Thursday, September 2, 2010

NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN VIỆT NAM SAU ĐẠI HỘI IV 1976-1982 (Kỳ 3)

Nhà nước Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV (1976-1982) (3)

Điền Viên

http://www.doithoaionline.org/baimoitrongthang/2010/0710/baimoi0710_192.html

Đối Thọai: Điền Viên là bút hiệt của một đảng viên lão thành CSVN. Ông Điền Viên đã ngòai 70 tuổi, hơn 50 tuổi đảng, có lúc đã giữ chức vụ Vụ Trưởng ở 1 Bộ trong chính phủ VN cộng sản. Hiện nay Ông đang nghỉ hưu tại Hà Nội. Kính giới thiệu đến độc giả của Đối Thọai bài viết “Nhà nước Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV” của Điền Viên Kỳ 3 và cũng là kỳ cuối
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV (1976-1982)kỳ 1
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV (1976-1982) (2)

-------------------------------------------

Kỳ 3 và hết

Năm 1986, sự suy kiệt của kinh tế quốc nội, sự cô lập về ngoại giao, sự đe dọa và gây hấn thường xuyên của Trung Hoa CS cùng những biến chuyển trong tình hình thế giới là của nước đàn anh Liên Xô đã đẩy Cộng sản Việt Nam vào một bước ngoặt trên con đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội” !!!

Những thay đổi của Liên Xô về đối nội cũng như đối ngoại đã tạo nên một cơn khủng hoảng ý thức hệ cho Đảng Cộng sản Việt Nam và đã gây hoang mang giao động mạnh mẽ cho giới lãnh đạo. Đảng CS lệ thuộc vào Liên Xô về tất cả mọi mặt : chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao… cho nên một khi Liên Xô đã đề ra glasnov (cởi mở) và perestroika (tái cấu trúc), Cộng sản Việt Nam không còn một cách lựa chọn nào khác cũng phải đưa ra chính sách “đổi mới”.

Những nguyên nhân của sự “đổi mới tư duy” về đối nội cũng như đối ngoại của Cộng sản Việt Nam được coi như chính thức bắt đầu từ sau bài diễn văn của Gorbachev đọc tại Vladivostok (Hải Sâm Uy) ngày 28 tháng bảy năm 1986, trong đó Liên Xô công bố chính sách Á Châu và Thái Bình Dương mới, mà mục tiêu chủ yếu là tái lập quan hệ ngoại giao bình thường với Trung Hoa. Để đạt được mục đích đó, Gorbachev tuyên bố sẽ giải quyết tất cả “ba trở ngại” mà Trung Hoa đòi hỏi. Gorbachev còn nói thêm là “Vấn đề Căm Pu Chia” phải được giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa.

Sự thay đổi chính sách của Liên Xô đặt Việt Nam vào một tình trạng bất ngờ và nguy hiểm. Liên Xô lả một cường quốc, họ có thể công khai nhượng bộ Trung Hoa và Hoa Kỳ mà không bị mất uy thế nước lớn. Hơn nữa, làm như thế họ còn được cảm tình của Hoa Kỳ và các nước Tây Âu, sẵn sàng được giúp đỡ để giải quyết được những khó khăn kinh tế. Trong khi đó, Việt Nam là một nước nhỏ, lại đang là một gánh nặng bòn rút tài nguyên đang kiệt quệ của Liên Xô nên Liên Xô có thể hy sinh Việt Nam để cầu thân với Trung Hoa, Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á khác.

Trước viễn ảnh bị đàn anh Liên Xô bỏ rơi để kết thân với kẻ thù của mình là Trung Hoa, cho nên CS Việt Nam bắt buộc phải thay đổi toàn diện chính sách đối nội và đối ngoại của mình. Vì thế, đại hội đảng lần thứ VI vào cuối năm 1986 đã đánh dấu một khúc quan trọng trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau mấy tháng chuẩn bị, đại hội đảng lần thứ sáu được triệu tập từ ngày 15 đến 18 tháng mười hai năm 1986 gồm 1129 đại biểu tham dự. Khách tới dự đại hội này có Ligachev, nhân vật số 2 của đảng cộng sản Liên Xô, Kaysone Phomvihane của CS Ai Lao và Heng Samrin của CS Cămpuchia cùng lèo tèo vài đại diện các đảng cộng sản Đông Đức, Cu ba… Đại hội đảng kỳ này đã biểu quyết chấp thuận 124 ủy viên dự khuyết mà đại hội trung ương đảng trước đó đã đưa ra. Sau đó họ lại bầu những ủy viên Bộ Chính trị là những người có quyền lực nhất của đảng và chính phủ. Tại đại hội Đảng, trước ngày bầu ra những ủy viên Bộ Chính trị, Phạm Hùng tuyên đọc bức thư xin rút lui của bộ ba Trường Chinh. Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Cả ba người sau đó được cử làm “cố vấn tối cao”

Bộ Chính trị mới được bầu của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 gồm có:

1. Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, bí danh Mười Cúc, sinh tại miền Bắc nhưng phần lớn cuộc đời hoạt động tại miền Nam. Từ 1940 đã nhiều lần làm bí thư thành ủy Sài Gòn. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ II đã từng là phó bí thư trung ương Cục miền Nam, phụ tá cho Phạm Hùng được vào trung ương đảng năm 1960 và Bộ Chính Trị năm 1976 .

