Wednesday, August 24, 2011

BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM (Nguyễn Thanh Sơn)




Nguyễn Thanh Sơn  -  Tao Bug
August 19, 2011

Năm 1994, về nước, tôi được nhận vào làm thực tập tại tiểu ban Tin Tham Khảo, thuộc Ban Quốc tế của Thông tấn xã Việt Nam (một số bạn hẳn còn nhớ, ở thời điểm đó, hàng ngày Thông tấn xã Việt Nam phát hành hai bản tin tham khảo sáng-chiều có đóng dấu “mật- tài liệu không phổ biến”). Tiểu ban của chúng tôi có mười mấy người, do anh Hà Minh Huệ mới từ phân xã New York trở về làm trưởng tiểu ban (anh Huệ hiện đang giữ chức Phó chủ tịch thường trực Hội nhà báo Việt Nam, Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam). Mặc dù mang tiếng làm việc ở Ban Quốc tế của Thông tấn xã, nhưng công việc của chúng tôi chỉ đơn giản là dịch lại tin tức từ các bản tin của các hãng thông tấn nước ngoài như AP, UPI, Reuter…được chuyển về bằng máy telex (hồi đó chưa có Internet và máy fax cũng rất hạn chế). Cứ đầu giờ sáng, anh Huệ qua phòng telex lấy tin, mang về xé cho chúng tôi mỗi người một mảnh cặm cụi ngồi dịch, sau đó chừng 10h sáng thì nộp cho anh Huệ để làm bản tin chiều, đầu giờ chiều lại nhận tin để dịch, tới 3h30 chiều nộp làm bản tin sáng. Anh Huệ là người thày đầu tiên trong quãng đời nghề báo ngắn ngủ của tôi, người cặm cụi sửa cho tôi từng lỗi dịch sai, từng dấu chấm câu. Tôi còn nhớ, sau nhiều ngày hùng hục làm việc, một buổi chiều, anh Huệ rất hớn hở cầm một tập bản tin tới bàn làm việc của tôi khoe: “tin em dịch được đăng rồi đây này!”. Tôi run bắn lên vì hồi hộp, nhưng khi nhìn thấy bản in thì lại thất vọng tràn trề: toàn bộ bài báo tôi dịch đã bị cắt còn lại đúng năm dòng, thông báo về việc một nhóm cựu binh Mỹ tới bờ biển Đà Nẵng tổ chức lướt sóng!

Suốt thời gian làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, tôi học được hai bài học chính về nghề báo ở Việt Nam. Bài học thứ nhất- đừng làm ngôi sao, hãy viết như mọi người! Tôi rất ngạc nhiên khi những bài báo tôi dành tâm huyết để nghiên cứu, tìm cách diễn đạt đặc sắc lại là những bài báo không bao giờ qua được cửa biên tập, trong khi những bài báo vô thưởng vô phạt, được viết ra một cách qua quít cẩu thả lại được khen ngợi. Chúng tôi thường đùa nhau, cơ quan của chúng tôi giỏi nhất việc vo tròn phong cách viết của mọi người, là cái lò tạo ra những sản phẩm dập khuân. Bài học thứ hai tôi học được sau ba tháng làm việc đầu tiên, khi tôi được anh Huệ biểu dương ở cuộc họp chung ở tiểu ban về thái độ và hiệu suất làm việc. Lý do là thông thường, chúng tôi chỉ phải dịch tin đến 10h sáng, sau đó có thể nghỉ ngơi, đọc báo, uống trà hay tán láo cho đến lúc ăn trưa. Nhưng tôi thường chỉ mất hơn một tiếng để dịch một tin, nên đến 9.30 đã xong phần việc của mình và tiện tay dịch thêm vài tin nữa, kết quả là nhiều khi tới giờ ăn tôi vẫn cặm cụi ngồi làm. Sau buổi họp, mấy chị lớn tuổi hơn nửa đùa nửa thật nói với tôi “này, buổi trưa chị còn phải đi đón con, giặt quần áo, đi chợ, nên cậu đừng có phấn đấu làm chiến sĩ thi đua như thế sếp cứ lấy cậu là làm gương là chết bọn chị”. Hóa ra nếu bạn không muốn vừa phải làm thêm nhiều việc, vừa bị mọi người ghét, thì chỉ viết giống như mọi người chưa đủ, bạn còn phải làm việc giống mọi người nữa. Khi tôi biết cách mỗi buổi chỉ dịch một tin, thời gian còn lại đọc báo, uống trà và tán láo giống như mọi người, không khí trong tiểu ban đối với tôi thay đổi hẳn, thân thiện hơn trước rất nhiều, chỉ có anh Huệ là cười cười nói “mày học nhanh quá”.

