Saturday, April 30, 2011

VIỆT NAM - NHỮNG NGHỊCH LÝ LỊCH SỬ Ở THẾ KỶ 20 [1/3] (Nguyễn Xuân Phước)

28-04-2011

Những Nghịch Lý Lịch Sử của Thế Kỷ 20 Và Hành Trình Đi Tìm Tính Chính Thống Lịch Sử ở Thế Kỷ 21

Ai yêu nước mà giam người yêu nước
Ai lấy ngục tù để giết chết tự do
Ai rước ngoại nhân bằng vạn tiếng hoan hô
Ai nô lệ mà tưởng mình tự chủ.


(không nhớ tên tác giả – gặp trong trại tị nạn Thái Lan)

Để giới thiệu - Không có một logic nào có thể giải thích được những nghịch lý lịch sử Việt Nam của thế kỷ thứ 20. Chỉ có sự nhận thức về những nghịch lý lịch sử mới có thể hiểu được dòng lịch sử kỳ lạ nhất trong chiều dài 5,000 năm lịch sử của dân tộc.

Lòng yêu nước không đóng khung trong một đảng phái hay trào lưu lịch sử nào mà nó biến thiên không chừng. Yêu nước biến thành tay sai và tay sai biến thành yêu nước. Nhưng tay sai vẫn có thể vĩnh viễn là tay sai, và yêu nước vẫn mãi mãi là yêu nước. Và thêm vào đó, xuất hiện thành phần yêu nước giả, thành phần cơ hội, yêu nước ở hình thức, vong thân ở nội dung. Trong tay sai có yêu nước, trong yêu nước có tay sai, trong yêu nước có cơ hội, v.v…

Đi tìm hồn sử

Thế kỷ thứ 20 là trang sử phức tạp nhất trong dòng lịch sử Việt Nam. Tính phức tạp của thế kỷ 20 bắt nguồn từ những biến động lịch sử liên tục suốt 500 năm qua.

Cuối thế kỷ 15, địa lý Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông được mở rộng đến kinh đô Đồ Bàn. Cuộc nam chinh của Lê Thánh Tông đã chấm dứt hoạ xâm lăng của Chiêm Thành và đồng thời sát nhập Chiêm Thành vào lãnh thổ Đại Việt. Lê Thánh Tông tiếp tục phát triển công nghệ quốc phòng được xây dựng từ cuối đời nhà Trần, khuyếch trương dưới thời nhà Hồ và được Lê Thái Tổ khai dụng để trở thành sức mạnh quân sự trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh. Nông nghiệp và công nghệ quốc phòng trở thành nền tảng kinh tế cho việc phát triển quốc gia. Sức mạnh kinh tế và quân sự của Đại Việt đã ảnh hường đến tận Thái Lan, Miến Điện, bán đảo Malacca.(1)
Nhưng sau Lê Thánh Tông, nhà Lê suy sụp. Đất nước bắt đầu một chuỗi nội chiến khốc liệt. Từ biến động cung đình đưa Mạc Đăng Dung lên ngôi, đến cuộc chiến tranh Lê-Mạc, sự thành lập chính quyền vua Lê chúa Trịnh, đến chiến tranh Trịnh Nguyễn, cuộc nam tiến của chúa Nguyễn mở rộng địa lý Đại Việt đến Cà Mau, đến thời kỳ Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đến thời kỳ Quang Trung đại thắng quân Thanh, đến giai đoạn anh em Tây Sơn đánh nhau, rồi chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh, đến thời kỳ Gia Long thống nhất giang sơn, rồi đât nước bị Pháp thuộc, đến công cuộc kháng chiến chống Pháp, phong trào cần vương, phong trào văn thân, sự hình thành các đảng phái cách mạng, đến thời kỳ độc lập, quốc-cộng phân tranh, thời kỳ Cộng Sản thống nhất đất nước, công cuộc cải tạo xã hội với đấu tranh giai cấp để cộng sản hóa đất nước, rồi đổi mới, đến sự hình thành phong trào dân chủ …

Năm trăm năm thoáng qua như một chớp mắt.

