Thursday, April 28, 2011

ĐỐI PHÓ VỚI CHÍNH SÁCH ĂN MÒN DẦN CỦA BẮC KINH (Thomas J. Christensen)


Viện Brookings   -   Tháng 3-4 năm 2011

Người dịch: Hiền Ba
Đăng bởi anhbasam on 27/04/2011

Thomas J. Christensen, nghiên cứu viên cao cấp về chính sách đối ngoại làm việc không thường trú tại Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc John L. Thornton thuộc Viện Brookings


Trong hai năm qua, do sự đổi hướng khỏi một chính sách từng làm yên tâm các nước khác, Trung Quốc giờ đây đang gây ra sự tổn hại tới mối quan hệ với hầu hết các nước láng giềng và với nước Mỹ. Ở khắp nơi trong vùng và ở Washington người ta đều có thể cảm nhận thấy một nỗi nghi ngờ đối với Bắc Kinh rõ như thể chạm tay vào một vật hữu hình vậy. Giới quan sát cho rằng Trung Quốc ngày càng trở nên thích tự khẳng định mình và kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra hồi đầu năm 2008 thì họ bắt đầu xem xét lại chiến lược chung để cho các nước khác thấy rằng họ thì đang nổi lên còn nước Mỹ thì đang đi xuống. Nhưng hiểu thật thấu đáo hơn thì sẽ thấy rằng những chính sách tỏ ra phản tác dụng của Trung Quốc đối với các nước láng giềng và với nước Mỹ thực ra chỉ là phản động và bảo thủ chứ chẳng khẳng định được điều gì hoặc chẳng có gì sáng tạo mới mẻ cả. Cái thái độ hung hăng mà Bắc Kinh mới có gần đây có nguyên nhân sâu xa ở chỗ Bắc Kinh đang tự thổi phổng vị thế của họ là một cường quốc mới nổi và do tình hình chính trị bất ổn nghiêm trọng đang xảy ra ở trong nước họ. Vì thế các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc tỏ ra siêu nhạy cảm trước sự chỉ trích của những người yêu nước ở trong nước đồng thời họ lại tỏ ra cứng nhắc – đối khi kiêu căng ngạo mạn – khi họ đối phó với những gì mà họ coi là sự phản đối thách thức họ ở hải ngoại.

Một loạt những cách cư xử không cởi mở và những hành động ngoại giao cứng rắn gần đây thật là khác một trời một vực so với cái chiến lược được Trung Quốc đề ra trong những năm 1990 về một “sự trỗi dậy hòa bình”, ấy là chiến lược đề cao sự hội nhập kinh tế vùng và xây dựng lòng tin cậy đa phương nhằm làm dịu đi nỗi lo sợ của các nước láng giềng của Trung Quốc khi Trung Quốc đang leo lên vị thế một cường quốc. Những ví dụ về cái kiểu “ăn mòn dần dần” mà Trung Quốc áp dụng gần đây kể ra thì không biết cơ man nào cho hết. Năm 2009, tàu của Trung Quốc quấy rối tàu Impeccable của Mỹ không được vũ trang ở ngoài khơi bờ biển của Trung Quốc. Tại Diễn đàn khu vực ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) hồi tháng 7 năm 2010 Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đã cảnh báo các nước Đông Nam Á về việc phối hợp với các nước lớn ở ngoài khu vực [ASEAN] trong việc giải quyết những tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh. Cuối năm đó, Bắc Kinh đã yêu cầu Tokyo phải xin lỗi và bồi thường sau khi Nhật Bản bắt giữ – rồi sau đó đã thả, do sức ép của Trung Quốc, một thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc va chạm với một tàu tuần dương của Nhật Bản. Cũng trong năm 2010, giới lãnh đạoTrung Quốc đã hai lần cảnh báo Mỹ và Hàn Quốc tiến hành các cuộc tập trận hải quân ở vùng hải phận quốc tế gần Trung Quốc – ngay cả sau khi Bắc Triều Tiên bắn chìm một tàu của hải quân Hàn Quốc và công bố một chương trình làm giàu uranium hồi tháng 11 rồi vẫn trong tháng đó còn pháo kích vào một hòn đảo của Hàn Quốc, đảo Yeonpyeong.

Bất chấp việc các nước chứng kiến hình ảnh một nước Trung Quốc ngày càng hùng mạnh đang cố tình gây ra những sự kiện để chứng tỏ cho các nước thấy một chiến lược chung do họ mới đưa ra, Bắc Kinh – ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ quan trọng – gần đây đang phản ứng lại, tuy theo cách ăn mòn từ từ, những sự kiện không dễ chịu hoặc những sự kiện mà họ không lường trước được do các nước khác khởi xướng. So với hôm nay thì chính sách đối ngoại của Trung Quốc vào thời điểm hai năm trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính tỏ ra mang tính sáng tạo và chủ động hơn. Trong giai đoạn từ 2006 đến 2008, Trung Quốc đã lựa chọn những chính sách mang tính xây dựng và quyết đoán đối với Bắc Triều Tiên, Sudan và hải tặc Somali, điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử quan hệ đối ngoại của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa. Nước Mỹ và các đồng minh ngoại giao của Mỹ nên khuyến khích sự khôi phục lại một nước Trung Quốc quyết đoán theo cách như vậy – nếu không Washington sẽ đối mặt với khó khăn nhiều hơn trong việc giải quyết những thách thức cấp bách mang tính toàn cầu như sự phổ biến hạt nhân, sự biến đổi khí hậu và sự bất ổn kinh tế toàn cầu. Trung Quốc giờ đây đã trở thành một nước lớn nên không thể đứng ngoài – huống hồ lại đứng ngáng đường – trong lúc các nước khác đang nỗ lực giải quyết những vấn đề này.

NHỮNG NGÀY XA XƯA TƯƠI ĐẸP?
Tháng 9 năm 2005, thứ trưởng ngoại giao Mỹ khi đó là Robert Zoellick đã kêu gọi Trung Quốc hãy làm một “người tham gia có trách nhiệm” trên chính trường thế giới. Sáng kiến này của chính quyền Bush là nhằm đưa quan hệ Mỹ-Trung vượt ra ngoài phạm vi những vấn đề song phương truyền thống – mối quan hệ với bên kia Eo biển Đài Loan, nhân quyền và những xung đột kinh kế – để tiến tới sự hợp tác đảm bảo sự ổn định tại những nơi như Đông Bắc Á, Vịnh Ba Tư và châu Phi.