Mười bảy năm sau ngày tôi rời khỏi Thông tấn xã Việt Nam, báo chí Việt Nam đã có những thay đổi lớn. Với gần 800 tờ báo và tạp chí, hàng chục đài truyền hình trung ương và địa phương, hơn một trăm kênh truyền hình đang được phát sóng, báo chí Việt Nam, cũng giống như xã hội Việt Nam, đang loay hoay trong một giai đoạn bản lề.

Nói đến báo chí Việt Nam, trước tiên phải nói đến sự khác biệt của nó đối với báo chí ở bên ngoài. Một trong những đặc điểm đầu tiên tôi đã có dịp đề cập ở trên, đó là vấn đề uy tín. Ở những quốc gia mà tôi có dịp tới học tập hay làm việc, báo chí- trừ những tờ báo in hay kênh truyền hình cực kỳ lớn- phần lớn bị coi là “rác rưởi”. Cạnh tranh gay gắt về thông tin, sự hùng hậu của báo lá cải khiến cho sự cạnh tranh trong giới truyền thông trở nên hết sức khốc liệt, và người ta không từ một thủ đoạn nào để có được thông tin. Uy tín và sự tin cậy dành cho phóng viên ở mức đặc biệt thấp, và mỗi một cuộc phỏng vấn đối với lãnh đạo của các thương hiệu hay công ty là một cuộc đấu trí thực sự. Trong khi đó, báo chí Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn trước, được công chúng coi trọng- dù dưới tư cách là kênh phát ngôn chính thức của các cơ quan thuộc Đảng và nhà nước, hay dưới tư cách phản biện của tiếng nói quần chúng lao động.

Trên phương diện phát ngôn chính thức (“là tiếng nói của…”, “là cơ quan ngôn luận của…”-được in rõ ràng trên manchette báo), báo chí Việt Nam thường được chia thành ba nhóm: báo chí nhóm một, báo chí nhóm hai và báo chí nhóm ba.
Nhóm một là những cơ quan báo chí quan trọng nhất như báo Nhân Dân, đài truyền hình Việt Nam, đài phát thanh tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam. Báo chí nhóm hai là báo chí thuộc chính quyền và đảng bộ địa phương hay các tổ chức chính trị xã hội cấp Trung ương như Hà nội mới, Đài truyền hình Hà nội, Sài gòn Giải phóng, Thanh Niên hay Lao Động…Báo chí nhóm ba là các báo, tạp chí hay bản tin còn lại. Tuy có vai trò quan trọng trong việc “định hướng dư luận”, nhưng trừ truyền hình, còn các báo in thuộc nhóm một và hai lại có lượng người đọc ít hơn so với báo chí nhóm ba (tất nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ, ví dụ như báo T.T, tờ nhật báo lớn nhất và có uy tín nhất cả nước, lại chỉ được coi là báo chí nhóm ba).

Chính vì chức năng “tuyên truyền cho các chính sách của Đảng và Nhà nước” cũng như vai trò “định hướng dư luận” được coi là chính yếu, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi trình độ chuyên môn về thông tin của báo chí Việt Nam chưa thể so sánh với báo chí khu vực, chưa nói gì đến báo chí trên thế giới.

