp lãnh thổ hoạt động mà không hề nói tới lĩnh vực nghiệp vụ đảm nhiệm. Sự lảng tránh đó cho tôi hiểu rằng họ đều là cán bộ an ninh bảo vệ chính trị, một chuyên ngành công an mới thành lập từ năm 2002 để nhà nước cộng sản Việt Nam thêm công cụ bảo đảm sự tồn tại của đảng Cộng sản! Để duy trì sự tồn tại của đảng Cộng sản, bộ máy công cụ công an cứ phình to mãi! Ngân sách mỏng của đất nước nghèo lại phải dồn thêm tiền nuôi bộ máy công cụ khổng lồ này và quỹ phúc lợi xã hội cứ tong teo mãi! Cứ kéo dài mãi nỗi đau khổ ba, bốn người bệnh trên một chiếc giường trong bệnh viện! Ngày nay, với nhà nước cộng sản, chuyên ngành an ninh bảo vệ chính trị quan trọng và được vỗ về đến mức trong cuộc sống hòa bình yên ổn và mới hoạt động được tám năm mà cục Bảo vệ chính trị và ông đại tá cục trưởng Đường Minh Hưng đã được tôn vinh Anh hùng lực lượng vũ trang!

Cả sáu ông công an gặp tôi hôm đó đều mặc thường phục dù trong giờ làm việc và ở ngay trong trụ sở công an quận. Lí do cuộc gặp chỉ để hỏi thêm một chi tiết trong tờ khai nhập hộ khẩu của con tôi. Tôi giải thích nhưng dường như các ông công an không mấy quan tâm đến chi tiết đó. Ông Tâm quận phó công an và ông Sơn cán bộ công an thành phố Hồ Chí Minh đều nói đến tình cảm cha con và sự cần thiết của việc con gái tôi nhập hộ khẩu vào với tôi để bộc lộ sự quan tâm, ưu ái của công an đối với tôi. Tình cảm cha con là lớn lao, quí giá! Cha con cần được gần gũi nhau để chăm lo, giúp đỡ nhau! Công an sẽ quan tâm sớm giải quyết cho con gái tôi có hộ khẩu! Lúc tôi ra về, ông quận phó công an Nguyễn Thành Tâm còn đưa tiễn tôi đi hết hành lang dài ra tới tận vỉa hè đường Hoàng Văn Thụ!

Lần này có việc gì mà ông Lắm hẹn gặp tôi gấp gáp vậy nhỉ? Tôi không có nhà nên xin ông Lắm lui cuộc gặp lại đến sáng mai. Không được! Lui đến chiều tối vậy. Cũng không được! Chuyện gấp gáp vậy thì nói luôn trên điện thoại đi! Nói trên điện thoại không tiện bác ạ! Bác về nhà đi, cháu đến đón bác ra ngoài quán cà phê ngồi! Tôi vừa về nhà thì ông Lắm đến. Tôi đi xe máy theo ông Lắm đến quán cà phê trên đường Trường Chinh gần trụ sở công an phường tôi. Ông quận phó công an Tân Bình Nguyễn Thành Tâm đang đợi tôi bên li nước trái cây.

Hai giờ chiều. Quán vắng. Bốn người đều mặc dân sự ngồi hai bên chiếc bàn nhỏ giữa những chiếc bàn trống. Cạnh tôi là ông Lắm. Cạnh ông Tâm là một ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi. Ông Tâm không một lời giới thiệu về nhân vật này và tôi cũng không hỏi. Suốt cuộc gặp gần hai giờ, nhân vật này không nói một lời, không tỏ ra lắng nghe, thái độ khinh khỉnh như người ngoài cuộc, chỉ đôi lần thoáng tỏ ra khó chịu trước ý kiến của tôi. Lúc cuộc gặp kết thúc, nhân vật này lẳng lặng ra trước lấy xe máy. Tôi bước nhanh đến bắt tay và chào từ biệt: Chào anh! Đáp lại vẫn là sự im lặng! Không có nổi một cái chào bằng nhếch mép! Văn hóa giao tiếp của công an và ứng xử của công cụ chuyên chính vô sản với dân như vậy đó!