Trong suốt hai năm sau đó người Trung Quốc đã đáp lại một cách đầy ấn tượng, tuy chỉ mới từng phần, sự thay đổi nói trên trong chính sách của Mỹ. Bắc Kinh không chỉ tiếp tục làm nước chủ nhà cho cuộc đàm phán sáu bên về chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên mà Trung Quốc còn tham gia vào việc soạn thảo các biện pháp trừng phạt quốc tế của Liên Hiệp Quốc chống lại Bình Nhưỡng. Đặc biệt vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007 Trung Quốc còn dùng quan hệ kinh tế song phương để gây áp lực với Bắc Triều Tiên nhờ đó mà Bắc Triều Tiên đã dỡ bỏ cơ sở hạt nhân tại Yongbyon, cho tới nay đây là tiến bộ duy nhất đạt được của các cuộc đàm phán sáu bên.

Bắc Kinh cũng thay đổi đường lối đối với Sudan. Từ chỗ là nước bảo trợ cho chế độ ở Sudan chống lại áp lực quốc tế đối với những hành động tồi tệ về nhân quyền ở Darfur Trung Quốc vào cuối năm 2006 đã ủng hộ kế hoạch ba giai đoạn của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lúc đó là Kofi Annan cho hòa bình và ổn định tại khu vực này. Trung Quốc đã gây sức ép để Khartoum chấp nhận giai đoạn hai của kế hoạch đó ấy là kêu gọi thành lập một lực lượng gìn giữ hòa bình chung của Liên Hợp Quốc và Liên minh châu Phi. Sau đó vào cuối năm 2007 sau một cuộc hội đàm về khu vực này giữa Bộ ngoại giao Mỹ và Bộ ngoại giao Trung Quốc, Bắc Kinh đã đồng ý gửi hơn 300 công binh Trung Quốc tới Darfur, không kể các nước châu Phi thì đây là lực lượng gìn giữ hòa bình đầu tiên tham gia chiến dịch của Liên Hiệp Quốc. Cuối năm 2008 Trung Quốc còn đồng ý cử một đơn vị hải quân tới Vịnh Aden để hỗ trợ lực lượng quốc tế chống hải tặc ở ngoài khơi bờ biển của Somali. Đây có lẽ là nỗ lực quốc tế có ý nghĩa nhất nếu xét về nguyên tắc xưa nay của Bắc Kinh là không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước có chủ quyền và nghị quyết của Liên Hiệp Quốc cho phép lực lượng quốc tế này truy đuổi hải tặc tới tận hải phận thuộc Somali.

Chắc chắn Washington và các đồng minh ngoại giao sau đó đã mong muốn được thấy Bắc Kinh tham gia nhiều hơn nữa trong giai đoạn này. Trung Quốc không chỉ có những thay đổi nhỏ trong các chính sách mới mẻ của họ. Bắc Kinh rút lui khỏi các mối quan hệ trong chính sách đối ngoại truyền thống và tỏ ra mềm mỏng, tuy chưa từ bỏ hẳn, trong những lập trường được duy trì lâu nay ấy là tỏ thái độ cứng rắn trong vấn đề lệnh trừng phạt và không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.

Bằng cách làm rõ với phe hoài nghi của phía Trung Quốc rằng Washington không coi mối quan hệ với Trung Quốc là một trò chơi có người thắng người thua, sáng kiến của chính quyền Bush đã tỏ ra có lợi cho mối quan hệ song phương Mỹ-Trung. Quan trọng hơn, chính sách của Mỹ đã nhấn mạnh rằng việc giải quyết những vấn đề toàn cầu như phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên và Iran, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, bất ổn tài chính toàn cầu, suy thoái môi trường và hải tặc là vì lợi ích của tất cả các nước trong đó có cả Trung Quốc. Rút cục, sáng kiến của Mỹ phản ánh nhận thức của Washington rằng Trung Quốc có ảnh hưởng chính trị đang lên thì đi kèm theo đó họ cũng phải có nhiều trách nhiệm hơn. Nói cho dễ hiểu, Trung Quốc nay đã trở nên quá quan trọng nên họ không thể tiếp tục duy trì chính sách truyền thống xưa nay của họ là không can thiệp và sự ác cảm đối với lệnh trừng phạt kinh tế; Trung Quốc nay đã quá quan trọng để có thể tiếp tục duy trì chính sách ngoại giao thân thiện với những nhà nước du côn như Bắc Triều Tiên, Khartoum và Tehran; và Trung Quốc đã là nước quá quan trọng nên họ không thể vin vào địa vị một quốc gia đang phát triển để dùng đó như là cái cách để mà từ chối hi sinh bản thân để góp phần làm ổn định nền kinh tế thế giới và giảm nhẹ tác hại đối với môi trường.

MẤT ĐÀ
Rất tiếc Trung Quốc đã không duy trì cái đà tích cực nói trên trong chính sách ngoại giao của họ, họ đã phá hỏng mối quan hệ Mỹ-Trung vừa mới được hình thành. Thay đổi lớn nhất của họ là trong chính sách đối với Bắc Triều Tiên: đã không gây sức ép đối với Bình Nhưỡng sau các vụ thử tên lửa hạt nhân vào mùa xuân năm 2009 thì thôi, Trung Quốc dường như còn gia tăng quan hệ kinh tế và chính trị với chế độ của Kim Jong Il. Các nhà quan sát am tường đều tin rằng quan hệ thương mại và đầu tư giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên đã trở nên thắm thiết hơn trong ba năm qua. Ngoài ra còn có quan hệ ngoại giao ở cấp cao giữa các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, trong đó có hai chuyến viếng thăm Trung Quốc của Kim vào năm ngoái. Hồi tháng 10 năm ngoái, Chu Vinh Khang (Zhou Yongkang), một ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc đã đứng bên cạnh những thành viên cao cấp nhất của chế độ của Kim tại lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng Lao động Triều Tiên. Bình Nhưỡng rất vui mừng trước sự quan tâm này vào lúc mà chế độ đang trong giai đoạn quá độ đầy nhạy cảm trong đó Kim đang chuẩn bị cho con trai của mình là Kim Jong Un rút cục sẽ kế tục mình.