Trong một giờ lên lớp, khi tôi đề nghị các sinh viên của tôi (đang theo học năm thứ ba của khoa báo chí trường Đại học Xã hội và Nhân văn) thử viết một tin ngắn chừng hai trăm chữ về thông tin một công nhân bị tai nạn ngã chết trên công trường xây dựng, khai thác thông tin này trên mười hướng khác nhau, tôi rất ngạc nhiên khi tuyệt đại đa số họ không hiểu được thế nào là “khai thác trên mười hướng”, thậm chí chỉ trên khía cạnh một tin vắn thông thường, họ cũng chưa viết được. Thực ra, nếu bạn nhìn vào giáo trình giảng dạy cho sinh viên báo chí, bạn sẽ không thể trách họ được, nhất là khi bạn biết, phần lớn giáo viên giảng dạy tại khoa báo chí lại chưa từng được làm báo theo đúng nghĩa của nó, mà chủ yếu hoặc nghiên cứu về lịch sử báo chí tại các trường đại học thuộc Liên xô cũ, Cu-ba hay Đông Đức, hoặc được chuyển từ khoa Ngữ văn sang. Các tờ báo buộc phải đào tạo lại các phóng viên theo kiểu truyền nghề, từ kinh nghiệm thực tế (như anh C.K của báo S.G.T.T phải tự soạn ra một cuốn sách lấy tên là “Những gì họ không dạy bạn ở trường báo chí” để huấn luyện lại cho phóng viên) nên thỉnh thoảng lại có một đợt sóng trồi sụt về chất lượng của báo chí khi những phóng viên lâu năm nghỉ việc hoặc chuyển sang làm việc ở tờ báo khác.

Báo chí Việt Nam hình thành một số nét đặc biệt khác, mà tôi tạm gọi là “văn hóa” để so sánh nó với báo chí quốc tế. Đầu tiên là văn hóa “báo không thể sai”. Ở các nước khác, trước khi đến được với người đọc, thông tin thường phải trải qua một quá trình kiểm tra chéo nghiêm ngặt để đảm bảo tính trung thực và khách quan của nó, và nguồn tin thường được phân cấp về mức độ tin cậy (nguồn tin cấp một- nhận trực tiếp từ nguồn, được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp hai –nhận trực tiếp từ nguồn, không được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp ba- thông tin nhận qua trung gian, không được tiếp cận văn bản…vv). Trong khi đó, ở Việt Nam, các tờ báo rất ít khi đưa việc kiểm tra chéo thông tin như một qui trình bắt buộc của tác nghiệp báo chí, nên lấy lý do báo sắp ra nhà in, thông tin cần đưa ngay, người ta khá thoải mái trong việc cung cấp các nguồn tin thiếu kiểm chứng. Ngay cả khi đưa tin không đúng sự thật, báo chí Việt Nam cũng rất hiếm khi xin lỗi hay đăng thông tin cải chính- mặc dù luật báo chí có qui định về việc này.