2. Phạm Hùng thay Phạm Văn Đồng làm chủ tịch hội đồng bộ trưởng vào tháng sáu năm 1987 nhưng được có mấy tháng thì bị bệnh chết vào tháng ba năm 1988. Phạm Hùng sinh năm 1912 tại miền Nam và lả ủy viên Bộ Chính Trị duy nhất hoạt động tại miền Nam trong chiến tranh Đông Dương II.

3. Võ Chí Công tên thật là Võ Toàn sau khi Trường Chinh từ chức năm tháng sau vào năm 1987 lên thay chức chủ tịch nhà nước CSVN. Từng hoạt động trong trung ương cục miền Nam, sau đó làm chính ủy quân khu V.

4. Đỗ Mười sinh năm 1917 thay Phạm Hùng làm thủ tướng từ tháng sáu năm 1988. . Đỗ Mười sau năm 1954 là bí thư thành ủy Hải Phòng, sau đó tham gia cải tạo công thương nghiệp miền Bắc. Năm 1976 là bộ trường Bộ Xây Dựng, năm sau được cử vào Nam phụ trách cải tạo công thương nghiệp để tập thể hóa kinh tế miền Nam.

5. Võ Văn Kiệt, Phó thủ tướng kiêm chủ tịch ủy ban kế hoạch Nhả Nước - Võ Văn Kiệt sinh năm 1922, sinh trưởng và hoạt động ở miền Nam được cử làm ủy viên trung ương đảng cùng với Nguyễn Văn Linh vào năm 1960. Năm 1976, Kiệt được thăng lên làm ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị trung ương đảng và thay Nguyễn Văn Linh làm bí thư thành ủy Sài Gòn. Võ Văn Kiệt được coi như một người cởi mở, thực dụng, cổ võ cho đổi mới kinh tế vả tản quyền quản lý cho các địa phương. Sau khi Phạm Hùng mất, Võ Văn Kiệt được cử lên thay nhưng vài tháng sau thi bị đảng gạt ra để cho Đỗ Mười lên thay.

6. Lê Đức Anh từ thứ 12 lên hàng thứ sáu. Tổng tham mưu trưởng quân đội thay Lê Trọng Tấn năm 1986 rồi thay Văn Tiến Dũng làm bộ trưởng quốc phòng năm 1987. Từng làm cai thợ ở đồn điền cao su. Trong chiến tranh Đông Dương II hoạt động ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Sau 1975 làm tư lệnh quân khu IX. Trần Văn Trà bị mất chức trước năm 1979. Lê Đức Anh được lên thay làm tư lệnh quân khu VII, một quân khu quan trọng hơn, để từ đó chỉ huy công cuộc đánh chiếm Căm Pu Chia. Nhờ thân cận với Lê Đức Thọ ở Căm Pu Chia, Lê Đức Anh được cất nhắc vào Bộ Chính Trị năm 1982.

7. Nguyễn Đức Tâm lên thay Lê Đức Thọ làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng CS. Tâm đã từng là bí thư tỉnh Quảng Ninh sau đó làm phó ban tổ chức thay cho Lê Đức Thọ trong nhiều năm.

8. Nguyễn Cơ Thạch, làm bộ trưởng ngoại giao tên thật là Phạm Văn Thương, sinh quán Nam Định, ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị từ năm 1982.

9. Đồng Sĩ Nguyên tên thật Nguyễn Sĩ Đông, trong chiến tranh Đông Dương II phụ trách bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh rồi sau đó làm bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải.

10. Trần Xuân Bách kiêm nhiệm trưởng ban đối ngoại trung ương đảng CSVN

11. Nguyễn Thanh Bình từng là cục trưởng cục hậu cần sau đó làm bộ trưởng rồi bí thư thành ủy Hà Nội, Bình được nâng đỡ vì là cháu rể của Lê Đức Thọ.

