Saturday, June 25, 2011

NGƯỜI DÂN VIỆT TRƯỚC HAI NGÃ ĐƯỜNG (Bảo Giang)




Cuộc khiêu khích của Tàu cộng trên biển đông trong những ngày qua, bỗng nhiên nóng hẳn lên trong lòng mọi người Việt Nam, dù người đó ở trong nước, hay đã mang quốc tịch ngoại. Đi đến đâu, vào bất cứ trang báo điện nào ở hải ngoại cũng chỉ thấy những người Việt Nam bàn tán với nhau về chuyện Tàu lấn trên biển đông. Trước đây thì nó bắt ngư dân Việt, đòi tiền chuộc mạng. Nay thì nó cắt giây cáp tàu Việt Nam để mi muốn trôi đi đâu thì trôi…

Trước những diễn biến này, dân chúng xem ra nóng lòng, bừng khí huyết của cha ông. Những muốn cùng nhau xăn tay áo lên mở lại đường kiếm Lam Sơn mà cứu lấy nước. Nhưng phường quan cán cộng, đệ tử của Lê Chiêu Thống, Hồ Chí Minh xem ra lại lộ hẳn nét vui mừng. Mừng vì nhờ tàu lạ cắt giây cáp tàu Việt Nam mà nhân dân bỗng dưng quên hết mọi tội lỗi, bá đạo của bọn tay sai cõng rắn cắn gà nhà. Chẳng còn ai nhớ gì đến cuộc bầu cử chia phần bịp bợm của nhà nước! Chẳng còn một ai nhớ đến những vụ cán cộng vơ vét tài sản quốc gia, đẩy dân chúng vào đường khốn khổ. Chẳng còn ai nhắc đến những vụ việc nhà nước đàn áp và cướp đoạt tài sản của các tôn giáo nữa. Rồi mừng vì cán cộng nhớn nhỏ lại có dịp lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân thêm lần nưa mà hưởng lộc. Riêng bọn thù nghịch diễn biến hòa bình thì cứ gọi là vào cõi tử! Sự đời qủa có lắm tréo ngoe!

Thật vậy, câu chuyện biển đông đã đẩy những người còn nhận mình là ngưòi Việt Nam, dòng dõi của những Hưng Đạo Đại Vương, Bình Định Vương , Quang Trung, hay con cháu của bà Trưng, bà Triệu… đến trước ngã ba đường. Buộc họ phải chọn lấy một thái độ dứt khoát cho hợp với lòng dân tiếng nước, hơn là thái độ lừng khừng im lặng.

Nhưng trước mắt, một câu hỏi cần đặt ra là, liệu đây có là chuyện khả dĩ thành vấn đề của đất nước, hay là chuyện của cái bánh vẽ?

1. Chuyện khả dĩ thành sự kiện của đất nước. Nếu Tàu cộng lấn chiếm biển đông và từ đây mở ra đầu cầu cho một chương trình dài hạn sẽ sang xâm lấn bờ või Việt Nam vì đã có nhiều hậu thuẫn, từ nhà cầm quyền cộng sản tại Hà Nội đến những cơ sở kinh doanh, khai thác rừng, khai thác bauxite. Hoặc các cơ sở đấu thầu xây dựng hạ tầng tại Việt Nam từ trước đến nay đã mọc rễ, ăn da non vào xương thịt Việt nam. Nay chúng trở thành những cứ điểm hậu thuẫn từ trong nội địa của Việt Nam để hỗ trợ con đường bành trướng của Trung cộng xuống khu vực Đông Nam Á cho nhanh cho chuẩn thì qủa là một đại họa cho đất nước.
Tôi gọi đây là một đại họa bởi lẽ. Trước đây, Lê Chiêu Thống vì muốn bảo vệ quyền lực của mình đã cõng rắn cắn gà nhà, mang bao tai hoạ cho đất nước. Nay lại đến Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản thì cái tai họa ấy xem ra còn khủng khiếp hơn. Khủng khiếp hơn vì chính cộng sản đang là kẻ nắm quyền và đã tạo cho Trung cộng có rất nhiều cơ sở ở Việt Nam. Mới có một cái tròng Việt cộng dân ta đã sống dở chết dở, nay thêm cái tròng Trung cộng nữa thì ngưòi dân ta thở làm sao đây? Trước tình thế này, người dân Việt phải xử trí ra sao? Liệu có phải là lúc cần bày tỏ ý kiến của mình một cách rõ ràng, dứt khoát về cái vai trò gian dối, bá đạo, bán nước buôn dân của tập đoàn lãnh đạo cộng sản hay không? Hay là chín bỏ làm mười, bỏ nội thù để chống ngoại xâm?