Thiếu sự đòi hỏi nghiêm ngặt về tính chính xác của thông tin sẽ dẫn đến thiếu cạnh tranh gay gắt về thông tin, nên báo chí Việt Nam hình thành một văn hóa “chia sẻ”, trái ngược hoàn toàn với văn hóa “độc quyền” của báo chí nước ngoài. Ở Việt Nam, thông tin có thể được các phóng viên làm việc ở các tờ báo khác nhau chia sẻ với nhau, và các phóng viên ở các tờ báo khác nhau hoàn toàn thoải mái khi cùng ngồi trao đổi hoặc phỏng vấn đại diện của một công ty. Các phóng viên viết cùng một lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục hay y tế hình thành các nhóm chơi với nhau khá thân thiết, và có rất ít cạnh tranh về thông tin giữa họ với nhau. Điều này là trái ngược hoàn toàn với báo chí phương Tây, nơi phóng viên của các tờ báo luôn luôn dè chừng, cảnh giác với phóng viên của các tờ báo khác mà họ coi là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, và hầu như không có chuyện họ lại chơi với nhau theo nhóm. Văn hóa chia sẻ này khiến cho những khái niệm như “ dành riêng cho…” (exclusive…) hầu như ít tồn tại ở Việt Nam, và “đặc quyền tiếp cận” không còn là một công cụ hữu hiệu của quan hệ công chúng (“đặc quyền tiếp cận” là một công cụ của quan hệ công chúng, khi bạn cung cấp quyền tiếp cận thông tin hoặc nguồn tin chỉ dành riêng cho một phóng viên hay một tờ báo, do đó tạo giá trị cho riêng tờ báo hay phóng viên đó). “Văn hóa chia sẻ”, cộng thêm với văn hóa “đừng làm ngôi sao” khiến cho các bài viết thường na ná như nhau, ít có bản sắc riêng của người viết, và đặc biệt khi đã có thông cáo báo chí được soạn sẵn, thì việc các bài báo với nội dung giống nhau xuất hiện trên vài ba chục tờ báo là điều thường xuyên xảy ra. “Văn hóa chia sẻ” cũng khiến cho các tin xấu lan đi rất nhanh, và hầu như rất khó làm cái điều mà nhiều khách hàng của chúng tôi đòi hỏi-“bịt” tin xấu lại không cho phát tán ra ngoài. Khi các phóng viên quyết định “đánh” một vấn đề gì đó, họ cũng thường phát động “chiến tranh tổng lực” hay “chiến tranh trường kỳ” dựa trên sự chia sẻ thông tin trong nhóm.
“Văn hóa chia sẻ” của báo chí Việt Nam lại dẫn đến văn hóa “báo không ăn thịt báo”- báo chí Việt Nam rất e ngại trong việc đưa ra những thông tin ngược lại với thông tin đã được đăng tải trên “các báo bạn”, cho dù biết rằng những thông tin đó có thể không chính xác. Phần lớn trường hợp, họ chỉ dùng thái độ im lặng của mình để phản ứng thông tin sai lệch, mà hầu như không bao giờ trực tiếp đứng ra chỉ trích tính tin cậy hay công khai thách thức tính xác thực các bài báo của đồng nghiệp. Có một sự “ngầm định” khi có ai đó có ý định thách thức văn hóa “báo không thể sai” của báo chí Việt Nam.

Một nét văn hóa nữa chúng ta có thể nhận rõ trong thời gian vừa qua, đó là văn hóa “lề trái” và “lề phải” của báo chí Việt Nam- rất nhạy cảm về mặt chính trị, có các qui tắc và “cấm kỵ” bất thành văn và chịu sự kiểm soát chặt chẽ về mặt nội dung của các cơ quan chính quyền và tổ chức Đảng. Chuyên gia quan hệ công chúng phải nắm được “văn hóa lề phải”: các định hướng tuyên truyền và các chính sách chính trị, xã hội kinh tế trọng tâm, từ đó khéo léo lồng ghép vấn đề của mình cho phù hợp với chính sách đó, đồng thời phải hiểu được “văn hóa lề trái” những mối quan tâm và bức xúc của quần chúng, phản ánh thông qua báo chí, hiểu được ranh giới mong manh giữa hai lề và sự tế nhị của các tổng biên tập khi phải giữ một khoảng cách vừa phải với cả hai lề.