Trở lại cuộc gặp. Ông Tâm nói như để giải thích cách xưng hô với tôi: Em năm mươi tuổi! Từ cuộc gặp tôi lần đầu ở trụ sở công an quận Tân Bình, ông Tâm đã thân tình, cởi mở kêu tôi là anh và xưng em. Ông Tâm hỏi về cuộc sống của tôi. Tôi cũng hỏi thăm về ông Tâm và được biết ông Tâm quê Tây Ninh nhưng từ trẻ, bố ông Tâm đã đến Sài Gòn làm ăn, lấy vợ người Sài Gòn và sinh ông Tâm ở Sài Gòn. Ông Tâm làm việc ở công an quận Tân Bình đã ba mươi năm, từ 1981 đến nay, đã học trường trung cấp công an thuộc sở công an thành phố Hồ Chí Minh và trường đại học An ninh thuộc bộ công an nhưng trường ở ngay Thủ Đức. Năm mươi tuổi. Ba mươi năm trong ngành công an, được đào tạo bài bản, chính quy, lại là phó trưởng công an quận, hẳn ông Tâm phải mang hàm đại tá!

2. TÔI VIẾT KHÔNG VÌ TIỀN

Sau màn dạo đầu thăm hỏi, ông Tâm vào chuyện: Một lần tình cờ vào mạng, em thấy tên anh. Không biết có phải bài của anh hay chỉ là sự trùng tên? Ông Tâm định mở đường cho tôi từ bỏ những bài viết của tôi chăng? Tôi xác nhận ngay rằng những bài viết trên mạng kí tên tôi đều là những bài tôi viết. Ông Tâm hỏi tôi nhuận bút những bài viết đó. Đó, mối quan tâm thực sự của công an đó!

Tư duy vị vật chất tầm thường của bộ máy công cụ công an và bộ máy công cụ tuyên truyền của nhà nước này là: Những người nói tiếng nói khác biệt với chính thống, những người viết bài, trả lời phỏng vấn ngoài hệ thống chính thống, nói tiếng nói dân chủ, nói lên khát vọng của cuộc sống về dân chủ, về quyền con người, nói ý chí của dân tộc về độc lập, toàn vẹn lãnh thổ đều do Các – Thế - Lực – Thù – Địch giật dây, đều nhận tiền của Các – Thế - Lực – Thù – Định! Tiền đó là nhuận bút bài viết, là tiền giải thưởng này, giải thưởng kia, là tiền tài trợ, giúp đỡ!

Đẩy tiếng nói dân chủ, nhân quyền, tiếng nói độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ sang phía thù địch là bộ máy chuyên chính vô sản đã đẩy tiếng nói trung thực, khảng khái của nhân dân sang phía thù địch! Dù tiếng nói của họ khác biệt với thể chế, khác biệt với chính quyền thì những người nói tiếng nói trung thực khảng khái đó cũng là những nhân cách lớn. Những nhân cách lớn Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Trần Lâm, Lê Hồng Hà, Nguyễn Thanh Giang, Trần Nhơn, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Tô Hải, Lê Phú Khải, Tống Văn Công, Vi Đức Hồi, Vũ Cao Quận, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Hoàng Tiến, Vũ Hùng, Nguyễn Thượng Long, Nguyễn Phương Anh, Phạm Hồng Sơn, Bùi Thanh Hiếu, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn... và còn rất nhiều người khác nữa tôi không thể kể hết tên. Họ đều là những người Việt Nam nặng lòng yêu nước thương nòi. Họ đều là Nhân Dân thân yêu. Coi họ là Nhân Dân thì đối thoại với họ phải là cơ quan tư tưởng, cơ quan tuyên giáo của thể chế, của hệ thống chính trị! Coi họ là thù địch nên đối thoại với họ là công an, là bộ máy bạo lực, là công cụ! Và tôi đang đối thoại với ông quận phó công an quận Tân Bình, thành phố Sài Gòn!