2. Trường hợp đây chỉ là những phương cách làm nóng tình hình để lừa dối đồng bào như chúng đã từng lợi dụng lòng yêu nước của dân ta từ trước đến nay thì sao? Ai cũng biết, sau những cuộc làm nóng này, lại có thêm những hiệp định, hiệp thương khác để chúng ngã giá lòng trung thành của phe cánh này, phe cánh khác nằm trong cái tổ đầu nậu ở Hà Nội với quan thày Tàu cộng? Rồi vòi vĩnh, kể công: “Các Ngài thấy đó, cái giống dân này không dễ khuất phục đâu, chúng tôi phải điều những ngưòi này, ngưòi này vào những công tác này… cho kẻ kia nghỉ, ra đi… Lại phải chi thêm về khoản này, khoản khác thì may ra mới tạm yên…”. Cứ thế, lòng yêu nước của dân ta tiếp tục bị chúng lợi dụng và đem ra ngã giá cho sinh hoạt riêng của phe nhóm, như chúng đã từng làm qua những vụ Hoàng Sa, Trường Sa, hiệp thương biên giới, cuộc chiến 1979.
Kết qủa, rượu thưởng thí, tiền mua, chiếm đất, mượn đường của ngoại bang cứ ban cho các thái thú lãnh đạo đảng và nhà nước Việt cộng ngày thêm no say. Rồi phần tài sản riêng thì chất cao như núi tại ngân hàng và các cơ sở ở hải ngoại, trong lúc dân chúng lầm than đứng bên bờ vực thẳm làm dân oan. Không nhà, không tài sản, không có mảnh đất để làm ăn. Có đi làm công thì cũng bị cán bộ nhà nước bóc lột đến tận xương tủy qua quốc sách tham nhũng, bao cấp từ trên xuống dưới. Như thế, liệu chúng ta có nên biễu tỏ lòng yêu nước trong những vụ làm nóng này, để giúp vốn cho nhà nước Việt cộng lợi dụng nữa hay chăng? Hay chúng ta nên dứt khoát một lần để cứu lấy quê hương bằng cách:
- Lấy sức Tàu diệt Việt cộng. Hợp lòng dân, đuổi giặc Tàu.

1. Lấy sức Tàu, diệt việt cộng
Đây chưa chắc là một cách hay. Tuy nhiên, không phải là một sách lược mới. Nếu Lê Chiêu Thống, Hồ Chí Minh không rước quân Tàu sang dày xéo quê hương Việt Nam, cái thời tệ hại dưới sự thống trị của họ có thể còn kéo dài hơn. Bởi lẽ, vua Quang Trung chưa dễ có cơ hội, khơi động toàn thể sức mạnh, sức sống của người dân để kéo binh ra bắc diệt Mãn Thanh, làm nên chiến công vang dội cho đất nước. Theo đó, cứ để cho kẻ tay sai Hồ Chí Minh đưa Tàu cộng sang. Khi Tàu đã nhập nội là Việt cộng tự nó không còn lý do tồn tại. Nói cách khác, khi đó cái bạo tàn của chúng đối với nhân dân cũng không còn chỗ đứng. Trái lại, chúng sẽ bi hủy diêt trong tay Tàu, cũng như từ lòng dân Việt. Lúc ấy, chúng ta cũng chẳng cần phải hỏi thăm nhau về một lãnh tụ nào sẽ xuất hiện để cứu dân. Bởi vì, địa linh sẽ sinh anh kiệt. Thời nào thì cũng có những đấng anh hùng xuất hiện để cùng toàn dân cứu nước, đuổi kẻ xâm lăng ra khỏi bờ cõi Việt Nam. Xây dựng lại một nước Nam trong thái bình tự chủ. Đây có thể là phương cách phải chấp nhận thương đau trước để sau có ngày mai, có đoạn kết tốt đẹp cho dân cho nước. Thương đau, nhưng nó là một thái độ, không phải là sự lẩn tránh.
