Saturday, May 28, 2011

TRẦN CÔNG TRỤC : "TRUNG QUỐC ĐANG ĐE DỌA AN NINH CỦA CẢ KHU VỰC" (VnExpress)



Nguyễn Hưng phỏng vấn Trần Công Trục
Thứ bảy, 28 Tháng năm 2011, 21:00 GMT+7

'Việc Trung Quốc xâm phạm lãnh hải, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) là hành động trắng trợn. Những hành động như vậy đe dọa an ninh của cả khu vực", ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ nói.


- Ông đánh giá như thế nào về việc 3 tàu hải giám của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của Việt Nam và cản trở hoạt động của PVN ngày 26/5 vừa qua?
- Xét về khía cạnh luật pháp quốc tế, hành động này là sự vi phạm hết sức ngang ngược, trắng trợn Công ước về luật biển 1982 mà Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên. Vùng biển này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền ven biển của Việt Nam, không liên quan gì tới vùng chồng lấn hay tranh chấp.
Trước đây cũng đã có những lần tàu Trung Quốc vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, áp sát, gây khó khăn thậm chí đe dọa cho các tàu thăm dò dầu khí, tàu nghiên cứu khoa học của Việt Nam.

Tàu hải giám Trung Quốc mang số hiệu 84 vi phạm lãnh hải của Việt Nam. Ảnh: TTXVN.

- Trong hoàn cảnh các nước ở khu vực tuyên bố không làm phức tạp tình hình biển Đông, hành động này từ phía Trung Quốc cho thấy điều gì?
- Thực ra, tôi không ngạc nhiên về việc này. Bởi các tàu của Trung Quốc đã tiến hành các hành động xâm phạm có hệ thống từ lâu. Tùy tình hình, năm nào họ cũng có những hoạt động đơn phương tại các vùng biển mà họ tự cho là "ao nhà" của mình.
Nhìn rộng hơn đây là cả chiến lược nhiều mặt của Trung Quốc. Về mặt văn bản pháp lý, Trung Quốc thể hiện dụng ý mở rộng phạm vi kiểm soát hầu hết diện tích biển Đông bằng các văn bản, sắc lệnh, tuyên bố. Như việc họ ra các luật lãnh hải 1958 có nói Tây Sa, Nam Sa (tức là cách gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) là của Trung Quốc. Sau này, những năm 1970, 1980 họ ra luật tuyên bố về đường cơ sở trong đó xây dựng đường cơ sở ở khu vực quần đảo Trường Sa; rồi đưa ra các quyết định hành chính như thành lập huyện Tam Sa, tung ra các luận điệu về chủ quyền trên biển như đường yêu sách 9 đoạn hay còn gọi là "đường lưỡi bò"...
Về mặt ngôn luận, họ lợi dụng mọi diễn đàn quốc tế để giành được sự công nhận của quốc tế về chủ quyền trên biển Đông. Về hành chính có các sắc lệnh như cấm đánh bắt hải sản hàng năm ở khu vực hoàn toàn thuộc chủ quyền của mình.
Năm 2009, khi Việt Nam gửi đăng ký về ranh giới rìa ngoài của thềm lục địa lên Liên Hợp quốc thì Trung Quốc mới chính thức ra một công hàm trong đó lần đầu tiên công bố có "bản đồ đường lưỡi bò".
Về các hoạt động quân sự trên thực địa, họ đều tính toán có thời điểm nhạy cảm chính trị hay căn cứ tình hình trong khu vực để từng bước chiếm đóng các nơi họ bước chân tới. Nghiêm trọng hơn nữa, gần đây họ có các hoạt động ngăn chặn, phá hoại việc nghiên cứu, thăm dò của các quốc gia trong khu vực này như Philippines ở Bãi Cỏ Rong, các vùng thềm lục địa của Việt Nam...
Với cách làm đó hoàn toàn dễ nhận thấy Trung Quốc đang tính toán những bước tiếp theo để hợp thức hóa, biến tham vọng chiếm 80% diện tích biển Đông thành vùng biển của họ, theo đúng cái mà họ đưa ra bằng "bản đồ đường lưỡi bò".

Cáp thăm dò của tàu địa chấn Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc trắng trợn xâm phạm chủ quyền Việt Nam phá hoại. Ảnh: TTXVN.