Đẩy sang phía thù địch tiếng nói chính đáng của người dân đòi dân chủ, đẩy sang phía thù địch tiếng nói yêu nước của người dân đòi độc lập toàn vẹn giang sơn, công cụ bạo lực chuyên chính vô sản đối xử với người dân nói tiếng nói trung thực đó như đối xử với kẻ thù giai cấp! Bạo lực được sử dụng tùy tiện, lạnh lùng, tàn nhẫn, bất chấp pháp luật và văn hóa ứng xử! Thanh niên, sinh viên tập hợp để khẳng định với kẻ bành trướng xâm lược đã cướp Hoàng Sa, Trường Sa rằng: Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Cuộc tập hợp của lòng yêu nước đó đã bị công an dùng bạo lực giải tán! Tiếng nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, tiếng nói của lịch sử mở nước và giữ nước bằng máu của nhiều thế hệ người Việt Nam đã bị sức mạnh công cụ bạo lực dập tắt! Người tổ chức in hàng chữ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam lên áo, người mặc áo mang hàng chữ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bị công an bắt bớ, giam cầm! Người nói tiếng nói dân chủ, bộc lộ chính kiến khác biệt với chính thống bị gán tội tuyên truyền chống nhà nước, bị tù tội! Những bản án tù nghiệt ngã, phi pháp, bất lương dành cho đại tá quân đội Phạm Quế Dương, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhân, luật sư Phan Thanh Hải, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà giáo Vũ Hùng, nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải, nhà hán nôm học Trần Khuê, cô gái trẻ Phạm Thanh Nghiên . . . với nhiều tội danh khác nhau nhưng thực chất “tội” của họ chỉ là yêu nước, yêu lẽ phải. Tòa án xét xử họ, nhà tù giam cầm họ là đã xét xử, giam cầm lương tâm và khí phách dân tộc Việt Nam. Chính quyền chống lại họ thì chính quyền đó thực chất không còn là chính quyền của nhân dân Việt Nam nữa!

Đẩy tiếng nói trung thực, khảng khái sang phía kẻ thù để trừng trị, người dân không dám sống thật, nói thật! Xã hội chỉ còn tiếng nói xu thời, giả dối và người xu thời, giả dối, ăn theo, nói leo được tin dùng, trở thành mẫu người thành đạt, thành khuôn mẫu xã hội! Sự giả dối thắng thế, thống trị xã hội! Đó là thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay! Xã hội mà sự giả dối thắng thế thì dứt khoát không phải là xã hội lương thiện, dứt khoát không thể có dân chủ, công bằng, văn minh! Cái gì cần mà không có thường được nhắc đến với tần số cao vọt vừa là nỗi khát khao, vừa là sự an ủi. Thời đất nước còn giặc ngoại xâm, chưa có độc lập thật sự, câu khẩu hiệu Không có gì quí hơn Độc lập Tự do như tiếng nói bật ra từ đáy lòng mỗi người dân, có sức lay động, động viên, thôi thúc rất lớn. Giặc đã tan, nước đã độc lập, câu khẩu hiệu kia không còn sức lay động nữa! Nếu vẫn trương câu khẩu hiệu đó lên thì như phủ nhận nền độc lập đang có! Ngày nay từ Dân chủ, Công bằng, Văn minh xuất hiện trong đời sống với tần số cao hơn hẳn từ Độc lập, Tự do thời đất nước chưa có độc lập thật sự đã là chỉ số về sự thiếu thốn và nỗi khát khao Dân chủ, Công bằng, Văn minh!

Với tư duy vị vật chất tầm thường, không biết đến giá trị nhân văn và trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của con người, bộ máy công cụ công an không hiểu được rằng, chúng tôi viết vì nỗi đau đáu trong lòng chúng tôi, vì nỗi xót xa cho thân phận người dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đã phải chịu bao đau thương, mất mát, đã phải tốn bao nhiêu xương máu cho nền độc lập của đất nước Việt Nam. Nhà tan cửa nát cũng ừ / Đánh thắng giặc Mĩ khổ chừ, sướng sau (Câu ca dao thời chiến tranh chống Mĩ ở Quảng Bình) Đã đánh hết giặc Pháp đến giặc Nhật, đánh hết giặc Mĩ đến giặc Pôn pốt, giặc bành trướng! Nhà nào cũng có người bỏ mạng ngoài mặt trận! Nhà nào cũng có người mẹ mất con, vợ mất chồng! Mấy thế hệ con trai, con gái mất cả thời tuổi trẻ đẹp đẽ cho chiến tranh! Hi sinh lớn đến thế để có độc lập! Nhưng nước độc lập rồi mà người dân vẫn không được hưởng quyền tự do dân chủ! Đến quyền cơ bản nhất, thông thường nhất là quyền tự do ngôn luận cũng không có! Thời Pháp đô hộ, nước mất, dân nô lệ mà dân ta vẫn có quyền ra báo tư nhân, lập nhà xuất bản tư nhân! Ngày nay nước có độc lập mà dân không được quyền ra báo tư nhân! Không thể có tự do ngôn luận khi không có báo tư nhân! Sao người dân Việt Nam khốn khổ đến thế, hỡi Trời!