Sở dĩ tôi viết thẳng ra điều này là vì tin chắc rằng: Tình yêu quê hương không bao giờ chết ở trong lòng người Việt Nam, dù trong suốt mấy chục năm qua, Việt cộng đã không ngừng tuyên truyền, giáo dục và bảo vệ chủ trương vô tổ quốc, và muốn tiêu diệt lòng yêu nước của đồng bào ta. Nhưng không vì thế mà người Việt Nam sẽ nhắm mắt thuần phục hay chấp nhận cái chủ trương nô lệ này. Trái lại, tình yêu nước của đồng bào Việt Nam lúc nào cũng dâng tràn như ngọn sóng, như sông rộng như biển khơi. Đặc biệt sẽ như ngàn ngàn ngọn thác cuồn cuộn không ngừng nghỉ trong những cuộc chống xâm lăng. Theo đó, dù kẻ xâm lăng ấy là Tầu hay là Tây, dân ta cũng không bao giờ khuất phục! Nói cách khác, dù sông Hồng có khô cạn, Trường Sơn không còn một bóng cây, thì đây vẫn là quê hương ta và kẻ xâm lược không thể tồn sinh trên phần đất ấy.
Bởi vì, còn kia tiếng kèn loa của Hội Nghị Diên Hồng năm nao vẫn thúc dục, chưa bao giờ mờ phai một nét, một chữ trong lòng người dân ta:
“Trước nhục nước nên hoà hay nên chiến? Quyết chiến, quyết chiến.
Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh. Hy sinh, hy sinh!”
Đơn giản qúa. Hào hùng qúa! Khí thiêng của sông núi là cuộc sống, là hồn của dân Nam. Tiếng gọi hỏi kia như là gốc sinh sự trường tồn của dân tộc. Nên lời thề ấy dẫu đã có từ nghìn năm trước, nhưng nghe ra vẫn như vừa mới hôm qua! Điều ấy có nghĩa là tiếng nói, lời gọi lúc nào cũng sống thực ở trong lòng dân ta. Nó như hồn ta. Như hơi thở, như máu thịt của dân ta. Không bao giờ tách rời, lìa nhau. Nhưng tại sao tiếng nói ấy lại sống động và hiện thực trong lòng người như thế chứ? Tôi cho rằng: Thứ nhất, tình yêu quê hương ở trong lòng người Việt Nam lúc nào cũng là lớn nhất, mạnh mẽ nhất, trọn vẹn nhất. Thứ hai, đó là một câu hỏi thật nhất, và câu trả lời cũng bằng chính tiếng nói chân thành nhất. Nó không còn sự lừa dối, đa trá từ người lãnh đạo đến hàng con dân. Từ đó nó trở thành nguồn sinh lực của dân tộc làm rung động đến ngàn cỏ cây, sông núi Việt. Đó là nguồn sinh lực không bao giờ khô cạn, nên có Lê Chiêu Thống thì dứt khoát phải có mùa xuân đại phá quân Thanh!