12. Đoàn Khuê cựu tư lệnh Quân Khu V, năm 1987 được cử thay Lê Đức Anh làm tổng tham mưu trưởng quân đội, được thăng đại tướng năm 1990. Tới 1991 thay Lê Đức Anh làm bộ trưởng quốc phòng

13. Mai Chí Thọ, em trai ruột của Lê Đức Thọ, từng hoạt động ở miền Nam VN. Sau 1975, có lúc làm chủ tịch ủy Ban Nhân Dân thành phố HCM, kiêm nhiệm luôn vấn đề an ninh toàn miền Nam. Trước khi vào Bộ Chính Trị, làm bí thư thành úy thành phố HCM. Sau đó, năm 1987 được cử làm bộ trưởng Bộ Nội Vụ (1).

Một ủy viên dự khuyết là Đào Duy Tùng, trước đó, năm 1977, Tùng là tổng biên tập Tạp Chí Cộng Sản tới năm 1982, đổi qua làm giám đốc Việt Nam Thông Tấn Xã, sau đó được cử làm trưởng ban tuyên huấn TW đảng. Tới năm 1988, Đào Duy Tùng được thăng làm ủy viên thực thụ Bộ Chính Trị. Là một người tham vọng, mấy năm sau Tùng mưu toan tranh chức tổng bi thư nhưng thất bại. Tùng là cha đẻ của Đào Duy Quát.

Trong thành phần của Bộ Chính Trị, chỉ có Trần Xuân Bách là có tư tường cấp tiến nhất bằng lòng chắp nhận đa nguyên đa đảng. Trần Xuân Bách tên thật là Vũ Thiện Tuấn. sinh tại Nam Định năm 1924, từng làm bí thư tỉnh ủy tại nhiều tỉnh tại miền Bắc. Năm 1981 , khi Lê Đức Thọ về nước sửa soạn đại hội đảng, Trần Xuân Bách được cử lên thay làm trưởng đoàn B68 phụ trách cai trị Căm Pu Chia. Năm 1985, ông về nước, làm chánh văn phòng ban bí thư trung ương đảng trước khi được cử làm ủy viên Bộ Chính Trị. Theo ông “Đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới chính trị. Phải đi bằng hai chân, không thể đi khập khiễng bằng một chân" (2).

Ngoài ra, còn có ba ủy viên Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và Nguyễn Cơ Thạch tương đối cởi mở, có đầu óc cấp tiến, số còn lại phần lớn là những kẻ cơ hội đã được khuyến dụ và rèn luyện để trở thành đàng viên Cộng Sản, họ không thể nào một sớm một chiều chấp nhận những sai lầm hay yếu kém của chủ nghĩa đó. Ngoài ra, một khi trở thành đảng viên CS, họ và gia đình đã được bước vào một giai cấp mới được hưởng đặc quyền đặc lợi không những cho đến mãn đời của mình mà còn của đời con, đời cháu… Điển hình cho những thành phần này là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Lê Khả Phiêu, Đào Duy Tùng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Phạm Quang Nghị, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Hà Phan…vv…

Cho nên nêu có sự sửa đổi, sự sửa đổi này cũng chỉ miễn cưỡng vả nửa vời. Hơn thế nữa, với ảnh hưởng của Lê Đức Thọ, một số những người cộng sản thủ cựu vẫn được cử vào Bộ Chính Trị như Nguyễn Đức Tâm, Mai Chí Thọ, Đào Duy Tùng, Lê Đức Anh... Giữa hai ủy viên cởi mở từ miền Nam là Nguyễn Văn Lính và Võ Văn Kiệt cũng có bất hòa.

Nguyễn Văn Linh thường hay tố cáo Phan Thanh Nam, tổng giám đốc công ty quốc doanh Tradico tham nhũng và là con rơi của Võ Văn Kiệt (3). Vì thế sự đổi mới của Cộng Sản Việt Nam đã không được thực hiện một cách triệt để.

Hai năm sau, với sự tan vỡ của khối Cộng Sản ở Liên Xô, Đông Âu và cùng với đó là vụ sinh viên biểu tình ớ Thiên An Môn tháng 4,5 và 6 năm 1989, đa số đảng viên từ cấp nhỏ đến cấp lãnh đạo kể cả Nguyễn Văn Linh cảm thấy nguy cơ đảng CSVN bị tan rã, đảng viên sẽ bị mất hết ưu quyền nên đã trở lại áp dụng chính sách cứng rắn và đàn áp về chính trị, nhưng vẫn phải tiếp tục cởi mở hơn về kinh tế, vì nhờ vậy mà đời sống của nhân dân và nhất là của chính họ đã khá hơn. Họ gọi chính sách đó là "kinh tế thị trường theo định hướng xá hội chủ nghĩa". Chính sách này không còn được học tập từ đồng minh Liên Xô nữa mà đã rập khuôn theo đường lối cai trị của "kẻ thù lâu đời và nguy hiếm" cũ đó là Trung Hoa. Kể từ năm 1986, Cộng Sản Việt Nam đã cố gắng đủ mọi cách, kể cả nhượng đất đai, hải đảo để cầu thân với cộng sản Trung Hoa.