Ở các nước công nghiệp, người dân được hưởng quyền tự do ngôn luận từ thế kỉ XVIII, thế kỉ mở ra kỉ nguyên Ánh sáng, kỉ nguyên cá nhân được nhìn nhận, kỉ nguyên thức tỉnh ý thức cá nhân ở mỗi người, quyền của cá nhân trong xã hội được pháp luật bảo vệ. Trong những quyền cá nhân thì quyền được nói, được bộc lộ tư tưởng chính kiến không những quan trọng với cá nhân mà còn rất quan trọng, cần thiết cho sự phát triển xã hội loài người. Vì thế Voltaire, 1694 – 1778, nhà tư tưởng lớn người Pháp của kỉ nguyên Ánh sáng đã viết: Tôi không thích điều anh nói nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền được nói của anh! Xã hội Việt Nam hôm nay sau Voltaire ba trăm năm mà người dân vẫn chưa được hưởng quyền được nói, quyền được bộc lộ tư tưởng chính kiến, quyền tự do ngôn luận! Dù Hiến pháp cho người dân đầy đủ những quyền đó! Hiến pháp năm 1992, điều 69 ghi: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo qui định của pháp luật. Nhưng thực tế những quyền đó người dân đều không có! Sao người dân Việt Nam khổ thế, hỡi Trời!

Không có tự do ngôn luận nên tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ phát biểu chính kiến khác với chính thống liền bị bắt, tống giam, bị khép tội tày đình: Tuyên truyền chống nhà nước! Vì không có tự do ngôn luận nên tôi chỉ viết mấy bài trên trang báo mạng bộc lộ nỗi niềm của tôi về đất nước, về thế sự mà con trai tôi, một kiến trúc sư làm việc trong công ty tư nhân liên tiếp nhận được những cuộc điện thoại răn đe khi nhẹ nhàng, khi gay gắt: Muốn yên ổn làm ăn thì bảo bố đừng viết bài trên mạng nữa!

Loài người đã bước vào thời văn minh tin học kì diệu, chỉ một click chuột, người ta có thể tiếp cận với mọi nền văn minh, tiếp cận với mọi tư tưởng, mọi thông tin mà ở xã hội Việt Nam quyền tự do ngôn luận vẫn chỉ có trên giấy, quyền tự do ngôn luận vẫn là một thứ quá xa xỉ, quá cao xa, người dân không được phép với tới! Người dân chỉ vì sử dụng quyền tự do ngôn luận mà phải trả giá quá đắt bằng những năm tháng tù đày! Không hiểu được rằng chúng tôi viết vì nỗi đau đó của người dân Việt Nam nên bộ máy công cụ chuyên chính vô sản cho rằng chúng tôi viết chỉ vì tiền!

Tôi lại cay đắng nhớ đến nhà văn VL, bạn tôi. Không phải chỉ là bạn văn chương, anh còn là đồng đội của tôi trong chiến tranh. Chúng tôi cùng là những thằng lính chiến, đã nếm trải đủ cung bậc trần ai, đói khổ, sốt rét, bom đạn ở mặt trận miền Nam. May mắn sống sót sau chiến tranh, nên chúng tôi quí nhau lắm. Trở thành nhà văn, có tác phẩm nào được xuất bản, anh cũng tặng sách cho tôi. Anh còn nồng nhiệt và chân tình viết lời giới thiệu đầy cảm hứng cho lần xuất bản đầu một tập truyện của tôi, tập Một Thuở, nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, 2008. Không trực tiếp tiếp xúc với thông tin mạng, chỉ nghe dư luận bạn bè nói về những bài viết trên mạng của tôi, anh nói với nhà thơ bạn chung của chúng tôi: Sao ông Trọng phải tự đánh bóng mình thế nhỉ! Trời ơi, ông bạn lính của tôi còn nghĩ về tôi như vậy thì những ông công an như ông Tâm nghĩ rằng tôi viết bài trên mạng chỉ vì tiền, cũng là điều dễ hiểu!