2. Hợp lòng dân, đuổi giặc Tàu
Lịch sử Việt nam đã từng chứng minh rằng: thế của nhà Trần không mạnh bằng quân Nguyên. Lực lượng của Bình Định Vương xem ra qúa nhó bé trước đám giặc Minh. Và năm ba chục thớt voi của hai bà Trưng đưa vào cuộc đuổi quân xâm lăng, hay lệnh làm nên mùa xuân đại thắng quân Thanh của Quang Trung tưởng chừng như là những ảo mộng trong cuộc chiến. Thực tế lại khác. Đoàn quân nước nhà tuy nhỏ bé, nhưng một lòng quyết tử vì non sông nên đã tạo ra những chiến công kỳ vỹ trong lịch sử. Một đoàn quân Mãn bách chiến từ Á sang Âu. Kết quả, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới khỏi mất mạng tại Vân Nam và mộng cuồng đồ của kẻ xâm lược xuôi nam đã chấm dứt tại biên cuơng này.
Khi cho đoàn quân Tàu ô theo chân Lê Chiêu Thống trong mục đích đặt nền đô hộ ở phương nam, quan quân Mãn Thanh với lực lượng 29 vạn đại binh, có khi nào nghĩ đến cái hờn Đống Đa và Sầm Nghi Đống phải treo cổ mà thác? Rồi Ô Mã Nhi tàn ác là thế, hùng mạnh là thế, nhưng nào có thoát được cảnh nước dìm giữa biển khơi. Phần Vương Thông thì đã sớm qùy gối xin hàng để Bình Định Vương viết nên một trang thư muôn đời bình Ngô cho nước Việt. Sử cũ chưa mờ. Gương xưa chưa hết. Lẽ nào người Việt Nam hôm nay khoanh tay nhìn cảnh quốc phá gia vong?
Một tấc đất của cha ông, ta không rời. Một ngọn cỏ của quê hương, địch không thể chiếm. Đó là hào khí của non sông và cũng là ý chỉ của tiền nhân di chiếu lại cho con cháu. Lẽ nào ta lại quên?
Tuy nhiên, khi buộc phải bước vào giải pháp này, người Việt Nam phải nhìn thấu suốt được một hướng đi dài trước mặt là: Con đường sẽ vô cùng chông gai và gian nan. Bởi vì cùng lúc chúng ta có hai kẻ thù tàn độc nhất trong lịch sử: Việt cộng và Tàu cộng! Điều ấy có nghĩa, ta không thể liên kết với Việt cộng để chống Tàu, để rồi chúng lại phản phúc quay lại triệt cuộc sống của dân ta như sau cuộc kháng Pháp năm xưa. Và dĩ nhiên, cũng không khi nào liên kết với Trung cộng để tiêu diệt Việt cộng. Bởi lẽ, ta sẽ bị chúng nuốt trửng sau đó. Nên thế của ta đã rõ. Hãy để cho cộng sản diệt cộng sản, để cho cái môi hở kia khép kín lại cái răng nanh của Việt cộng. Sau đó là lúc dân ta lên đường đuổi giậc xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Khi ấy, ta không những đã tiêu diệt được kẻ nội thù của dân tộc mà còn đòi lại được cả những tấc đất, ngọn cỏ, sông rộng biển dài của Việt Nam mà Hồ Chí Minh và tập đoàn Việt cộng đã trao bán cho ngoại bang!
Tuy nói cuộc chiến còn nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã có sẵn những nguồn sức mạnh cho bước đường này là: Thứ nhất, xem ra chỉ có thành phần chóp bu lãnh đạo Việt cộng là những kẻ phản dân hại nước mà thôi, còn ngay các đoàn đảng viên của Việt cộng ngày nay, tưởng thuộc về cuộc điều hành của nhóm lãnh đạo này. Nhưng thực tế, họ vẫn là người của non sông Việt. Họ sẽ quay mũi súng, mũi dùi vào những kẻ xảo ngôn, làm thái thú kia vào bất cứ thời điểm nào. Nhất là khi có tiếng gọi mời của non sông. Kế đến, cuộc chống phương bắc của chúng ta không hề lẻ loi. Những thông tin đại chúng và những sự hỗ trợ tinh thần tích cực từ một thế giới yêu hòa bình và chính nghĩa sẽ là một áp lực cực lớn cho kẻ xâm lăng. Có được hai điểm lợi ấy, cuộc chiến mà chúng ta phải bước vào theo chủ trương: Hợp lòng dân, đuổi giặc Tàu, nhất định đạt thắng lợi.