Ở vào thế lo sợ một chế độ cộng sản ở bên cạnh mình đang có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào và Trung Quốc thì đang bị mất dần sự ảnh hưởng ở Bán đảo Triều Tiên cho nên Bắc Kinh đã quay lại áp dụng những nguyên tắc bảo thủ bất di bất dịch của Đảng Cộng sản trong chính sách đối ngoại khi họ ủng hộ Bắc Triều Tiên. Đặc biệt, Bắc Kinh đã bênh vực chế độ của Kim trong một số cuộc khủng hoảng do Bình Nhưỡng gây ra hồi năm ngoái. Hồi tháng 5 năm ngoái, một ủy ban điều tra quốc tế đã xác định rằng một tàu ngầm của Bắc Triều Tiên đúng là đã bắn chìm tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc hồi tháng 3; phía Trung Quốc từ chối xem xét bằng chứng và bảo vệ Bắc Triều Tiên trước sự chỉ trích trực tiếp tại Hồi đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Làm như vậy các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã khiến cho rất nhiều nước trong cộng đồng quốc tế xa lánh họ, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Tương tự, Bắc Kinh đã bảo vệ Bắc Triều Tiên khỏi sự lên án quốc tế sau khi Bình Nhưỡng vào mùa thu năm ngoái đã tiết lộ rằng họ đã bí mật phát triển một cơ sở làm giàu uranium. Rồi sau đó sau khi Bắc Triều Tiên nã pháo vào một hòn đảo của Hàn Quốc hồi tháng 11 thì Bắc Kinh một lần nữa lại làm bộ làm tịch như là chẳng biết gì và họ chỉ đơn giản kêu gọi các bên hãy bình tĩnh và cảnh báo tất cả các bên về một sự leo thang tiếp theo có thể xảy ra. Lời cảnh báo cụ thể duy nhất mà họ rút cục đã thất bại ấy là họ đã không thể can ngăn tàu chiến Mỹ tham gia cuộc tập trận hải quân chung Mỹ-Hàn đi vào vùng biển Hoàng Hải nơi gối lên vùng kinh tế đặc quyền của Trung Quốc.

Iran thì là một bức tranh hỗn hợp, một phần bởi vì cho tới trước năm 2008 chính quyền Bush và các đồng minh của Mỹ đã không đạt được tiến bộ gì nhiều trong việc khuyến khích sự hợp tác của Trung Quốc. Những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm làm giảm nhẹ Nghị quyết 1929 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc áp đặt lần thứ tư lệnh trừng phạt chống lại Teheran vào tháng 6 năm 2010 vì thế không thể được xem là sự cư xử quay lại lề thói cũ. Trên thực tế chính quyền Obama xứng đáng được khen ngợi vì đã tìm cách để một nghị quyết được thông qua. Những người lạc quan có thể đưa ra sự kiện là lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc – trong đó bao gồm lệnh cấm vận và những biện pháp về tài chính – có thể gây ra sự khó chịu thực sự cho những nhân vật có ảnh hưởng ở Iran. Tuy nhiên, lệnh trừng phạt này đã không gây bất cứ áp lực trực tiếp nào tới khu vực năng lượng sinh lời rất nhiều của Iran.

Có thể là một dấu hiệu tiến bộ trong chính sách của Trung Quốc đối với Iran khi các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin rằng Trung Quốc đã tỏ ra chậm lại trong việc theo đuổi thương lượng những hợp đồng mới về năng lượng với Iran trong nhiều tháng tiếp theo việc thông qua nghị quyết về lệnh trừng phạt. Việc Trung Quốc cứ vẫn tiếp tục theo đuổi những hợp đồng về dầu khí với Iran ngay cả khi quốc tế đã thông qua lệnh trừng phạt mới nhằm vào nước này từ lâu đã là một vấn đề khiến cho những ai lo ngại về tham vọng hạt nhân của Iran đều phải tức giận. Nhiều người lo ngại rằng nếu các ông ty của châu Âu và Nhật Bản rời khỏi thị trường Iran thì các công ty của Trung Quốc sẽ đơn giản “lấp chỗ trống” đó trong nền kinh tế.

Còn quá sớm để đánh giá ý nghĩa của bất kỳ điều gì được cho là sự thay đổi trong chính sách của Trung Quốc đối với Iran. Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc mới được thông qua chưa lâu; mặt khác, những lý do đằng sau hoạt động làm ăn chậm lại của Trung Quốc ở Iran vẫn còn chưa sáng tỏ (có thể lý do chỉ thuần túy là những vấn đề kinh tế). Ngoài ra vấn đề còn có thể là mọi sự dè dặt gần đây của Trung Quốc ở Iran không giống như dấu hiệu về một sự đột nhiên chấp nhận vai trò là một bên tham gia có trách nhiệm mà giống nhiều hơn với dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang bực tức và có thể là họ tạm thời đồng ý những biện pháp đơn phương được ban hành bởi Mỹ và châu Âu nhằm vào những công ty của nước thứ ba đang làm ăn tại Iran. Bắc Kinh coi những biện pháp trừng phạt như vậy là bất hợp pháp và bất công.

Năm ngoái còn được đánh dấu bằng tình hình căng thẳng song phương giữa Mỹ và Trung Quốc về những vấn đề như tin tặc Trung Quốc và những biện pháp hạn chế phương tiện thông tin đại chúng, Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan và Tổng thống Mỹ Barack Obama đã gặp Dalai Lama. Mặc dù chính sách của Mỹ về những vấn đề này là không mới, song Bắc Kinh lại phản ứng ầm ĩ hơn trong quá khứ. Trung Quốc còn bị khổ sở vì cư xử ngoại giao của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton liên quan đến xử lý những tranh chấp chủ quyền ở Biển Nam Trung Hoa tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Việt Nam hồi tháng 7 năm ngoái. Trung Quốc là nước duy nhất trong khu vực đã tuyên bố chủ quyền đối với tất cả những hòn đảo tranh chấp ở vùng biển này. Những tuyên bố chủ quyền có tính bành trướng này tỏ ra mơ hồ nhập nhằng, được dựa trên những tấm bản đồ có trước khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời và đôi khi dựa trên những thuật ngữ mơ hồ như “vùng nước do lịch sử để lại”, những thứ chẳng chứa đựng bất cứ giá trị pháp lý nào theo luật quốc tế. Tại diễn đàn nói trên, Clinton đã kêu gọi sự giải quyết những khác biệt theo cách ôn hòa, sự tự do hàng hải, một cơ sở pháp lý dành cho tất cả những tuyên bố chủ quyền phải lấy cái gốc là luật pháp quốc tế thông thường và những biện pháp xây dựng lòng tin cậy đa phương. Mặc dù Clinton không chỉ đích danh cái tên “Trung Quốc” và những bình luận của bà chẳng làm thay đổi tính chất trung lập truyền thống của Mỹ đối với những tranh chấp chủ quyền hàng hải, thế những sáng kiến của Mỹ đã không được hoan nghênh ở bên Bắc Kinh. Ngay tại hội nghị này ngoại trưởng Trung Quốc đã phản ứng gay gắt và cảnh báo các nước trong khu vực về việc hợp tác với những nước lớn ở bên ngoài trong việc giải quyết những tranh chấp – điều này đã gây nên sự căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN và giữa Trung Quốc với Nhật Bản là nước mà giống như Mỹ họ chẳng có bất cứ tranh chấp lãnh thổ nào ở Biển Nam Trung Hoa song họ quan tâm tới việc duy trì tự do hàng hải ở đó và sự an ninh của khu vực.