Sau một số bài viết của tôi đăng trên một số trang báo mạng, tôi đã nhận được hàng trăm cuộc điện thoại từ các đài phát thanh, các báo tiếng Việt ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Úc xin phỏng vấn nhưng tôi đều từ chối. Nhà báo Mặc Lâm ở đài RFA, Mĩ, phôn cho tôi nhiều lần, nể quá, tôi phải nói lại đôi điều về một bài viết của tôi mà ông Lâm quan tâm. Chỉ một lần đó thôi. Nếu cần đánh bóng tên tuổi thì đăng đàn trả lời phỏng vấn trên sóng phát thanh và báo chí tiếng Việt trên khắp thế giới là cơ hội tốt nhất. Vậy mà tôi đã từ chối những cơ hội đó! Ngày 31.7.2010, tôi nhận được email của một người Việt ở Paris là một nhà hoạt động chính trị có uy tín và có tầm ảnh hưởng rộng thông báo sẽ đề nghị đưa tôi vào danh sách xét tặng giải thưởng Nhân quyền năm 2011 và ông đề nghị tôi cung cấp một số tư liệu về cá nhân để làm hồ sơ tuyên dương người nhận giải thưởng. Tôi cảm ơn thiện chí của ông và ban xét giải thưởng dành cho tôi nhưng tôi từ chối không nhận giải. Đây là một giải thưởng đứng đắn và một số tên tuổi người Việt Nam đáng kính đã được trao giải. Hai nhà văn Mĩ sống ở nửa đầu thế kỉ trước, nhà văn Dashiell Hammett, 1894 – 1961 và nhà văn Lillian Hellman, 1905 – 1984, đã dành gia tài của họ làm quĩ cho giải thưởng tặng cho những nhà văn có đóng góp tích cực cho cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ. Nếu cần đánh bóng tên tuổi và ham hố tiền bạc, tôi đã không từ chối cơ hội vừa có tiếng, vừa có miếng này! Bài viết của nhà báo Mặc Lâm về cuộc trao đổi giữa tôi và ông Mặc Lâm trên điện thoại, được ông Mặc Lâm gửi đăng trên báo Người Việt, phát hành ở Mĩ, ông Lâm phôn cho tôi hỏi địa chỉ để gửi tiền nhuận miệng của tôi, tôi cũng từ chối. Không, tôi viết không vì tiền và những trang báo mạng đăng bài của tôi, ngay cả trang báo mạng lớn nổi tiếng thế giới là trang mạng BBC cũng không trả nhuận bút cho người viết vì báo mạng không có nguồn thu từ người đọc. Tôi thưa với ông Tâm điều đó và nói thêm rằng cuộc sống của tôi tuy không giàu nhưng không thiếu thốn! Tôi viết không phải vì tiền!

3. NỖI ĐAU, NỖI NHỤC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HÔM NAY

Tôi vào bộ đội trước khi cuộc kháng chiến chống Mĩ nổ ra và tôi rời quân ngũ khi cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc kéo dài suốt mười năm trời, 1979 – 1989, vừa kết thúc. Cuộc đời lính của tôi gánh trên vai trọn vẹn ba cuộc chiến tranh, chống Mĩ, chống Pôn pốt và chống bành trướng. Chiến tranh chống Mĩ tôi có mặt ở Tây Nguyên. Trong chiến dịch đánh đuổi bọn Pôn pốt giải phóng nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng, tôi là nhà văn đi với tàu chiến của hải quân, lên tàu từ cảng An Thới đảo Phú Quốc đổ bộ lên cảng Công pông xom, Campuchia. Trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc và giữ quần đảo Trường Sa, tôi có mặt ở mặt trận Cao Bằng, mặt trận Hà Giang và quần đảo Trường Sa. Cả tuổi trẻ của tôi đã hiến dâng cho cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng những gì đang diễn ra của chính sự hôm nay cho tôi cảm nhận rằng những người lãnh đạo đất nước hôm nay đang phản bội lại máu những người lính đã đổ ra hôm qua!