Năm trăm năm lịch sử đó đổ dồn về thế kỷ 20 với một đất nước tan hoang, một dân tộc ly tán. Một đất nước bị mất chủ quyền về tay người Pháp. Một triều đình nhà Nguyễn hấp hối trong đại vận suy vong của dân tộc Việt. Một Việt Nam độc lập ra đời giữa các thế lực quốc tế. Lòng yêu nước, tinh thần nô lệ, ý thức độc lập, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa Mác Lê, cuộc cách mạng vô sản, nghĩa vụ quốc tế, nền chính trị độc tài, khát vọng độc lập, tự do dân chủ, quấn quyện vào nhau đầy nghịch lý để làm nên một Việt Nam thế kỷ 20.

Việt nam bước vào thế kỷ 21 với trái tim rướm máu của hàng bao thế hệ thao thức cho một nước Việt Nam phục hưng, cường thịnh đầy ấp tình tư dân tộc và tình nhân loại.

Từ giấc mơ Quang Trung đến những thao thức của Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đến nỗi bất hạnh của Duy Tân, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, kéo dài đến Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Trần Độ, hoà lẫn với thế hệ Trần Văn Bá, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê và cho đến ngày nay với Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Nguyên Sang, Nguyễn Bắc Truyển, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Đoàn Huy Chương, Trần Khải Thanh Thủy và gần đây là Cù Huy Hà Vũ cùng với bao nhiêu người khác.

Lòng yêu nước như một sợi chỉ xuyên suốt hàng bao thế hệ để làm nên lịch sử cho dân tộc. Và chỉ có thể đứng trên chính mạch lịch sử dân tộc thế hệ chúng ta mới có thể nhận được tín hiệu của sử mệnh, mới nghe được tiếng réo gọi của hồn sử để tiếp nối sứ mệnh lịch sử của cha ông, và để cùng đứng lên làm nên một nước Đại Việt mới của thế kỷ 21.

Phan Sào Nam-Phan Chu Trinh Và Trung Tâm Vận Động Lịch Sử Thế Kỷ 20

Sau khi vua Duy Tân bị bắt đày ra đảo Reunion năm 1916, phong trào chống Pháp chuyển từ Cần Vương sang một giai đoạn mới. Đó là giai đoạn các sĩ phu nho gia và các trí thức tân học yêu nước đứng ra chủ động công cuộc đánh Pháp giành độc lập.

Ở mặt tầng xã hội, quan lại triều đình Huế ở Trung và Bắc kỳ cùng với lực lượng đốc phủ sứ của chính quyền thuộc địa ở Nam kỳ trở thành công cụ tay sai phục vụ chế độ thực dân Pháp.

Trong khi đó một cuộc vận động chống Pháp giành đôc lập được thành hình trong đáy tầng dân tộc. Cuôc vận động nầy chối bỏ giá trị và vai trò lịch sử mặt tầng của triều đình Huế. Sau hoàng đế Duy Tân, trục tâm của lịch sử dân tộc đã chuyển dịch từ triều đình Huế sang phong trào cách mạng chống Pháp. Do đó, cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành trung tâm vận động lịch sử mới và đã làm nên lịch sử Việt Nam ở thế kỷ 20. Vì thế, đứng trên sử quan dân tộc, vua Duy Tân là vị vua chính thống cuối cùng của nhà Nguyễn. Đồng thời tính chính thống lịch sử của triều đình Huế đã bị thay thế bởi công cuộc vận động chống Pháp giành độc lập của đáy tầng quốc dân.
Tinh thần chống Pháp giành độc lập của vua Duy Tân được tiếp nối bởi hai nhà chí sĩ họ Phan: Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Hai nhà ái quốc lớn, sáng rực ở đầu thế kỷ thứ 20 với chủ trương khác nhau trong công cuộc giành độc lập cho nước nhà, nhưng thống nhất với nhau trong tình nghĩa dân tộc Việt, và yểm trợ cho nhau trong công tác cứu nước.

Phan Sào Nam là lãnh tụ tối cao của cách mạng dân tộc Việt. Việt Nam Quang Phục Hội, là tổ chức cách mạng dân tộc đầu tiên có tổ chức, có huấn luyện và kỹ thuật hiện đại, xây dựng được tổ chức trong nước lẫn ngoài nước. Việt Nam Quang Phục Hội với Trần Cao Vân và Thái Phiên là tổ chức đứng đàng sau cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân.