3.Tại sao chúng ta phải chọn giải pháp này?
Rõ ràng, đây là chuyện chẳng đặng đừng. Bởi vì, là người Việt Nam, không một ai không biết đến điều nhân nghĩa. Nhưng sự kiện lập nghiệp, đặt làm nền tảng cho chế độ xã hội chủ nghĩa Việt cộng, lại là một tiền đề mang tính chất sỉ nhục dân tộc Việt Nam: “Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa.”. Theo đó, người dân Việt không thể nào đi chung đường với tập đoàn gian dối, phản dân hại nước và làm tủi nhục cho dân tộc Việt Nam được. Bởi vì:
Tổ quốc là yêu thương, là bao bọc, là chân thật, là thân ái, là an bình. Trong khi đó cộng sản, xã hội chủ nghĩa là gian dối, là tàn bạo, là phi luân, là vô đạo. Nên người yêu tổ quốc sẽ không bao giờ yêu xã hội chủ nghĩa. Và kẻ yêu xã hội chủ nghĩa sẽ không bao giờ biết yêu nước là cái gì. Đó là một lý lẽ rất tự nhiên. Bởi vì kẻ yêu xã hội chủ nghĩa là yêu gian dối, yêu đa trá, yêu vô đạo. Phần những ngưòi yêu nước là yêu công lý, yêu tình nghĩa, yêu nhân bản, yêu thương và đùm bọc đồng loại.
Nói cho dễ hiểu, tình yêu nước của Việt cộng là một thứ tình của một tên cường đạo, máu lạnh, dành cho một goá phụ gìa có tiền của chất cao như núi. Khi gặp, nó không giết bà theo lệ thường. Nhưng nó tổ chức đám cưói với bà. Lớp lớp con cái cháu chắt của bà chống mắt lên mà nhìn “tình yêu” của nó và toàn bộ tài sản của bà vào tay nó mà không nói được một lời. Nó là chồng của bà! Chửi nó, giết nó có khi là lỗi đạo con cháu chăng?
Trong khi đó, tình yêu nước của người Việt Nam với tổ quốc là máu và nước mắt của quân dân miền nam trong cuộc chiến Hoàng Sa năm 1974. Là máu và nước mắt của đồng bào và ngưòi chiến binh Việt Nam trong cuộc chiến biên giới năm 1979. Là lời thét uy vũ của Trần Bình Trọng. Là ngọn roi của Nhị Trưng. Là nghĩa khí của Lam Sơn. Là Đại nghĩa của Diên Hồng. Là tình yêu làm nên mùa xuân, làm nên lịch sử trường tồn của dân tộc Việt.
Như thế, ngay từ định nghĩa, hai cách thức yêu này hoàn toàn trái ngược, đối chọi nhau. Trái nguợc từ hành động đến tư tưởng. Theo đó, kẻ nào sống và thực hành yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa thì đích thực là những kẻ gian trá, vô đạo. Là những kẻ đã hủy diệt đời sống an bình, đạo hạnh và làm băng hoại nền luân lý đạo đức của xã hội. Kẻ đó không bao giời biết đi vào đường công lý, nhân bản và chẳng bao giờ có thể biết yêu tổ quốc, yêu thương đồng loại của mình. Thí dụ một trường hợp điển hình. Hồ Chí Minh có phải là người yêu nước không?
Theo tôi, nếu bảo Hồ Chí Minh là người yêu xã hội chủ nghĩa, yêu cộng sản cho đến chết là hoàn toàn đúng. Nhưng bào Y là người yêu nước và thương đồng bào Việt Nam thì hoàn toàn sai, và có khi là sỉ nhục Hồ Chí Minh đấy.
Sai là vì, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước thì Y đã không bao giờ cúi đầu bái lạy Stalin, rồi viết thư dưới sự chỉ đạo của hai cố vấn Trung cộng, xin phép Stalin để đấu tố giết hại 172.000 người Việt Nam từ 1953-56. Trong đó nhà nưóc công nhận là có hơn 12.6800 người bị giết oan!. Và Y cũng không bao giờ chỉ thị cho Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận chủ quyền 12 hải lý của Trung cộng ở vùng biển Trường Sa, Hoàng Sa vào năm 1958, là phần đất của Việt Nam, trực thuộc quyền kiểm soát của miền nam Việt Nam theo hiệp định Geneve 1954, để di hoạ cho dân tộc Việt Nam ngày nay.
Bạn không tin Hồ Chí Minh là kẻ tàn sát đồng bào, là kẻ buôn dân bán nước, là kẻ phá hủy nền đạo đức căn bản của xã hội Việt Nam ư?