Nhiều mảnh đất của tổ tiên người Việt để lại đã thấm đẫm máu nhiều thế hệ người Việt Nam đã không còn là đất đai Việt Nam nữa! Đặc biệt đất đai biên cương phía Bắc càng thấm đẫm nhiều hơn máu những người lính và cả nước mắt cha, mẹ, vợ, con người lính! Tháng ba năm 1987, chiến tranh biên giới Việt – Trung đang còn ác liệt, tôi ngồi cùng ô tô với phó tư lệnh Đặc công, Anh hùng, đại tá Đỗ Văn Ninh đưa mẹ con chị Nguyễn Thị Định là vợ và con của liệt sĩ thượng úy đại đội trưởng Cao Hoàng Việt lên viếng mộ anh Việt vừa hi sinh trước đó ít ngày trong cuộc chiến đấu giành lại điếm cao Xê Ba (C3) ở Vị Xuyên, Hà Giang. Đại đội đặc công của anh Việt vừa giành lại điểm cao Xê Ba thì pháo từ Trung Hoa bắn sang. Đạn pháo xé làm thân thể anh Việt không còn nguyên vẹn. Một phần thân thể người lính Cao Hoàng Việt đã lẫn ngay vào đất đá trên mỏm núi đá Xê Ba. Người đàn bà trẻ, nhân viên đánh máy viện Văn học Việt Nam mới ngoài hai mươi tuổi, vợ liệt sĩ Cao Hoàng Việt, khóc lặng lẽ bên nấm mộ còn tươi màu đất mới đắp trên sườn đồi hoang lạnh. Chị khóc cho cuộc đời tận tụy hi sinh cống hiến cho đất nước mà quá ngắn ngủi của anh! Chị khóc cho thân phận góa bụa còn quá trẻ của chị! Chị khóc cả cho đứa con trai côi cút mới bốn tuổi còn chưa biết khóc cha. Cho đến nay giọt nước mắt của người vợ liệt sĩ khóc chồng ở sườn đồi hoang lạnh biên giới phía Bắc vẫn còn mặn chát trong lòng tôi!

Các ông thứ trưởng bộ Ngoại giao Lê Công Phụng và Vũ Dũng nối tiếp nhau làm trưởng phái đoàn đàm phán phân định biên giới Việt – Trung đã không biết cái giá máu và nước mắt của từng tấc đất biên cương! Các ông lại không thuộc lịch sử Việt Nam nên không nhớ lời dặn của tổ tiên, của lịch sử: Một thước đất, một tấc sông của ta lẽ nào có thể vứt bỏ? Phải kiên quyết tranh biện, chớ để cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di! Lời vua Lê Thánh Tôn nói với sứ thần nhà Lê cũng là lời của khí thiêng sông núi Việt Nam, lời của khí phách dân tộc Việt Nam nói với mọi thế hệ con dân nước Việt! Không biết giá máu của đất đai, không nhớ, không thuộc lịch sử đất nước, không có khí phách dân tộc, lại không có cái tâm sáng vì dân vì nước, các ông Lê Công Phụng, Vũ Dũng đã nhân nhượng thỏa hiệp cho Trung Hoa lấn được quá nhiều đất đai của tổ tiên người Việt ở biên giới phía Bắc qua hiệp định phân định biên giới Việt – Trung mà ông Phụng, ông Dũng đàm phán và chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa kí kết!

Thác Bản Giốc hùng vĩ tráng lệ ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng của tổ tiên giao lại nay theo hiệp định biên giới vừa kí kết với Trung Hoa, một nửa thác Bản Giốc, phần trên cao hùng vĩ nhất đã thuộc lãnh thổ Trung Hoa rồi!
Thời Pháp độ hộ nước ta, cửa ngõ phía Bắc đất nước thuộc tỉnh Lạng Sơn, Pháp xây những tòa nhà, những công trình làm trụ sở làm việc và nhà ở cho gia đình những người trông coi cửa ngõ quốc gia, đối mặt với những công trình tương tự của nhà Thanh phía bên kia biên giới. Dù được xây dựng dưới thời Pháp đô hộ, những ngôi nhà, những công trình đó cũng thuộc về lịch sử Việt Nam, là cửa ngõ, là cánh cổng quốc gia của đất nước Việt Nam, là bằng chứng lịch sử hùng hồn về đất đai lãnh thổ Việt Nam. Nhưng theo hiệp định phân định biên giới vừa kí kết với Trung Hoa, những ngôi nhà, những công trình đó đã thuộc lãnh thổ Trung Hoa rồi!

Thỏa hiệp để Trung Hoa chiếm mất những công trình của lịch sử Việt Nam! Thỏa hiệp để Trung Hoa chiếm mất nửa thác Bản Giốc hùng vĩ! Thỏa hiệp để Trung Hoa chiếm mất những ngọn núi của tổ tiên người Việt đã thấm đẫm máu và nước mắt lớp lớp thế hệ người Việt Nam! Tội của các ông Lê Công Phụng, Vũ Dũng lớn hơn rất nhiều tội của Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống! Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống chỉ nộp linh hồn của họ cho giặc. Ông Phụng, ông Dũng đã cắt cả đất đai thiêng liêng của tổ tiên người Việt nộp cho giặc! Làm tới thứ trưởng bộ Ngoại giao, hưởng ơn dân, lộc nước đã dày mà ông Phụng, ông Dũng nỡ phản nước, hại dân như vậy sao? Lịch sử Việt Nam và các thế hệ người Việt Nam mãi mãi ghi khắc tội bán nước của những người có trách nhiệm quản lí đất nước hôm nay!