BẮC KINH VỪA TỰ TIN LẠI VỪA THIẾU TỰ TIN
Điều gì giải thích cho sự đổi hướng quyết liệt trong chính sách đối ngoại của Bắc Kinh? Không chỉ đơn giản Trung Quốc đang khẳng định sức mạnh họ mới có, chính sách ngoại giao tiêu cực của Trung Quốc dường như có gốc rễ ở một sự pha trộn kỳ lạ giữa thái độ tự tin trên trường quốc tế và thái độ thiếu tự tin ở trong nước. Kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính hồi năm 2008, công dân Trung Quốc, viên chức chính phủ ở cấp thấp và những nhà bình luận dân tộc chủ nghĩa trên các phương tiện thông tin đại chúng thường thổi phồng sự trỗi dậy của Trung Quốc và sức mạnh đang suy tàn của Mỹ. Theo một số người Trung Quốc mà tôi đã tiếp xúc thì những quan chức cấp cao ở Bắc Kinh có thái độ đúng mực hơn rất nhiều khi đánh giá vị trí của Trung Quốc trên thế giới và những thách thức phát triển ở phía trước. Song, những tiếng nói trong nước kêu gọi Trung Quốc phải có chính sách đối ngoại mạnh mẽ hơn đã tạo ra một môi trường chính trị sôi nổi. Tinh thần dân tộc chủ nghĩa đại chúng, sự phát triển số lượng những phương tiện thông tin đại chúng cho phép các công dân Trung Quốc có thể bày tỏ quan điểm của mình và chính phủ ngày càng biết lắng nghe công luận trong một giai đoạn được thấy là bất ổn đã đem lại cơ hội cho sự công kích nước Mỹ và liên quan đến điều đó là ý kiến phê phán cho rằng Bắc Kinh quá mềm mỏng trong chính sách đối với Mỹ. Tuy nhiên, những quan điểm nói trên không chỉ là những quan điểm của những người ở xa quyền lực: đáng chú ý là tác giả của những chỉ trích nói trên còn là những sĩ quan quân đội đang tại ngũ và những học giả tại những “bể tư duy” [think tank] của nhà nước và những trường đại học.

Dường như đã qua rồi cái thời mà giới lãnh đạo của Trung Quốc có thể cố tình phớt lờ những tiếng nói trên. Hiện nay hơn bất cứ lúc nào hết kể từ giai đoạn ngay sau cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn hồi năm 1989 chính phủ dường như đang bồn chồn lo lắng hơn về việc duy trì tính chính danh lâu dài của chế độ và sự ổn định xã hội. Lãnh đạo Đảng hi vọng tránh được sự chỉ trích bằng cách áp dụng cái phương pháp khêu gợi tinh thần dân tộc chủ nghĩa là một chủ đề có thể đoàn kết rất nhiều những tiếng nói ở trong nước mà nếu để yên có thể sẽ là những sự phản kháng chống lại giới có chức có quyền ở Trung Quốc. Mặt khác, trên phương diện cá nhân thì từng quan chức lại cần phải củng cố tiếng tăm của mình sao cho được gọi là người bảo vệ niềm tự hào dân tộc và sự ổn định trong nước trong quá trình chuyển giao lãnh đạo mà đỉnh điểm là vào năm 2012 khi Đảng sẽ chính thức lựa chọn người kế tục Hồ Cẩm Đào. Một môi trường như vậy không thích hợp với những chính sách có thể được xem như là sự nhượng bộ áp lực của nước ngoài hoặc như là sự lo lắng về Washington.

Vấn đề rắc rối tiếp theo ấy là quá trình xây dựng chính sách đối ngoại của Trung Quốc giờ đây trở nên ngày càng quan liêu cồng kềnh hơn với sự tham gia của quân đội, các công ty năng lượng, các nhà xuất khẩu lớn hàng hóa sản xuất trong nước và lãnh đạo đảng ở các địa phương. Đây là một hiện tượng khá mới mẻ và lãnh đạo chóp bu dường như không muốn hoặc không thể làm hài hòa lợi ích của những nhóm khác nhau vào trong một chiến lược chung. Có thể một số những tác nhân trong nước nói trên hưởng lợi từ việc Trung Quốc hợp tác với những nhà nước du côn, từ việc Trung Quốc có những cách giải thích mang tính bành trướng và cứng nhắc trong những tuyên bố chủ quyền và trong một số trường hợp thì là sự căng thẳng giữa Trung Quốc với Mỹ cùng những đồng minh của Mỹ. Họ sẽ hưởng lợi ít hơn – hoặc thậm chí bị thiệt hại – nếu như Trung Quốc đi theo một thứ chủ nghĩa quốc tế mà Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước khác đang theo đuổi.

Bởi vậy, những học giả dân tộc chủ nghĩa và những “blogger” ở Trung Quốc đã tìm thấy đồng minh của họ ở những vị trí cao cấp và những quan chức cấp cao nhất của chính phủ đang lo lắng tìm cách ngăn chặn trực tiếp xu hướng này. Hậu quả là sự ra đời của một thứ tự do báo chí giống như một trò nhào lộn nguy hiểm ấy là giờ đây một người Trung Quốc có thể đưa ra ý kiến bình luận chỉ trích chính sách của chính phủ mà vẫn an toàn miễn là người đó chỉ trích bằng cái giọng dân tộc chủ nghĩa ủng hộ chính sách “diều hâu” chứ không phải bằng một giọng ôn hòa ủng hộ xu hướng quốc tế.