Đó là quyền suy nghĩ của mỗi cá nhân theo tính nhân bản hay xã hội của mình. Phần tôi, chỉ viết lại những sự thật là: Việc bán nước hại dân của Hồ Chí Minh và tập đoàn Việt cộng trước đây người dân Việt Nam chỉ nghi ngờ, không ai biết rõ. Nhưng sau khi văn khố của Liên Sô giải mã, là thư của Minh gởi cho Stalin từ năm 1951 được đưa ra trước ánh sáng. Kế đến là những hiệp thương về biên giới giữa Việt cộng và Trung cộng ký vào các năm 1999, 2000 để Nam Quan, Bản Giốc, bãi Tục Lãm, núi Lão Sơn đã là nhượng địa thuộc bản đồ của Trung cộng thì không còn một ai phải nghi ngờ về chữ yêu nước của Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản nữa. Trái lại, tất cả đều biết rõ, đây là những kẻ cuồng nhiệt yêu xã hội chủ nghĩa và yêu gian trá, vô đạo. Họ không bao giờ là kẻ biết yêu nước, thương nòi giống như họ nói.
Thư đây, xin mời qúy bạn cùng đọc: “Đồng chí Stalin kính mến, Tôi gởi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của đảng Lao Động Việt Nam (tên của đảng cộng sản lúc bấy giờ). Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của hai đồng chí Liu Shaoshi và Van szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này”*
Xin qúy bạn đọc hãy ở yên lặng trong vài giây, đọc lại lá thư này lần nữa đi. Lá thư xin phép giết người Việt Nam của Hồ Chí Minh đấy! Trước là hãy tưởng niệm đến 172.000 ngàn người Việt Nam đã bị Hồ giết trong cuộc cải cách sau lá thư này. Kế đến là nghĩ thử xem, chữ tổ quốc, nghĩa đồng bào Việt Nam có ở trong lòng Hồ Chí Minh hay không? Theo tôi, những ngôn từ tổ quốc là rầt phù phiếm đối với Hồ chí Minh. Với Y, chỉ có một điều là tuyệt đối đi theo con đường xã hội chủ nghĩa để nắm được quyền lực. Ngoài ra, bất kể đến gia đình, tổ quốc và đồng bào của mình.
Nếu Hồ Chí Minh là kẻ cuồng dại yêu mê xã hội chủ nghĩa, không biết đến đồng bào và tổ quốc của mình thì những ngưòi tiếp tục theo con đường của Y lại có chữ đồng bào và tổ quốc Việt Nam trong mắt hay sao? Tôi không tin có chuyện vịt đẻ ra gà !
Trong khi đó, từ tiền nhân ta cho đến đồng bào hôm nay, khi nói đến tiếng yêu tổ quốc, yêu nước là nói đến tấm lòng thuỷ chung của tiền nhân, của đồng bào với quê hương trong ý nghĩa yêu thương, đùm bọc, che chở, bảo vệ nhau trong sự thật, trong công lý, trong cùng màu da, cùng ngôn ngữ. Xa hơn trong cùng bờ cõi, cùng lịch sử. Tất cả đã vì nhau, vì tiền đồ của đất nước mà hy sinh gắn bó để tạo nên nghĩa đồng bào. Tình yêu chân thành ấy, sự hy sinh gắn bó ấy là tình yêu nước. Nói cách khác, chính tình yêu nước của dân ta đã tạo nên hội nghị Diên Hồng, đã làm nên nghĩa khí Lam Sơm và có chung hào khí, chính nghĩa của mùa xuân đại phá quân Thanh. Ai có thể thay đổi được cái ý nghĩa chính vị ấy? Không ai, không kẻ nào có thể thay đổi được ý nghĩa của tình yêu nước.
Sự việc rõ ràng là thế. Nhưng nay, cộng sản từ mấy chục năm qua, ngày đêm vẫn không ngừng nghỉ việc sỷ nhục toàn dân ta bằng một khẩu hiệu màu xương và cơm áo của chúng là: “Yêu tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa”! Phải chăng chúng muốn đồng hoá tiền nhân ta, đồng bào ta cũng yêu sự gian dối, đa trá, vô đạo, bất lương như chúng? Không, không thể nào.
Theo đó, đứng trước những món nghề gian trá của tập đoàn cộng sản Hà Nội, đứng trước tình thế “nóng” ở biển đông hôm nay, người dân Việt ở trong nước không nên nhẹ dạ để rơi vào cái bẫy của tập đoàn Việt cộng giăng ra. Vì biết dân ta yêu nước bằng sự chân thành trong nghĩa đồng bào, chúng muốn ta tự nguyện chui vào lưới để chúng có thêm cơ hội kéo dài thêm ngày tháng xiết cổ, bóc lột dân tộc ta. Trong hoàn cảnh ấy, đồng bào ta thêm nỗi khốn khổ mà cán cộng thì cười sung sướng mãn nguyện. Tại sao?