Một đặc điểm nữa của báo chí Việt Nam là văn hóa đồng dạng. Phần lớn các báo hay chương trình truyền hình của Việt Nam có nội dung tương tự như nhau, và không có sự khác biệt quá nhiều về “thương hiệu” báo chí như các tờ T.T, T.N, L.D, N.L.D…Báo chí chuyên ngành ở Việt Nam còn chưa phát triển, nội dung nghèo nàn, chất lượng bài viết không cao và lượng người đọc thấp. Đây là thiệt thòi lớn đối với ngành quan hệ công chúng, vì quan hệ công chúng chủ yếu tác động đến những nhóm đối tượng nhỏ và chuyên biệt (ví dụ như các nhà khoa học, các chuyên gia một ngành khoa học cụ thể, các chính trị gia..vv) mà báo chí chuyên ngành, ở các nước khác, lại là công cụ đắc lực để tác động đến nhóm đối tượng này. Lý do chủ yếu, có lẽ là, thói quen nghiên cứu vấn đề của mình một cách nghiêm túc và khoa học chưa được hình thành ở Việt Nam. Khi các chuyên gia không có thói quen tổng kết những vấn đề mà mình nghiên cứu hay theo dõi, trình bày cho công chúng hay đồng nghiệp của mình dưới dạng các bài viết hay công trình có giá trị thực tiễn, thì sẽ khó có đất cho sự phát triển của báo chí chuyên ngành.

Trong rất nhiều cuộc hội thảo về nghề báo và mối quan hệ giữa quan hệ công chúng và báo chí Việt Nam, có một câu hỏi thường xuyên được nhắc tới, đó là “văn hóa phong bì”. Tôi cố giải thích cho các khách hàng của chúng tôi, những khách hàng bị ràng buộc bới Điều luật về chống hối lộ các cơ quan và tổ chức nhà nước (báo chí Việt Nam, do nhà nước sở hữu và quản lý, nằm trong phạm vi của điều luật này), nguồn gốc của văn hóa này. Năm 1988, khi tôi rời khỏi Việt Nam, tôi đang nhận tiêu chuẩn tem phiếu hạng N (Nhân dân). Tiêu chuẩn này cung cấp cho tôi hàng tháng một khẩu phần là 13 kg gạo (được tăng lên 18 kg khi tôi vào học đại học), 100 gram thịt (có giá trị chuyển đổi sang 200 gram sườn hay 150 gram mỡ), 500 gram đường và 0.5 lít nước chấm. Với các tiêu chuẩn tem phiếu khác (A-B cho cấp Bộ/Thứ trưởng, C cho cấp Vụ trưởng, D-E cho cấp trưởng phòng, chuyên viên, cán sự), khẩu phần có khá hơn, nhưng tựu trung cũng vẫn là một khẩu phần chết đói. Để giúp cán bộ của mình có thể tồn tại mà không suy nhược đến chết, các cơ quan nhà nước phải có “kế hoạch 3”, bằng mọi cách tăng khẩu phần ăn cho cán bộ của mình. Tuy vậy, danh chính ngôn thuận các “quĩ đen” như vậy không được công nhận, và phân chia các quĩ như vậy cũng rất phức tạp. Cách chia đơn giản nhất là ở các cuộc họp, mỗi người dự họp được phát một cái phong bì, trong đó có một số tiền nhỏ. Cứ như vậy, hình thành một thói quen, thậm chí là một văn hóa, đó là khi tới dự các cuộc họp, các đại biểu đều được phát một phần quà nhỏ hoặc một phong bì có tiền. Khi tôi làm việc ở Thông tấn xã, chúng tôi có một quĩ nhỏ, do đóng góp của cán bộ trong ban đang làm việc ở các phân xã nước ngoài, quà của địa phương khi chúng tôi đi công tác..vv tất cả được cho vào một “quĩ đen” được dùng vào các việc hiếu, hỉ, thăm nom người ốm và, chia đều cho các cán bộ của tiểu ban dưới dạng phong bì trong các cuộc họp. “Miếng bít-tết mà quí vị đang ăn trong bữa trưa nay”- tôi thường nửa đùa nửa thật nói với họ-“gấp đôi số thịt mà tôi được ăn trong cả tháng, cho nên đừng giận dữ khi chúng tôi bắt buộc phải tìm cách để tồn tại”. Phần lớn các bạn có lẽ còn nhớ câu nói quen thuộc của thời đó “nhà văn-nhà báo-nhà giáo= nhà nghèo”.