Theo những nguồn tin của tôi ở Trung Quốc thì những nhân tố nói trên đang gây ra hai tác hại tới chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Thứ nhất, vì những lý do liên quan đến nội bộ trong nước và bộ máy quan liêu cồng kềnh, giới lãnh đạo Bắc Kinh thấy cần phải phản ứng ầm ĩ lên trước mọi sự coi nhẹ lòng tự hào dân tộc và chủ quyền. Chẳng hạn, khi nhiều nước châu Á đứng về phía Clinton tại cuộc họp của ASEAN ở Hà Nội thì các quan chức ngoại giao Trung Quốc đã cảm thấy họ buộc phải đáp trả bằng những từ ngữ cay độc khiến cho một số nước láng giềng ở phía Nam đã xa lánh Trung Quốc. Phản ứng tiêu cực của Trung Quốc trước việc Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng tàu đánh cá của họ xét những lý lẽ pháp lý của nội bộ Trung Quốc thì là điều có thể dự đoán được, song chính phủ Trung Quốc đã tỏ ra đặc biệt hiếu chiến trong phản ứng của họ: Bắc Kinh đã ngừng các chuyến hàng gửi đất quý tới Nhật Bản và có lẽ điều quan trọng nhất là họ đã yêu cầu một lời xin lỗi chính thức và bồi thường thiệt hại sau khi Nhật Bản đã nhượng bộ yêu cầu của Trung Quốc là thả thuyền trưởng và thủy thủ đoàn. Điều này có thể gây ấn tượng với những người đang theo dõi ở trong đất nước Trung Quốc, song nó đã khiến cho công chúng Nhật Bản mất thiện cảm vô cùng, theo các cuộc thăm dò gần đây thì công chúng Nhật Bản có quan điểm rất tiêu cực về Trung Quốc. Tất cả những điều rắc rối này lại xảy ra trong khi Đảng Dân chủ của Nhật Bản theo truyền thống vốn rất xuề xòa với Trung Quốc nay đang là đảng cầm quyền. Thời điểm xảy ra sự căng thẳng nói trên trong quan hệ Trung Quốc và Nhật Bản vì thế đã chứng minh hùng hồn một điều rằng Trung Quốc đã đánh mất những cơ hội vì sự hung hăng của họ.

Tương tự, chẳng ai tin rằng Trung Quốc thực bụng ủng hộ những khiêu khích quân sự và sự phổ biến vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Nhưng những mối quan tâm làm sao duy trì sự ổn định trong nước ở Bắc Triều Tiện, hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên và ổn định xã hội ở Trung Quốc đã ngăn giới lãnh đạo Trung Quốc công khai chỉ trích Bắc Triều Tiên hoặc cho phép Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc làm như vậy. Thêm nữa, những mối quan tâm này còn ngăn giới lãnh đạo Trung Quốc không bác bỏ những âm mưu giải thích của phương tiện truyền thông của Trung Quốc và trên Internet cho rằng Mỹ và Hàn Quốc đã làm trầm trọng những căng thẳng trên Bán đảo Triều Tiên cốt để tạo ra cái cớ để tiến hành các cuộc tập trận ở gần biên giới Trung Quốc. Trái ngược với những điều trên, bộ ngoại giao Trung Quốc mãi tới tận tháng 7 và tháng 11 năm 2010 mới đổ thêm dầu vào lửa khi họ cảnh báo Mỹ đừng đưa tàu chiến tới vùng biển gần Trung Quốc mà không có sự cho phép của Trung Quốc. Hành động này có thể đã giành được sự ủng hộ trong quân đội và công chúng Trung Quốc, nhưng Trung Quốc được thấy là đã phải giá cao về mặt ngoại giao ở Seoul, Tokyo và Washington khi Trung Quốc tha thứ hoặc thậm chí bênh vực những hành động của Bình Nhưỡng. Một cường quốc thực sự quyết đoán sẽ không bao giờ cho phép một nhà nước bé mà du côn đi chiếm đoạt chính sách đối ngoại của họ để làm con tin theo cách như vậy.

Tác động tiêu cực lớn thứ hai tới chính sách đối ngoại của Bắc Kinh là Bắc Kinh giờ đây được đã trở nên ít có khả năng tham gia cộng đồng quốc tế trong giải quyết những vấn đề toàn cầu. Chẳng hạn, lập trường cứng rắn của Trung Quốc về vấn đề phổ biến hạt nhân ở Bắc Triều Tiên và Iran giờ đây dễ bị những phần tử dân tộc chủ nghĩa mô tả như là một sự thỏa hiệp đối với Mỹ. Đồng thời các nhóm lợi ích ở trong nước – chẳng hạn như các công ty năng lượng và các thể chế tài chính như trong trường hợp của lệnh trừng phạt chống lại Iran và những lợi ích kinh tế ở đông bắc Trung Quốc và quân đội như trong trường hợp của Bắc Triều Tiên – đã phản đối những đổi mới chính sách đụng chạm tới lợi ích cục bộ của họ. Những nhóm như vậy có thể tự bày tỏ quan điểm một cách trực triếp trong một quá trình xây dựng chính sách đa dạng hóa hơn trước đây và ngoài ra giờ đây họ còn có thể sử dụng phương tiện thông tin đại chúng và Internet để tạo ra một môi trường chính trị trong nước cự tuyệt những thay đổi chính sách.

BẮC KINH ĐƯỢC LỢI GÌ
Trong suốt năm 2009 rất nhiều người Trung Quốc cả ở trong chính phủ lẫn ngoài chính phủ đã tin rằng tân chính quyền của Obama đang tìm cách hòa giải với Trung Quốc hoặc bởi vì xét như là một vấn đề của định hướng chính sách hoặc bởi vì dựa trên một sự đánh giá thực tế về điều được Mỹ nhận thấy là sự chuyển giao quyền lực trên thế giới. Giới chức Mỹ trong năm đó đã bàn đến sự cần thiết phải có đảm bảo hai bên có sự yên tâm về chiến lược của nhau, tránh tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan và không nên để cho Dalai Lama gặp Obama tại Washington trước khi Obama có chuyến viếng thăm Trung Quốc vào tháng 11. Trong chuyến viếng thăm đó, Trung Quốc và Mỹ đã ra một tuyên bố chung trong đó hai nước cam kết tôn trọng “những lợi ích quốc gia cốt lõi” và chủ quyền của mỗi bên. Nhưng rồi vào đầu năm 2010, như rất nhiều người tại Bắc Kinh đã thấy, Washington dường như đã làm ngược lại. Nhìn bằng quan điểm này thì thấy chính quyền của Obama đã xâm phạm những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc khi họ thông báo với Quốc hội về việc họ sẽ bán vũ khí phòng thủ cho Đài Loan, chỉ trích Trung Quốc về hồ sơ tồi tệ về tự do Internet và cho phép một cuộc gặp gỡ cá nhân giữa Obama và Dalai Lama. Theo nhiều nhà quan sát của Trung Quốc thì sẽ hoàn toàn là hợp lô-gich khi Bắc Kinh đến lượt họ cũng nên từ chối ủng hộ Mỹ trong việc theo đuổi điều được Bắc Kinh cho là những lợi ích quốc gia cốt lõi của Mỹ, chẳng hạn như ngăn chặn phổ biến hạt nhân ở Iran và Bắc Triều Tiên hoặc ổn định nền kinh tế Mỹ và hệ thống tài chính quốc tế bằng việc Bộ Tài chính Mỹ bán trái phiếu.