Phan Chu Trinh là cha đẻ của phong trào dân chủ và dân quyền tại Việt Nam. Ông đã gieo những hạt giống dân chủ đầu tiên tại Á Châu trước gót giày xâm lược của Tây Phương. Ông là một trong những học giả Á Châu đầu tiên chủ trương đấu tranh giành độc lập bằng con đường bất bạo động. Mãi những thập kỷ sau tại Ấn Độ mới xuất hiện một Gandhi quãng hoá phương thức đấu tranh mới lạ đó.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã mở ra bước ngoặc của dòng lịch sử và vạch ra con đường sống mới cho dân tộc khi triều đình Huế trở thành tay sai cho thực dân Pháp. Khi toàn dân đứng lên hưởng ứng phong trào chống thuế cắt tóc ngắn ở Quảng Nam, vua quan triều đình Huế đứng về phía thực dân Pháp chém ngang lưng nhà cách mạng Trần Quí Cáp, xử trãm Trần Cao Vân và Thái Phiên. Người vợ trẻ của Thái Phiên đã lấy vạt áo dài hứng đầu chồng phóng lên ngựa chạy trốn truy kích của quan quân triều đình, để đầu chồng không phải bị triều đình đem về bêu ở xứ Quảng.

Bao nhiêu bi kịch đẫm máu đã xảy ra trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp mà những người yêu nước đã bị triều đình Huế và thực dân Pháp đàn áp. Chính những dòng máu đó của đáy tầng Việt đã phủ định giá trị chính thống của triều đình Huế và chính những dòng máu yêu nước đó đã viết nên trang sử mới của thế kỷ 20.

Sự phân hóa của giòng cách mạng Việt

Công cuộc kháng chiến chống Pháp không phải chỉ đối đầu với người Pháp và cả một hệ thống chính quyền do những người Việt làm tay sai từ nam đến bắc. Đặc biệt, dưới chế độ bảo hộ ở trung và bắc kỳ, thực dân Pháp có thêm guồng máy chính quyền từ trung ương đến địa phương của triều đình Huế làm trợ thủ. Cho đến đầu thế kỷ thứ 20 hệ thống cai trị của Pháp đã có những dòng họ Việt Nam nhiều đời trung thành với chế độ thực dân và làm cho nền móng cai trị của thực dân vững vàng hơn. Chính vì thế, công cuộc kháng chiến càng ngày càng gian nan.

Từ đầu thế kỷ thứ 20 các nhà cách mạng Việt Nam đã tìm đường ra nước ngoài để vận động thế giới tìm đường giải phóng đất nước. Phong trào Đông Du tuyển lựa các thanh niên ưu tú gởi qua Nhật Bản để được huấn luyện. Một số thanh niên tìm đường xuất dương sang Pháp. Những thanh niên trẻ tuổi thế hệ 1910, 1920, 1930 phải đối diện với một thế giới tràn đầy những trào lưu tư tuởng triết học với mô hình chính trị và xã hội mới. Từ cuộc cách mạng Tân Hợi của Tôn Văn 1911, đến cuộc cách mạng Nga 1917, sự nổi dậy của chế độ Quốc Xã ở Đức, cùng với di sản của cuộc cách mạng dân chủ Mỹ và dân chủ Pháp. Bên cạnh đó, họ phải chứng kiến một Nhật Bản thay đổi từ một đất nước hiền hoà hiếu khách thành một đất nước quân phiệt hiếu chiến, hiếu sát sau khi công cuộc hiện đại hoá thành công. Họ choáng ngợp, bất ngờ trước những khám phá mới.

Người thanh niên Nguyễn Tất Thành mới cầm bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và dân tộc thuộc địa” của Lênin khi ngồi một mình trong buồng, chẳng biết mô tê gì về chủ nghĩa cộng sản, tiếng Pháp chưa rành, tiếng Nga chưa biết, mà đã cho đấy là sách lược duy nhất để giải phóng đất nước.(2) Và rồi chỉ có thế mà một số thanh niên lao đầu vào chủ nghĩa Cộng Sản. Họ không biết cái chủ nghĩa ấy có ngày sẽ đưa đất nước vào quỹ đạo của thế giới của những tay đồ tể giết đồng loại kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại, và có ngày hàng trăm ngàn đồng bào ruột thịt của mình sẽ bị giết vì chính bàn tay của mình. Họ cũng không ngờ có ngày họ tôn thờ tội ác giết đồng loại và đồng bào như một sứ mệnh thiêng liêng của một tôn giáo, như bài thơ của Tố Hữu:
“giết giết nữa bàn tay không phút nghỉ,
cho ruộng đồng luá tốt thuế mau xong,
cho đảng bền lâu rợp bước chung lòng,
thờ Mao chủ tịch thờ Xít Ta Lin bất diệt.”