Tại vì ai cũng nghĩ, chống Trung cộng xâm lấn bờ cõi Việt Nam là một điều nên làm, phải làm. Nhưng trong lúc chúng đóng kịch, ta vì nhiệt tình mà đi biểu tình thì cũng chẳng đi đến đâu. Trái lại, có thể bị chúng bắt để lập công với quan thầy bành trướng. Khi ấy cái họa vẫn quy về cho dân. Theo đó, phải dằn lòng, hãy coi như không có gì xảy ra. Đến khi nước tràn bờ, lòng dân uất hận vì việc “nóng hơn chảo mỡ” ở biên cương, ở trên biển. Nhà nước trước sức ép phải giữ thể diện, giữ phe cánh, sẽ hỗ trợ cuộc tuần hành để làm mặt điều đình. Ta hãy nhân cơ hội mà kéo sập cái chế độ ấy xuống rồi cùng nhau ra biên cương vẫn chưa muộn. Nhưng lúc này, e là chưa rõ thực hư, ta không nên để bị xập bẫy. Bất cứ một người nào vì chống Trung cộng mà bị Việt cộng bắt giữ thì đều là đau thương lắm. Chưa có tổng lực thì đừng thi hành đơn lẻ. Riêng đồng bào hải ngoại, dĩ nhiên, không nằm trong hoàn cảnh này.
Đối với những ngưòi chiến binh trong hàng ngũ quân đội Việt Nam thì sao? Có lẽ hơn lúc nào hết, ngưòi dân Việt Nam muốn nói lên một điều trong tim của mình rằng: Các anh đời đời là ngưòi lính tận trung vì đất nước, vì đồng bào. Tổ quốc và đồng bào Việt Nam đời đời nhớ đến công lao của các anh. Nhưng các anh hãy nhìn lại cuộc chiến của phản bội vào năm 1979, xem nhà nước Việt cộng đã đối đãi với công hy sinh xương máu của các chiến binh ra sao?
Ở đây tôi chỉ thuật lại câu chuyện mà hầu như tất cả các anh đã từng chứng kiến và đồng bào ta đã từng được nghe biết là: Sau cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất của quê hương ấyn ngưòi chết thì không có nấm mồ chôn thây. Ngưòi bị thương, tàn phế thì: đầu đường đại tá và xe, cuối xóm anh lính cụt, qùe xin ăn! Trong khi đó những kẻ bành trưóng đã đền tội vì chuyện xâm lăng, lại được đảng và nhà nước Việt cộng xây dài, dựng bia, lập nghĩa trang với cái tên lừng lẫy “Nghĩa trang liệt sỹ Trung Quốc”. Mà tủi nhục làm sao chứ? Nghĩa trang liệt sỹ Trung quốc lại nằm sâu trong phần đất của Việt Nam, nơi chính đồng đội của các anh nằm xuống để bảo vệ! Và nhục hơn nữa, chỉ mấy năm sau, cả những phần đất của ta đã nằm trong bản đồ của bành trướng qua các hiệp thương, hiệp định biên giới. Riêng hàng quan cán nhớn lãnh đạo thì tiền của vào chất cao như núi ở hải ngoại! Nhìn vào sự việc, các anh nghĩ sao? Nếu như nay mai các anh lại trở thành những quân cờ thí cho những hiệp định, hiệp thương mới sẽ mang tài lộc về cho quan cán lãnh đạo thì sự hy sinh ấy có đáng không và có phải vì nước vì dân hay không? Tôi đoán là không!
Để tránh bớt những bất hạnh này, tôi đề nghị: Nếu bảo: “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” là đúng thì cứ để cho cha con Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh. Nguyễn Minh Triết, Lê Khả Phiêu, Phạm Quang Nghị, Nguyễn Thế Thảo, Trương Tấn Sang… vác súng đạn ra biên cương mà đánh nhau với Tàu cộng để thể hiện lòng “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” của họ đi. Còn phần nhân dân và quân đội Việt Nam thì xin đừng dính gì vào vụ việc này.
Bởi lẽ, đồng bao ta, quân đội của ta là những người yêu nước, thương nòi, sẵn sàng chết cho quê hương này, nhưng không một ai trong chúng ta yêu gian dối, yêu vô đạo, yêu xã hội chủ nghĩa. Nên hãy nhường công chống xâm lăng cho họ vậy! Phần các anh và đồng bào ta thì sẽ đi sau: Hợp lòng dân, đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, rồi xây dựng lại một nhà Việt Nam mới trong Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lý, Độc Lập sau.