Nhưng hiểu quan hệ Mỹ-Trung như là việc Trung Quốc và Mỹ lợi dụng lợi ích quốc gia cốt lõi của nhau là không đúng về mặt lý thuyết và vô bổ về chính trị. Vấn đề căn bản nhất nằm ở chỗ hầu như bất cứ điều gì mà Mỹ đề nghị Trung Quốc thì đều phù hợp trực tiếp với những lợi ích của Trung Quốc. Nói cách khác, ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân hoặc kiểm soát hải tặc ở vùng biển quốc tế không phải là “giúp” Mỹ – mà điều đó cũng phục vụ những lợi ích của Trung Quốc. Do đó, nếu Trung Quốc giảm bớt sự hợp tác với Mỹ trong những vấn đề như vậy thì điều đó sẽ có hại cho chính những chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

Chính sách của Trung Quốc đối với Bắc Triều Tiên cho thí dụ rõ nhất. Nếu các cuộc đàm phán sáu bên liên tục gặp thất bại thì người bị thiệt thòi nhất – ngoài nhân dân Bắc Triều Tiên – có thể sẽ là Trung Quốc. Bắc Kinh đã giành được uy tín ngoại giao một cách chính đáng bằng việc họ trở thành một nước chủ trì các cuộc đàm phán sáu bên; các bên còn lại đã nhanh chóng ca ngợi Trung Quốc vì đã có một thái độ chủ động đáng ngạc nhiên. Nhưng ngay sau khi Trung Quốc giành được sự khen ngợi vì sự tiến triển của các cuộc đàm phán sáu bên hồi năm 2006 và 2007 thì hiện nay họ lại đang bị mất uy tín khi Bắc Triều Tiên từ chối tuân thủ các yêu cầu của cộng đồng quốc tế. Làm sao Trung Quốc có thể coi mình là một cường quốc vĩ đại khi họ không thể gây ảnh hưởng tới cách cư xử của nước láng giềng đồng thời là đồng minh yếu nhất của họ là nước đang hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ gắn bó về kinh tế với Trung Quốc? Mặt khác, bởi vì Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì về căn bản mối quan hệ kinh tế và ngoại giao với Bắc Triều Tiên – bất chấp lệnh trừng phạt của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mà trong đó có đóng góp của Trung Quốc và những biện pháp trừng phạt đơn phương còn nghiêm khắc hơn nhiều của Nhật Bản và Hàn Quốc – thì mối quan hệ giữa họ với Bắc Triều Tiên đang làm xuất hiện ở các nước trong khu vực những nghi ngờ về ý đồ lâu dài của Bắc Kinh.

Chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên cũng có thể khuyến khích sự tăng cường vũ khí quân sự và sự thắt chặt thêm các mối liên minh ở vùng Đông Á. Chẳng hạn, Nhật Bản coi những diễn biến hứa hẹn thành công về vũ khí hạt nhân của Bình Nhưỡng là một mối đe dọa thực sự. Trong tình huống nghiêm trọng nhất, mặc dù có thể ít có khả năng xảy ra nhất, những tiến bộ của Bắc Triều Tiên trong chương trình hạt nhân có thể khiến Nhật Bản gạt bỏ điều cấm kỵ về hạt nhân và cũng phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình. Điều chưa được đánh giá đúng ấy là những diễn biến hạt nhân của Bắc Triều Tiên đang có tác động thế nào tới các chương trình vũ khí thông thường của Nhật Bản trên nhiều phương diện nào đó đang gây lo lắng cho Trung Quốc? Sẽ là hợp lý khi hi vọng rằng Nhật Bản ngày càng tham gia nhiều hơn vào chương trình đang triển khai do Mỹ đứng đầu nhằm phát triển một hệ thống tên lửa phòng thủ ở Đông Á, một sáng kiến mà Trung Quốc coi là một sự thách thức cho năng lực đánh chặn của họ. Mặt khác, Nhật Bản dường như có thể vứt bỏ sự tự kiềm chế lâu nay để phát triển năng lực phòng thủ bằng vũ khí thông thường bằng việc họ đầu tư vào một kho vũ khí tấn công không mang đầu đạn hạt nhân có thể tiêu diệt tên lửa của Bắc Triều Tiên ngay trên mặt đất trước khi nó kịp phóng. Những vũ khí tấn công này sẽ mang nhiều mục đích và việc phát triển chúng sẽ mang ý nghĩa biểu trưng cho vị thế quân sự nói chung trong tương lai của Nhật Bản và nhìn bằng quan điểm của Trung Quốc thì một kết quả như vậy sẽ là một điều không mong muốn.
Nếu bị bỏ mặc không kiềm chế, việc Bắc Triều Tiên tiếp tục phát triển vũ khí hạt nhân sẽ còn dẫn đến sự hợp tác nhiều hơn và tích cực hơn giữa Mỹ các đồng minh trong khu vực. Rất nhiều thành phần trong nỗ lực này đã khiến Trung Quốc cảm thấy khó chịu. Chẳng hạn, Hàn Quốc có thể sẵn sàng hơn nữa tham gia một chương trình tên lửa phòng thủ khu vực cùng với Nhật Bản và Mỹ. Xét một cách tổng thể hơn, bởi vì cộng đồng quốc tế còn lo ngại về việc Bắc Triều Tiên chuyển giao nguyên liệu hạt nhân cho các nước khác hoặc các nhóm phi quốc gia khác cho nên Mỹ và các đồng minh trong khu vực chắc chắn sẽ tăng cường sự hợp tác và tập trận hải quân cũng như tích cực kiểm tra các tàu chở hàng của Bắc Triều Tiên như một phần của Sáng kiến An ninh Phổ biến vũ khí hạt nhân. Trong một chừng mực có liên quan, sự khiêu khích quân sự của Bắc Triều Tiên hồi năm ngoái đã dẫn đến một loạt những cuộc tập trận Mỹ-Hàn, trong đó có huấn luyện chiến đấu chống tàu ngầm, và tăng cường tham vấn an ninh giữa Seoul, Tokyo và Washington. Trong ngắn hạn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc bắt buộc phải xem xét tới khả năng xảy ra sự bất ổn hoặc chiến tranh trên Bán đảo Triều Tiên ở bên cạnh họ trong trường hợp Bắc Triều Tiên trả đũa những biện pháp mới được áp dụng nói trên. Còn về dài hạn thì Bắc Kinh chắc chắn sẽ lo ngại về những tác động của sự gia tăng hợp tác nói trên tới vị thế quân sự của họ ở trong khu vực.