Nhà nước phong kiến quản lí đất đai Việt Nam hàng ngàn năm không làm hao hụt một tấc đất mà còn mở rộng lãnh thổ Việt Nam từ châu thổ sông Hồng tới châu thổ sông Cửu Long, ra tới tận Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc, Thổ Chu! Thực dân Pháp xâm lược độ hộ Việt Nam cả trăm năm mà đất đai sông núi biển trời Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn! Người cộng sản Việt Nam quản lí đất đai Việt Nam mới mấy chục năm đã để mất quá nhiều đất đai sông núi đã thấm đẫm máu của tổ tiên người Việt! Sao đau đớn, nhục nhã thế, hỡi Trời!
 Tôi viết vì nỗi đau đớn, nhục nhã đó!

Dải đất Tây Nguyên thiêng liêng là căn cứ thần thánh của những cuộc kháng chiến giữ nước thời hiện đại. Kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ, rừng núi Tây Nguyên đều là căn cứ kháng chiến, giặc bất khả xâm phạm. Với tôi Tây Nguyên là những năm tháng sốt rét, đói cơm, thèm từ cọng rau xanh và thiếu cả viên thuốc nivaquine trị sốt rét nhưng đất rừng Tây Nguyên mãi mãi thiêng liêng và thân thiết như máu thịt cuộc đời tôi. Các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương còn giữ được Tây Nguyên, còn làm chủ được Tây Nguyên là còn làm chủ được cả bán đảo Đông Dương. Nay đất rừng Tây Nguyên không còn của các dân tộc Tây Nguyên nữa rồi! Đất rừng Tây Nguyên đã trở thành công trường khai thác bauxite của người Trung Hoa rồi! Hàng ngàn người Trung Hoa cùng với công cụ khai mỏ Trung Hoa, cùng với công cụ đồng hóa Trung Hoa, cùng với mưu chước Trung Nam Hải đã làm chủ Tây Nguyên rồi! Đất rừng Tây Nguyên, cội nguồn của một trong những dòng văn hóa đặc sắc nhất tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Nay cây rừng Tây Nguyên đã bị tàn phá trống trơ như sa mạc và đất rừng Tây Nguyên đã bị đào bới như bãi bom B52 thì văn hóa Tây Nguyên đã bị triệt hạ tận gốc rồi! Với tôi, Tây Nguyên là căn hầm dưới tán rừng đại ngàn, là con suối cho chúng tôi món canh môn thục những ngày thiếu đói, là góc rừng nơi chúng tôi chôn những đồng đội chết vì sốt rét ác tính, chết vì trận bom bất ngờ dội xuống trong bữa cơm chiều! Báo vừa đưa tin: Người dân thị xã Kon Tum đào móng làm nhà phát hiện hai bộ hài cốt liệt sĩ. Nhờ những vật dụng còn lại cùng với hai bộ hài cốt cơ quan chức năng đã xác định được đơn vị, thời điểm hi sinh, từ đó lần ra tên tuổi hai liệt sĩ! Người Trung Hoa đào bới mênh mông đất rừng Tây Nguyên chắc chắn sẽ gặp rất nhiều những bộ xương liệt sĩ như vậy nhưng họ cũng coi như xương thú rừng, dửng dưng vất bỏ mà thôi! Rước người Trung Hoa vào đào bới bauxite Tây Nguyên là phản bội lịch sử đất nước, phản bội sự sống của dân tộc, phản bội văn hóa Tây Nguyên, phản bội quá khứ, phản bội cả tương lai, phản bội máu những người lính đã chết và phản bội cả những người lính còn sống!
Tôi viết vì nỗi đau khi bị phản bội đó!