Cho đến bây giờ chúng ta cũng không hiểu được sự điên cuồng của thế hệ cha ông theo cộng sản ở thế kỷ 20.

Sau khi Phan Châu Trinh qua đời năm 1926 và Phan Bội Châu bị bắt và an trí ở Huế năm 1925 (không cách triều đình Huế bao xa), cách mạng VN đã chia ra hai dòng chính:

1. Những người yêu nước theo chủ nghĩa Mác Lê với Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong
, với những đảng phái cộng sản như An Nam Cộng Sản Đảng, Tân Việt Cách Mạng Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng, đảng Lao Động và hiện nay là đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Những tổ chức nầy đi theo phong trào Đệ tam quốc tế cộng sản, chịu ảnh hưởng của Lenin, Stalin và sau nầy Mao Trạch Đông. Ngoài ra còn có Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch cùng các đồng chí theo phong trào Đệ tứ quốc tế Trotskyist;

2. Những người yêu nước theo lập trường quốc gia với Nguyễn Thái Học, Vũ Hồng Khanh, với Việt Nam Quốc Dân Đảng chịu ảnh hưởng của tư tưởng tam dân chủ nghĩa của Tôn Văn và chính trị của Tưởng Giới Thạch, Trương Tử Anh với Đảng Đại Việt với học thuyết “dân tộc sinh tồn”, Nguyễn Tường Tam với Đại Việt Dân Chính. Huỳnh Phú Sổ với Dân Xã Đảng, xây dựng tinh thần dân tộc lấy bi trí dũng của Phật giáo và tứ ân làm nền tảng, Lý Đông A với Đại Việt Duy Dân, muốn làm cách mạng Việt trên tinh thần nhân bản và lấy người làm tiền đề triết học.

Năm 1930 các đảng cộng sản tại Đông Dương đã được Hồ chí Minh từ Liên xô trở về Trung Hoa đứng ra chủ trì công cuộc thống nhất và Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời.

Năm 1943 các đảng phái quốc gia gồm Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Đại Việt Dân Chính và Đại Việt Duy Dân họp với nhau ở Liễu Châu, và đã thống nhất trở thành Đại Việt Quốc Dân Đảng, lấy tư tưởng duy dân của Lý Đông A làm kim chỉ nam hoạt động. Tài liệu ký trình do Nguyễn Tường Tam soạn thảo với 5 chữ ký của Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam, S.H. (Trương Tử Anh?) và Lý Đông A, được bác sĩ Nguyễn Tường Bách, em trai út của Nguyễn Tường Tam, công bố trong Hồi ký Nguyễn Tường Bách. Tài liệu nầy hiện được ông Nguyễn Tường Thiết, con trai của Nguyễn Tường Tam lưu giữ.

Cách mạng Tháng Tám và Chính phủ Liên hiệp

Tháng 5 năm 1940 Đức Quốc Xã chiếm đóng nước Pháp và dựng lên chính phủ Vichy do thống chế Petain làm tổng thống. Trong thời gian đó, Đông Dương nằm dưới quyền lãnh đạo của chính phủ Vichy.
Năm 1940, Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Tháng 3 năm 1945 Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương và thiết lập một chính quyền Bảo Đại bù nhìn với chính phủ do một nhà nho uy tín là Trần Trọng Kim đứng đầu.

Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 tại Trung Quốc với vai trò một mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng.

Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.(3)

Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, tình trạng chân không chính trị xảy ra tại Việt Nam. Chính phủ Trần Trọng Kim-Bảo Đại không có thực lực lãnh đạo đất nước. Các đảng phái Quốc Gia không tiên liệu đưọc thời cơ. Trong khi đó lực lượng Việt Minh lợi dụng tình hình và đã tổ chức thành công cuộc cuộc biểu tình đòi lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim tại Hà Nội. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thành lập chính phủ lâm thời gồm đa số những đảng viên cộng sản. Ngày 30 tháng 8 năm 1945 Bảo Đại chính thức thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện Việt Minh và Việt Nam chính thức chấm dứt nền quân chủ để thành lập chế độ cộng hoà. Như thế sau vua Duy Tân, nhà Nguyễn như con bệnh đã chết não, tiếp tục sống bằng guồng máy trợ sinh (life support) của chế độ thực dân Pháp. Khi bác sĩ rút ống, con bệnh mới hoàn toàn từ giả cõi đời.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ lâm thời Việt Minh ra mắt quốc dân. Chính phủ nầy tồn tại đến ngày 1-1-1946 đưọc thay thế bằng chính phủ liên hiệp lâm thời được thành lập gồm những nhà cách mạng quốc gia và cộng sản. Sau đó một hiến pháp dân chủ đầu tiên ra đời đó là hiến pháp 1946, xác định giá trị pháp lý khai sinh của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Công Hoà.
Chính phủ Liên Hiệp Lâm Thời tồn tại rất mong manh giữa những mâu thuẩn nội tại giữa phe Quốc Gia và Cộng Sản, trong bối cảnh thực dân Pháp đang trở lại để tái lập chế độ thuộc địa với những người Việt yêu nước Pháp đang chầu chực để đón tiếp quan thầy cũ.

Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến tồn tại cho đến khi biến cố Ôn Như Hầu xảy ra vào tháng 7 năm 1946. Trong biến cố nầy ông Võ Nguyên Giáp chỉ huy lực lưọng Việt Minh tấn công cơ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng, giết nhiều đảng viên VNQDĐ và bắt được Nghiêm Kế Tổ và Phan Kích Nam. Ngoài ra trong thời gian nầy các cơ sở kháng chiến của các đảng pháí Quốc Gia khắp nơi bị tấn công. Lãnh tụ Đại Việt Trương Tử Anh, Đai Việt Duy Dân Lý Đông A bị thủ tiêu. Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam trốn thoát qua Trung Hoa. Liên hiệp Quốc-Cộng chấm dứt.

Từ đó trở đi, cộng sản hoàn toàn nắm chính phủ, tiếp tục lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống Pháp, xây dựng xã hội chủ nghĩa miền bắc, phát động và chỉ đạo chiến tranh miền nam sau khi đất nước chia đôi, và sau đó thống nhất đất nước.

Giải pháp Bảo Đại 1948 và sự xuất hiện lực lượng quốc gia thân pháp

Sau thế chiến thứ hai, Liên Hiệp Quốc khuyến cáo các nước thực dân phải trao trả độc lập cho các nước thuộc địa. Mô hình Trusteeship (4) do tống thống Roosevelt để nghị được Liên Hiệp Quốc chấp thuận và Liên Hiệp Quốc đã thành lập Hội Đồng Giám Hộ [tạm dịch cho chữ Trusteeship Council (5)] để giúp các nước thuộc địa giành lại độc lập không đổ máu. Tuy nhiên sau thế chiến thứ hai, thế giới bước vào giai đoạn chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Do đó, tổng thống Truman thay đổi chiến lược và chấp nhận để Pháp trở lại Việt Nam nhằm ngăn chặn làn sóng Cộng Sản. Nhờ đó, Pháp đã theo chân quân đội Anh và Trung Hoa đại diện đồng minh trở lại Đông Dương để tiếp thu khí giới và nhận sự đầu hàng của Nhật Bản. Pháp âm mưu tái lập chính quyền thuộc địa để được bám vào bầu sữa Đông Dương nhằm thu hút tài nguyên để giúp cho mẫu quốc hồi sinh sau cơn đại nạn thế chiến.

Để đáp ứng yêu cầu Liên Hiệp Quốc giải thế chế độ thuộc địa đồng thời vẫn tiếp tục hưởng lợi ở Đông Dương, Pháp đưa ra chiến lược Việt Nam hoá chế độ thực dân theo mô hình bảo hộ, đã được áp dụng cho triều đình Huế theo hòa ước Paternotre.

Khi thấy Pháp không thành thật trao trả độc lập cho Việt nam và bắt đầu tái lập chế đô thuộc địa, chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố toàn quốc kháng chiến vào ngày 19 tháng 12 năm 1946.

(Còn tiếp)

Bài do tác giả gởi đến. DCVOnline biên tập và minh hoạ. Chú thích của tác giả.

( ) http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps03_011.pdf
(2) http://www.husc.edu.vn/viewpage.php?page_id=17
(3) http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng
(4) http://www.un.org/Depts/dpi/decolonization/trust.htm
(5) http://www.un.org/Depts/dpi/decolonization/trust.htm
.
.
.

No comments:

Post a Comment