Chính vì hiểu được lý do bắt nguồn của văn hóa đó, nên trong một thời gian dài, tôi không cảm thấy có vấn đề gì khi trong các cuộc họp báo, các phóng viên nhận một phong bì với một số tiền nhỏ. Chúng tôi coi số tiền nhỏ đó là số tiền bù cho chi phí xăng xe đi lại của phóng viên, những thứ chúng tôi biết tòa soạn sẽ không bao giờ hoàn trả ngược lại cho họ. Dù có nhận phong bì đó, phóng viên cũng không có bất cứ một trách nhiệm nào về nội dung bài viết, về thái độ trong cuộc họp báo…vv.

Điều đáng tiếc là, cùng với thời gian, văn hóa phong bì đã bị biến tướng bới một số công ty quan hệ công chúng hay một số khách hàng coi việc “mua bài” của phóng viên là công việc chính của chuyên gia quan hệ công chúng. Các phóng viên đã tức giận kể cho tôi nghe, trong buổi họp báo của một công ty kinh doanh bất động sản, người phát ngôn của công ty đã viết lên bảng số fax của công ty mình và bảng giá của các bài viết- hỡi các phóng viên, hãy fax bài viết của bạn tới cho chúng tôi và chúng tôi sẽ trả tiền cho các bạn dựa vào nội dung ca ngợi của bài viết! Chúng tôi sẽ đếm chữ để trả tiền, các bạn hãy cố gắng lên! Cho dù làm các nhà báo chân chính tức giận, không thể thừa nhận rằng có một số nhà báo đã bị ảnh hưởng, và “phong bì” trở thành nguồn thu nhập chính của họ, đặc biệt là khi tờ báo không đủ sức nuôi sống họ. Cho nên, chúng tôi đã gặp cả hai trường hợp, khi thì có phóng viên kiên quyết không nhận phong bì có số tiền nhỏ kia, lúc lại có phóng viên thẳng thừng hỏi sao không trả tiền cho họ “kiếm chút cháo” khi mà chúng tôi đã lấy tiền từ khách hàng để “có cơm ăn”.

----------------------------

Nguyễn Thanh Sơn  -  Tao Bug
August  22, 2011

Có hai hình ảnh tiêu biểu của báo chí Việt Nam thời kỳ trước, đó là cái loa phường và bản tin khu phố. Tôi còn nhớ cứ mỗi buổi sáng, trong khi các cụ tổ hưu cặm cụi cắm mắt vào đọc mục xã luận trên trang nhất của tờ báo Nhân dân (được dán vào một ô xi măng che bằng lưới mắt cáo), lũ trẻ con chúng tôi lại chen dưới nách các cụ để xem chương trình truyền hình buổi tối ở trang thứ tư. Nếu so sánh hình ảnh của thời kỳ đó với hình ảnh trình bày bắt mắt của các sạp báo hiện nay, khối lượng thông tin khổng lồ trên Internet và số lượng hùng hậu của các kênh truyền hình Việt Nam, người ta có thể cảm thấy khâm phục về sự “tiến bộ vượt bậc” của báo chí Việt Nam trong thời gian vừa qua. Thực tế thì như thế nào?

Giai đoạn “cởi trói” trong thời kỳ đổi mới đã đem lại một sinh lực mạnh mẽ cho báo chí Việt Nam. Trong thời kỳ đó, những phóng sự của các tờ báo T.T, L.D, T.P thậm chí cả V.N hay V.N.T đã góp phần thúc đẩy một xã hội minh bạch hơn về thông tin, có trách nhiệm hơn trong phát ngôn và thực sự hình thành một “quyền lực thứ tư” của công luận. Chính trong thời kỳ ấy, một trong những chủ đề thường được đề cập nhất trong những cuộc thảo luận của giới trí thức Việt Nam là “khi nào ở Việt Nam sẽ có báo chí tư nhân?”. Giới trí thức Việt Nam hi vọng rằng, việc hình thành báo chí tư nhân sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình dân chủ hóa và thể chế hóa xã hội dân sự, tạo thành tiếng nói phản biện mạnh mẽ và qua đó, thúc đẩy sự phát triển về chính trị, kinh tế và xã hội của Việt nam.