Tàu đánh cá Trung Hoa va vào tàu tuần tiễu Nhật Bản trên vùng biển hai nước đang tranh chấp. Thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Hoa bị tàu tuần tiễu nhật Bản bắt giữ. Lập tức cả đất nước Trung Hoa nổi bão táp phản đối Nhật Bản. Chính phủ Trung Hoa quyết liệt làm mọi việc có thể làm đòi Nhật Bản trả người Trung Hoa bị Nhật Bản bắt giữ! Được phía Nhật Bản trả người, chính phủ và người dân Trung Hoa đón ông thuyền trưởng tàu cá từ Nhật Bản trở về như đón người Anh hùng dân tộc. Đó là tư thế quốc gia của Chính phủ Trung Hoa, là nghĩa vụ với dân của Nhà nước Trung Hoa tồn tại bằng tiền thuế của người dân Trung Hoa. Đó là danh dự, phẩm giá người dân Trung Hoa trước thiên hạ. Nhìn cách Chính phủ Trung Hoa thực hiện nghĩa vụ với người dân, nhìn cách Chính phủ Trung Hoa bảo vệ danh dự và phẩm giá chính trị người dân Trung Hoa lại ngậm ngùi đau xót cho thân phận người dân Việt Nam! Dân Việt Nam đánh cá trên vùng biển Việt Nam, bị tàu chiến Trung Hoa xả súng bắn, chín người dân Ngư Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa chết mất xác. Trên biển Việt Nam những năm tháng này cứ lặp đi lặp lại tình cảnh đau xót và tủi nhục: Đội hình tàu chiến Trung Hoa lừng lững lao thẳng vào tàu dân Việt Nam đánh cá. Con tàu mỏng manh của dân nghèo Việt Nam, chiếc vỡ toác chìm nghỉm đáy biển, chiếc bị tàu chiến Trung Hoa bắt giữ! Máy móc trang thiết bị trên tàu cùng cá đánh được bị lính Trung Hoa cướp, người bị lính Trung Hoa bắt giam đòi tiền chuộc! Nỗi đau mất tính mạng, mất tài sản của dân, nỗi nhục quốc thể của cả dân tộc cứ kéo dài hết năm này đến năm khác! Mỗi lần như vậy chỉ có người phát ngôn bộ Ngoại giao xuất hiện thoáng chốc trên đài truyền hình với vẻ mặt bình thản, dửng dưng nói mấy lời phản đối lấy lệ với câu chữ khuôn mẫu muôn thuở!

Dân đóng thuế nuôi bộ máy nhà nước để bộ máy nhà nước đồ sộ với đủ các cơ quan có chức năng chăm lo cho dân, bảo vệ dân. Dân ta còn quá nghèo khổ. Cụ ông 98 tuổi ở Hà Nội hàng ngày vẫn phải đội mưa mùa hè, phơi mặt ra gió rét mùa đông gò lưng đạp xích lô kiếm miếng ăn từng bữa. Cụ bà 76 tuổi ở Khánh Hòa ngày nào cũng phải dậy từ lúc còn tối đất ra bãi biển mò con ốc dạt, chộp con cua lạc kiếm sống. Trên những bãi rác khắp nước, nơi nào cũng có những đứa trẻ suốt ngày bới rác kiếm ăn không được đến trường. Đất nước nghèo như vậy mà quan chức nhà nước cấp cao sống vương giả hơn nhiều quan chức cấp cao nhất ở các nước giàu nhất thế giới!
Nhưng dân ta làm ăn trên biển của ta bị lính Trung Hoa bắn giết thì nhà nước bỏ mặc dân! Dân Việt Nam tập hợp phản đối Trung Hoa sát nhập quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào đơn vị hành chính Trung Hoa thì lập tức nhà nước Việt Nam huy động lực lượng lớn công an hung hãn giải tán, đánh đập, bắt bớ người dân bộc lộ lòng yêu nước! Đó là sự đớn hèn ở phương diện quốc gia! Là sự rẻ rúng danh dự, phẩm giá Tổ quốc Việt Nam! Là sự rẻ rúng danh dự phẩm giá người dân Việt Nam! Một Nhà nước, một Chính phủ như vậy không xứng đáng với lịch sử Việt Nam, không xứng đáng với dân tộc Việt Nam. Nhà nước đó, Chính phủ đó đã đem lại cho người dân Việt Nam hôm nay nỗi đau xót tủi nhục sâu sắc!
Tôi viết vì nỗi đau xót tủi nhục đó!

(còn tiếp)
.
.
.

Phạm Đình Trọng
Chủ Nhật, 21/08/2011

Phạm Đình Trọng
Chủ Nhật, 21/08/2011

Phạm Đình Trọng
Chủ Nhật, 21/08/2011

.
.
.

No comments:

Post a Comment