4. Có một giải pháp nào khác hay không?
Có. Có một phương cách khác tốt đẹp hơn, (đẹp như mộng) có thể nói, đó là phương cách duy nhất đem lại cho muôn người, muôn nhà và làm cho cả nước đổ ra đường, tràn ra phố reo vui trong lệ mừng. Hơn thế, còn làm cho tiếng reo vui xóa tan đi mọi hận thù, oán cừu, lau khô mọi giọt đắng đau thương. Hay làm cho tiếng reo vui tan vỡ giữa trời, quyện vào cỏ cây, lòng đất. Lên tận đỉnh núi, vươn ra mãi biển rộng, sông dài. Rồi truyền vào dòng sử xanh là: Đảng cộng sản Việt Nam cùng với những lãnh đạo của nó đứng lên, nhận trách nhiệm, xin lỗi quốc dân vì những sai lầm của cộng sản đã tạo ra muôn nỗi thống khổ cho dân tộc Việt Nam trong suốt 80 năm qua.
Cách riêng, nhà nước xin lỗi thân nhân của những người Việt Nam đã bị Việt Minh giết hại trong cuộc chiến, hay giết tập thể trong cuộc cải cách ruộng đất. Rồi xin lỗi những thân nhân, những ngưòi đã hy sinh trong cuộc kháng Pháp vì lý tưởng tự do, nhưng đã bị Việt Minh lợi dụng và đưa đất nước vào hệ thống cộng sản toàn cầu.
Xin lỗi người dân miền nam vì nhu cầu cộng sản toàn cầu, đảng cộng sản đã đẩy đồng bào cả nước vào cuộc chiến tang thương trước năm 1975. Xin lỗi những người còn sống, hay thân nhân của những người đã bị Việt cộng giết hại ở Huế vào năm 1968. Rồi xin lỗi vì những sự việc sai lầm trong cách đối xử với đồng bào miền nam và với những binh lính, sỹ quan trong quân đội của miền nam Việt Nam sau 30-4-1975.
Xin lỗi các thế hệ trẻ vì đảng cộng sản đã đưa vào học đường một nền văn hóa vong bản cộng sản với mục đích tiêu diệt dần mòn nền văn hoá đạo đức làm người đặt trên nền tảng Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín.
Xin lỗi các tôn gíao vì nhà nước cộng sản theo đuổi chủ trương vô tôn giáo nên đã đập phá các nhà thờ, nhà chùa rồi chiếm đoạt nhiều tài sản của các tôn giáo. Xin lỗi các tôn giáo vì đảng cộng sản đã cài cắm người vào trong các chùa, các nhà thờ để phá hoại các sinh hoạt thuần túy tôn giáo. Tệ hơn thế, còn móc nối, kết nạp một số các thượng toạ, đại đức, linh mục vào hàng ngũ cộng sản để phục vụ cho chủ trương phá hoại nền luân lý, đạo đức của các tôn giáo.
Cũng xin lỗi đồng bào đã vì cộng sản mà phải bỏ nước ra đi, trong đó có nhiều người đã bỏ mình ngoài biển khơi hay trên đường vượt biên.
Cuốì cùng, tuyên bố giải thể chế độ cộng sản và các cơ cấu sinh hoạt của nó trên toàn cõi Việt Nam như là một phương cách đền bù cho quốc dân Việt Nam. Nhưng tạm thời phải điều hành cơ cấu hành chánh để bảo vệ an toàn cho đời sống nhân dân trong cuộc chuyển tiếp …
Được lần thức tỉnh như thế có ai không vui, có ai không mừng? Khi ấy, từ xin lỗi chẳng phải là đau thương, xấu hổ. Nhưng vượt đường trở thành một biểu tượng của cao qúy của yêu thương của lễ nghĩa của lương tâm, của trách nhiệm. Hơn thế, nó trở thành tiếng nói tự tin trong giao tình dân tộc và có đủ khả năng dựng lại niềm tin, tập hợp được sức mạnh của toàn dân đi tới, hơn là sự việc chỉ xoa dịu những thương đau. Rồi nó giúp người dân Việt nhìn vào nhau, định vị lại từng công việc của mình, của đất nước một cách hoàn chỉnh hơn. Nó mở ra một cánh cửa mới, đưa dân nước ta vào một cuộc sống mới. Một cuộc sống mà ở nơi đó con người sẽ tìm ra được ý nghĩa của bao dung, của đùm bọc, của nghĩa đồng bào để cùng nhau xây dựng một xã hội Tự Do, Dân Chủ trong Công Lý và Nhân Bản trong ước vọng đem lại thịnh vượng ấm no và hạnh phúc cho người dân. Được như thế thì ai không mừng, nước nào không vui? Lịch sử nào không ghi công?
Về mặt tiêu cực, việc xin lỗi ấy cũng có khả năng xóa mờ đi những tàn tích đau thương, xóa đi những dấu vết hận thù trong lòng người dân do chế độ này đã gây ra. Hơn thế, tính bao dung, nhân bản của người dân Việt còn bảo đảm cho sự an bình của những cá nhân trong guồng máy của chế độ, dù họ ở lại hay ra đi. Nhưng trên hết, họ cứu được chính bản thân và cứu được gia đình và cứu được dân nước. Để từ đây, đất nước ta không còn phải làm nô lệ cho chủ nghĩa vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc.
Như thế, việc xin lỗi tưởng là một bất cập, thực tế lại là một công nghiêp lớn với đất nước. Nó là tiếng nói chuyên chở trọn vẹn ý nghĩa mà tất cả mọi người đang trông đợi ở nơi những con người cộng sản còn nhìn ra ánh sáng của chân lý, của niềm tin cho đất nước lên tiếng. Nó như tiếng gọi của Diên Hồng để gắn, kết toàn dân lại thành một khối không rời. Để Hồng Hà có cạn, Trường Sơn không còn cây cỏ thì đây vẫn còn đoàn người dân Nam vì nước, vì sự trường tồn và tự chủ của dân tộc mà tiến bước.
Nhưng ở chiều ngược lại của vòng kim này, bản án mà nhân dân Liên Sô dành cho Stalin chắc không phải là điều hạnh phúc cho cộng sản, của nhân dân Iraq dành cho Sadam, của Libya dành cho Gadahfi… là cái giá cho kẻ độc tài. Cộng sản Việt Nam cũng không có ngoại lệ nếu như họ tiếp tục con đường của Lê Chiêu Thống, chối bỏ bản ngã dân tộc để làm nô lệ cho ngoại bang. Khi ấy, người dân Việt sẽ chẳng còn cách lựa chọn nào ngoài một bài tính: Dùng thuốc chuột để diệt chuột.

© Bảo Giang
© Đàn Chim Việt

.
.
.

No comments:

Post a Comment