Tuy vậy, tháng 11 năm 2006, trả lời phỏng vấn trên báo Nhân Dân về vấn đề báo chí tư nhân, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh Việt Nam sẽ “không cho phép bất kỳ hình thức tư nhân hóa báo chí nào cũng như không để bất cứ ai sử dụng báo chí cho lợi ích cá nhân”. Cuối năm 2009, khi phê duyệt “Đề án qui hoạch báo chí cho đến năm 2020”, Thủ tướng Chính phủ cũng nêu rõ quan điểm qui hoạch là “đảm bảo để báo chí thực hiện tốt chức năng là cơ quan ngôn luận của tổ chức Đảng; cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và diễn đàn của nhân dân; không để tư nhân chi phối hoạt động báo chí; không để các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động báo chí để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Các tuyên bố cứng rắn này lại không hẳn thống nhất với chủ trương của Bộ Thông tin Truyền thông muốn “xã hội hóa” hoạt động báo chí, trong đó có việc cho phép các công ty tư nhân tham gia vào các công đoạn xây dựng nội dung, phụ trách phát hành và tiếp thị cho các tờ báo và tạp chí. Chủ trương này đã dẫn đến việc ra đời của các nhóm, sau này là các công ty tư nhân, tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, phát hành và tiếp thị cho các ấn phẩm, các chương trình phát thanh, các kênh truyền hình, các mạng thông tin và thậm chí, cả các đài truyền hình. Có thể kể đến công ty NVV, công ty SFM, FPT, BHD, DV và sắp tới được hứa hẹn là “người khổng lồ” AVG.

Trừ AVG, được coi là công ty có cơ sở hạ tầng và kế hoach phát triển bài bản, được đầu tư hoàn hảo, ở buổi ban đầu, các công ty tư nhân tham gia vào hoạt động báo chí thường phải chấp nhận hoạt động dưới giấy phép báo chí của một cơ quan, tổ chức nhà nước nào đó, hay nói một cách khác, cho dù họ hoàn toàn khống chế quá trình sản xuất nội dung, điều hành bộ máy phát hành và tiếp thị các sản phẩm truyền thông, họ cũng không thực sự “sở hữu” ấn phẩm đó, và thỏa thuận hợp tác của họ với cơ quan chủ quản của ấn phẩm hay kênh truyền hình này hoàn toàn có thể bị rút lại vào bất cứ lúc nào. Sự “chênh vênh” về sở hữu khiến các công ty tư nhân này chịu áp lực lớn về việc thu hồi đầu tư và khai thác thương mại “ngay lập tức”, nên họ thường quan tâm tới việc thu hút quảng cáo và thương mại hóa các sản phẩm của mình hơn là tạo dựng uy tín thông qua chất lượng bài viết và tăng số lượng phát hành. Hệ quả của vấn đề này là xu hướng “lá cải hóa” hàng loạt các tờ báo, tạp chí, kênh truyền hình, mạng thông tin Internet và tạo ra áp lực “bình dân hóa” thông tin lên các ấn bản hay các kênh truyền hình truyền thống khác.