- Theo ông, khi đã tham gia Công ước, tàu Trung Quốc căn cứ vào đâu để cho mình quyền xâm phạm vào lãnh hải của Việt Nam?
- Trung Quốc tham gia Công ước và luôn nói rằng tôn trọng Công ước, đàm phán trên cơ sở Công ước. Tuyên bố như vậy nhưng trong thực tế họ hoàn toàn làm ngược lại. Họ lý luận rằng, họ căn cứ Công ước, vận dụng văn bản này với xuất phát điểm là Hoàng Sa, Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa) thuộc quyền của họ. Vì thế họ có quyền mở rộng vùng biển quanh các quần đảo này.
Rõ ràng về mặt luật biển thì đây là sự vận dụng sai lầm, đầy tham vọng chủ quan với mong muốn độc chiếm biển Đông. Tôi từng tham gia nhiều hội thảo với các nhà khoa học thì họ đều nói đây là một yêu sách phi lý, không có căn cứ một tiêu chuẩn quốc tế nào để hình thành đường biên giới không rõ ràng. Các nước phản đối nhưng họ vẫn làm.

- Vậy với trường hợp cụ thể lần này, khi bị tàu hải giám Trung Quốc cản trở phá hoại, Việt Nam được phép làm gì để bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình?
- Tôi nghĩ việc Việt Nam kịp thời lên tiếng về ngoại giao, đối nội, đối ngoại để thể hiện chủ quyền như vừa rồi là rất nên làm. Chúng ta cũng cần gửi lưu chiểu tại Liên Hợp quốc, công bố tất cả bằng chứng vi phạm này cho cả thế giới biết, đưa ra các cơ quan tài phán quốc tế, tòa án luật biển của Liên hợp quốc.
Còn cụ thể trước hành động xâm phạm chủ quyền, xâm phạm an ninh và phá hoại lợi ích kinh tế, quốc gia ven biển nào cũng đủ quyền để sử dụng sức mạnh tự vệ. Chúng ta có quyền bắt, xử phạt các tàu vi phạm, hành xử theo đúng quy định pháp luật. Ở mức cao nhất có thể dùng đến lực lượng quân sự để bắt giữ các tàu đó hoặc xua đuổi. Đây là các hành động tự vệ chính đáng chứ không phải chủ động gây xung đột. Như năm 1988 khi Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm một số bãi cạn trên quần đảo Trường Sa thì hải quân chúng ta đã chiến đấu và hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước.
Tất nhiên chủ trương của Việt Nam là hòa bình, không bao giờ muốn dùng vũ lực nhưng nếu như buộc phải dùng thì ta cũng có thể cân nhắc. Điều này có thể tham khảo cách làm của Malaysia hay Philippines gần đây khi dùng máy bay hoặc các lực lượng vũ trang ra xua đuổi tàu Trung Quốc xâm phạm. Rõ ràng nói về quyền để tự vệ, để đảm bảo an toàn và lợi ích chính đáng của quốc gia thì không ai cấm mình sử dụng sức mạnh vũ lực được.

"Xét về khía cạnh luật pháp quốc tế, hành động của tàu hải giám Trung Quốc là sự vi phạm hết sức ngang ngược, trắng trợn Công ước về luật biển 1982 mà Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên". Ảnh: N.H.

- Theo ông, hành động của Trung Quốc ảnh hưởng như thế nào đến an ninh của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt các nước chung biển Đông?
- Đây là câu hỏi mà nhiều nước suy nghĩ khi Trung Quốc liên tục có nhiều hành động để biến tham vọng của mình thành sự thực. Điều đó gây ảnh hưởng và đe dọa đến an ninh, quốc phòng chiến lược quân sự mà còn về mặt kinh tế, dân sự của các nước trong khu vực.
Đó là chưa kể nó sẽ ngày càng gây cản trở đối với một trong những tuyến hàng hải quan trọng nhất trên thế giới qua biển Đông. Rõ ràng nếu việc này tiếp diễn thường xuyên và không được xử lý khéo léo thì khó tránh khỏi xung đột. Tôi cho rằng, các nước trong khu vực cần có tiếng nói thống nhất trước những bước tiến hết sức trắng trợn lần này của Trung Quốc.
Lô 148 mà tàu Bình Minh 02 đang thăm dò hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Vị trí cáp thăm dò bị phía Trung Quốc cắt chỉ cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên 116 hải lý, tức là còn 84 hải lý nữa mới đến ranh giới 200 hải lý.

Nguyễn Hưng thực hiện
.
.
.

No comments:

Post a Comment