Chính sách của Trung Quốc đối với Iran cũng giống hệt như chính sách với Bắc Triều Tiên. Trung Quốc là một nước nhập khẩu năng lượng tịnh [net importer] với khu vực xuất khẩu phát triển mạnh, điều này chịu sự tác động lớn khi giá cả tăng đột ngột sẽ làm tăng cả chi phí sản xuất lẫn chi phí vận chuyển. Thực tế này sẽ tác động tới những tính toán của họ đối với Iran, một nước gây mất ổn định chính ở Trung Đông và vùng Vịnh Ba Tư giàu dầu mỏ – và là một đất nước mà chế độ ở đó chỉ càng gây mất ổn định nhiều hơn nếu như nó có thêm sự tự tin vào khả năng đánh chặn bằng vũ khí hạt nhân. Mặt khác, Israel coi việc Iran phát triển vũ khí hạt nhân là một mối đe dọa tới sự sống còn của họ; điều hoàn toàn có thể xảy ra là nếu như không thể dùng ngoại giao để làm thay đổi tham vọng hạt nhân hiện nay của Iran thì Israel rút cục sẽ có lựa chọn hành động quân sự chống lại Iran. Một bước ngoặt diễn ra như vậy có thể dẫn tới một sự mất ổn định đồng loạt trong khu vực đe dọa lượng cung cấp dồi dào năng lượng mà Trung Quốc và tất cả những nước nhập khẩu trực tiếp khác đang phụ thuộc vào. Vì thế việc Bắc Kinh hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Washington và các đồng minh và xây dựng những cách tiếp cận ngoại giao có thể ngăn chặn một hậu quả như trên là vì lợi ích của Bắc Kinh – tất cả sẽ đều muốn thấy những thị trường năng lượng ổn định.

THUYẾT PHỤC CHỨ KHÔNG NGĂN CHẶN
Có một lý do nào đó để lạc quan, dù là dè dặt, về việc gần đây Bắc Kinh đã có sự thay đổi trong chính sách đối ngoại bảo thủ và phản động của họ. May mắn cho Mỹ và các đồng mình vì trong giới lãnh đạo ở Bắc Kinh đang có một sự tranh cãi thực sự về cái giá phải trả và những lợi ích của đường lối chính sách hiện nay của đất nước này (theo những người đối thoại với tôi thì cuộc tranh cãi này diễn ra nảy lửa nhất là về các chính sách gần đây của Trung Quốc đối với Bắc Triều Tiên). Washington và các chính phủ nước khác đang có một cơ hội để gây ảnh hưởng tới môi trường quốc tế theo cách có thể ủng hộ những nhà lãnh đạo Trung Quốc nào tán thành những chính sách mang tính sáng tạo, mang tính xây dựng và mang tính dứt khoát rõ ràng đồng thời hạ thấp những ai chủ trương những chính sách phản động, bảo thủ và hiếu chiến. Cách tốt nhất để làm điều này là kiên trì khuyến khích Trung Quốc đóng một vai trò tích cực trong những nỗ lực hợp tác đa phương mà không tỏ ra ghen tị với việc Trung Quốc có thể giành được sự ảnh hưởng mới mẻ nếu họ chấp nhận vai trò này. Đồng thời, Mỹ và các đồng minh cần nhấn mạnh rằng họ sẽ phản ứng lại trước những thách thức do Bắc Triều Tiên hoặc Iran gây ra dù có hay không có sự hợp tác của Trung Quốc; Trung Quốc sẽ mất mát lợi ích của họ nếu như ngăn cản hoặc thậm chí đứng ngoài những nỗ lực này.

Trong lịch sử, một các tiếp cận như vậy từng đã thành công. Vào giữa những năm 1990, Bắc Kinh cũng làm cho nhiều nước láng giềng và Mỹ xa lánh giống như hiện nay khi họ bắt nạt Đài Loan và lựa chọn một thái độ cứng rắn đối với Philippine ở Biển Nam Trung Hoa và cường điệu sự tăng cường hợp tác an ninh giữa Mỹ và Nhật Bản. Song một sự kết hợp giữa chính sách khôn ngoan và kiên quyết bởi Washington và các đồng minh (chẳng hạn, “Sáng kiến Nye” [Nye Initiative] nhằm tăng cường liên minh Mỹ-Nhật và việc cử hai hàng không mẫu hạm chiến đấu tới vùng biển ngoài khơi Đài Loan trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng năm 1996) đã có tác dụng khuyến khích ưu thế của tư duy ôn hòa hơn ở Bắc Kinh. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong năm 1997 đã đi theo một đường lối tích cực hơn nhiều.

Chẳng có lý do gì để tin rằng một quá trình tương tự lại không thể xảy ra ngày hôm nay – nhưng do nhận thức về sức mạnh gia tăng của Trung Quốc và sự bất ổn tiềm tàng trong nước như được đề cập ở trên cho nên những thách thức hiện nay là lớn hơn so với vào những năm 1990. Mặc dù một số người ở Washington và rất nhiều người ở Bắc Kinh đã phóng đại rất nhiều khi họ nói rằng nước Mỹ dưới thời của Obama “đã quay lại châu Á” , song không còn nghi ngờ gì nữa về việc Trung Quốc và các nước liên quan khác trong khu vực đã để ý tới việc Obama và các cố vấn chính của ông – Ngoại trưởng Clinton, Bộ trưởng quốc phòng Robert Gates và Cố vấn an ninh quốc gia Thomas Donilon – đã thường xuyên tới thăm khu vực này, trong đó vào tháng 11 năm 2010 Obama và Clinton đã có chuyến công du riêng của từng người tới nhiều quốc gia ở châu Á. Cụ thể hơn, cuộc tập trận Mỹ-Hàn ở biển Hoàng Hải sau vụ Bắc Triều Tiên tấn công hồi tháng 11 và cuộc họp ba của các quan chức an ninh Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ tại Washington đã chứng tỏ rằng Mỹ và các đồng minh có những lựa chọn ngoại giao và an ninh thậm chí không cần có sự tham gia tích cực của Trung Quốc. Bắc Kinh không thích những sáng kiến như vậy – đó lại càng là lý do để Trung Quốc quay lại với một loạt chính sách mang tính sáng tạo hơn, dứt khoát hơn và làm yên lòng các nước khác hơn trong giải quyết những vấn đề đã từng là nguyên nhân khiến cho Mỹ và các đồng mình buộc phải phản ứng trước theo cách nói trên.