Báo chí tư nhân, chính vì vậy, ở điều kiện hiện nay, chắc chắn không thể trở thành tiếng nói phản biện mạnh mẽ. Tình thế “danh không chính” khiến họ bắt buộc phải thỏa hiệp cùng với các cơ quan chủ quản, và họ sẵn sàng bỏ qua các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp để đạt được mục tiêu thương mại ngắn hạn (xét cho cùng, họ là các doanh nghiệp tư nhân có công cụ làm ăn là các cơ quan báo chí chứ không phải một cơ quan báo chí có mục tiêu cao cả nào). Sự thỏa hiệp này sẽ tạo cơ hội cho họ tiếp tục tích lũy về mặt tư bản, và sự tham gia của các nhóm lợi ích và các tập đoàn kinh tế tư nhân vốn có quan hệ chặt chẽ với chính phủ sẽ đẩy mạnh hơn nữa quá trình tư hữu hóa truyền thông theo hướng phục vụ lợi ích thương mại của họ, dẫn đến cái mà ta gọi là “sự xuống cấp của đạo đức nghề báo” trong thời gian vừa qua. Nếu như quá trình này tiếp tục được đẩy mạnh, thì hi vọng báo chí tư nhân trở thành một kênh truyền thông mang tính phản biện sẽ càng ngày càng trở nên xa vời.

Rất may là, sự thay đổi mạnh mẽ của công nghệ và các phương tiện truyền thông mới đã đem đến một hi vọng, dù có mờ nhạt, cho báo chí Việt Nam. Một nghiên cứu gần đây nhất của khách hàng của chúng tôi, công ty Yahoo! Vietnam cho thấy, tính tới thời điểm này, có đến hơn 30 triệu người Việt Nam có khả năng tiếp xúc với mạng Internet, và tại bốn thành phố lớn là Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ, lần đầu tiên thời gian của người Việt Nam dành cho Internet đã nhiều hơn thời gian họ dành cho các ấn phẩm. Sự xuất hiện của các mạng xã hội như Facebook, ZingMe, Linkedin…đã thay đổi cách thức người ta tiếp nhận và phổ biến thông tin. Sự tham gia tích cực của người Việt Nam vào các mạng xã hội (trung bình mỗi một người Việt Nam là thành viên của tám mạng xã hội khác nhau, và mỗi một người trong số họ có trung bình là 82 người bạn trên mạng xã hội) đã thúc đẩy sự phát triển của một nền “báo chí công dân”. Chúng tôi thường nói, mỗi một người có một tài khoản facebook, một trang blog trên Yahoo!360 hay thậm chí chỉ một tên lóng trên một mạng thảo luận nào đó đã có thể được coi là một phóng viên. Nếu người đó có một chiếc điện thoại có chức năng chụp ảnh- anh ta đã trở thành một paparazo, còn nếu chiếc điện thoại đó có chức năng quay phim, và anh ta lại có một tài khoản trên YouTube hay Clip.vn, bạn phải coi anh ta là một phóng viên truyền hình rồi đó. Hình thức mạng xã hội cũng cho phép những nhà báo lành nghề và giầu kinh nghiệm, những người không chấp nhận thỏa hiệp với các vấn đề xã hội, chính trị hay kinh tế, tìm được công chúng cho các bài viết của mình. Trang blog của một số người như nhà báo H.D (trang Osin), nhà văn NQL (trang Quê Choa), nhà văn T.H thu hút hàng chục nghìn lượt người xem mỗi ngày- không kém gì một tờ báo trung bình ở Việt Nam.

Cái kẹt lại ở giữa là các cơ quan báo chí truyền thống Việt Nam. Một mặt, nó chịu áp lực sức ép “thương mại hóa” của báo chí tư nhân- cạnh tranh về nguồn thu quảng cáo, “chẩy máu chất xám”, “bình dân hóa” nội dung, cạnh tranh về bạn đọc; mặt khác, nó chịu áp lực của “báo chí công dân”- uy tín nghề nghiệp phải dựa vào thái độ rõ ràng dứt khoát, có chính kiến về các vấn đề chính trị, xã hội hay kinh tế nóng hổi. Đây quả thật là một tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” không dễ gì giải quyết của báo chí truyền thống Việt Nam.

.
.
.

No comments:

Post a Comment