Chính quyền Obama nên tiếp tục tăng cường các mối quan hệ ở châu Á. Một kế hoạch như vậy là một ý tưởng tốt dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhất là khi các chính sách của Bắc Kinh đang làm thiệt hại lợi ích của tất cả các nước – trong đó có cả lợi ích của chính Trung Quốc – thì Washington nên nhấn mạnh rằng cho dù Washington mong muốn giải quyết các vấn đề với sự hợp tác tích cực của Bắc Kinh thì vẫn còn có những khả năng lựa chọn khác dù ít hấp dẫn hơn. Đây là sự thuyết phục và không phải là sự ngăn chặn; Trung Quốc vẫn đang được yêu cầu đóng một vai trò lớn hơn chứ không phải nhỏ đi, cả ở khu vực lẫn toàn cầu. Thêm vào đó, Washington nên coi triển vọng hợp tác không phải như là một lời đề nghị đi từ những lợi ích của Mỹ mà như là một cách thức để Bắc Kinh có thể theo đuổi những lợi ích của chính họ và đồng thời làm yên lòng những nước có liên quan khác. Sự thực là thuật ngữ “lợi ích quốc gia cốt lõi” đã không được sử dụng bởi một quan chức cấp cao của Mỹ bởi vì tuyên bố chung năm 2009 đã thừa nhận rằng các quan chức của chính phủ Mỹ đã hiểu được tâm lý phản tác dụng mà những thuật ngữ như vậy đã nuôi dưỡng trong tư duy chiến lược của Trung Quốc. Thay vì thế, ngoại giao của Mỹ đối với Trung Quốc đã nhấn mạnh một cách phù hợp sự theo đuổi những lợi ích chung đồng thời thừa nhận những vấn đề có sự khác biệt nghiêm trọng. Rút cục, như nước Mỹ đã làm trong quá khứ, Washington nên đưa ra công khai và khen ngợi những ví dụ về sự hợp tác của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế trong quá khứ và hiện tại trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu.

Năm 2010, các chính sách ở châu Á của chính quyền Obama đã có tác dụng tích cực, tuy hạn chế. Bất chấp những khác biệt đang tồn tại giữa Trung Quốc và Mỹ liên quan đến Bắc Triều Tiên, giá trị của đồng tiền của Trung Quốc và chính sách “nới lỏng định lượng của Ngân hàng liên bang Hoa Kỳ [quantitative easing: gia tăng lượng tiền vào một nền kinh tế để kích thích tăng trưởng] song Bắc Kinh vẫn tìm cách cải thiện mối quan hệ song phương trong thời gian chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Mỹ của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào tháng 1 năm nay. Chẳng hạn, Bắc Kinh đã cho phép khôi phục đối thoại giữa quân đội của hai nước vào mùa thu năm 2010 sau chín tháng gián đoạn do Trung Quốc phản đối Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan hồi đầu năm 2010, và bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt (Liang Guanglie) đã mới bộ trưởng quốc phòng Gates tới thăm Trung Quốc trong cùng tháng diễn ra chuyến viếng thăm của Hồ Cẩm Đào tới Washington. Ngoài ra còn có những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang bắt đầu vươn tay ra các nước thành viên ASEAN nhằm giải quyết những vấn đề an ninh đang tồn tại đã được làm trầm trọng lên do việc Trung Quốc lên giọng bắt nạt tại Diễn đàn khu vực ASEAN hồi cuối năm ngoái. Rút cục, Trung Quốc có thể đóng một vai trò mang tính xây dựng trong việc kiềm chế Bắc Triều Tiên sau khi nước này đe dọa Hàn Quốc để phản ứng lại một cuộc diễn tập của tập pháo binh Hàn Quốc ở vùng biển ngoài khơi đảo Yeonpyeong hồi tháng 12 năm 2010, chỉ một tháng sau khi Bắc Triều Tiên bắn pháo vào hòn đảo này: khi bài viết này được đăng thì không có sự trả đũa nào xảy ra cà.

Đó là tin tốt lành. Nhưng điều ít được nhiều người để ý tới hơn ấy là chính những yếu tố gây ra những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc và các nước láng giềng và Mỹ lại gây ra vấn đề có lẽ khó khăn hơn và đem lại hậu quả lâu dài hơn: những yếu tố đó đã làm chậm lại nếu không muốn nói là làm dừng hoàn toàn điều được coi là một sự thay đổi tích cực hơn và được mong đợi rất nhiều trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong hai năm cuối của chính quyền Bush. Trong giai đoạn đó, Bắc Kinh đã chứng tỏ họ sẵn sàng nới lỏng một số cấm đoán truyền thống trong một chính sách đối ngoại tạo lòng tin nhiều hơn để có thể hỗ trợ cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề mà tất cả các nước đang đối mặt trong đó có cả Trung Quốc.

Ngay cả nếu như mối quan hệ Mỹ-Trung được cải thiện và Trung Quốc thay đổi hoàn toàn những khuynh hướng tiêu cực trong ngoại giao của họ ở khu vực thì Washington vẫn có thể tiếp tục chưa thấy thỏa mãn nếu như sự thay đổi đó không bao gồm sự nâng cao sự tham gia của Trung Quốc trong những nỗ lực quốc tế để giải quyết những vấn đề toàn cầu, đặc biệt là vấn đề phổ biến hạt nhân ở Bắc Triều Tiên và Iran. Đối với Mỹ và các đồng minh, việc đảm bảo có được sự hợp tác theo kiểu nói trên của Trung Quốc có lẽ là chướng ngại lớn nhất phải vượt qua. Obama có một nhóm chuyên gia giỏi về châu Á, song những nhân tố chính trị và tâm lý ở bên trong đất nước Trung Quốc sẽ gây ra những lý do để bi quan, ít nhất cho tới khi Trung Quốc lựa chọn xong nhà lãnh đạo kế tục vào năm 2012. Thật không may là nếu không có một sự thay đổi như vậy trong chính sách của Trung Quốc thì Mỹ và các nước còn lại trong cộng đồng quốc tế sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều trong việc giải quyết các vấn đề từ phổ biến hạt nhân cho tới biến đổi khí hậu. Chỉ nguyên về một ý nghĩa quan trọng như thế này thì nước Mỹ đã cần đến một nước Trung Quốc cư xử tạo lòng tin.


Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
.
.
.

No comments:

Post a Comment