Người may mắn nhất trong đại hội đảng lần này là Lê Đức Anh được bất ngờ lên chức bộ trưởng quốc phỏng sau khi Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn chết một cách đột ngột. Lê Đức Anh đã làm lại lý lịch. Trong lý lịch cũ, năm 1976 Lê Đức Anh khai thành phần bản thân là viên chức và vào đảng từ tháng bảy năm 1945, nhưng khi lên bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Lê Đức Anh đã khai bản thân là công nhân vào đảng từ năm 1938. Những Đảng cộng sản lâu năm như Phạm Văn Xô (từng là xứ ủy viên Nam Bộ), Đồng Văn Cống, Năm Thi (chủ nhiệm hậu cần cục R) đều biết rõ lý lịch của Lê Đức Anh và đã báo cáo với Nguyễn Đức Tâm, vụ trưởng vụ tổ chức TW đảng CSVN.

Hơn mười năm sau, sau khi đã mất chức và được hỏi về việc này, Nguyễn Đức Tâm trả lời là năm 1986 đã có báo cáo với Lê Đức Thọ, nhưng Lê Đức Thọ nói là nên xếp lại. Sau đó, Nguyễn Văn Linh cũng được báo cáo nhưng “không có ý kiến”. Đến thời Đỗ Mười thì Lê Đức Anh đã được làm chủ tịch nước nên bỏ qua luôn vụ này. Mấy năm sau, trong những đại hội đảng VIII, IX và X, đều có thư tố cáo Lê Đức Anh đã khai man lý lịch nhưng những lúc sau này, thế lực của Lê Đức Anh rất mạnh nên nội vụ luôn luôn được “khoanh lại”. (4)

Ngoài những ủy viên Bộ Chính Trị phụ trách quyết định đường lối chính sách của quốc gia, những ủy viên trung ương Đảng còn ra bầu một ban bí thư để phụ trách điều hành nội bộ đảng. Ban bí thư này ngoài bốn ủy viên Bộ Chính trị là Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách, Đào Duy Tùng còn có :

- Trần Kiên, tên thật Nguyễn Tuấn Tài từng là bí thư các tỉnh Hải Phòng, Gia Lai, Đak Lắc và Nghĩa Bình. Từ năm 1979 đến 1981 làm Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp. Tới 1982, được đề cử vào ban bí thư và chủ nhiệm Ban kiểm tra trung ương đảng.

- Lê Phước Thọ là Trưởng ban nông nghiệp Đảng.

- Nguyễn Quyết là Đại tướng, từng là tư lệnh đặc khu Thủ đô và quân khu III. Năm 1986 là phó chủ nhiệm Tổng cục Chính Trị. Mấy tháng sau, thay Chu Huy Mân làm tổng cục trưởng.

Đàm Quang Trung, gốc người Tầy, năm 1979 là thiếu tướng tư lệnh quân khu I thay Chu Văn Tấn, sau khi Chu Văn Tấn bị thanh trừng năm 1982 được thăng trung ương rồi phó chủ tịch Quốc Hội.

- Vũ Oanh trước 1975, hoạt động tuyên vận ở miền nam, từng phụ tá cho Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách trong đoàn B 68 ở Căm Pu Chia. Năm 1991 được đề cử vào Bộ chính trị.

- Nguyễn Khánh, chánh văn phòng trung ương Đảng thay Trần Xuân Bách, Nguyễn Khánh là người phụ trách đưa thư khuyết dụ từ chức của Lê Đức Thọ cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng. Năm 1987 ra làm phó thủ tướng kiêm tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng.

- Trần Quyết là trung tướng công an, từng là thứ trưởng Bộ nội vụ.

- Trần Quốc Hương, năm 1982 ở trong ban thường vụ đảng ủy thành phố HCM. Năm 1983 đổi sang làm phó bí thư thành ủy Hà Nội. Năm 1986 làm tổng cục Du lịch. Cùng với Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hương là người ra lệnh phá bỏ nghĩa trang Mạc Đình Chi ở Sài Gòn ngay sau ngày 30/4/1975.

- Phạm Thế Duyệt người tỉnh Thái Bình đã từng làm phó rồi chủ tịch công đoàn, sau này cũng được vào Bộ chính trị.

Sau khi Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí thư, Trần Độ lại được tái nhiệm làm trưởng ban Văn nghệ trung ương đảng, nhưng khi làn sóng đổi mới văn hóa bắt đầu nổi lên, ảnh hưởng đến uy quyền tuyệt đối của đảng thì những đảng viên cao cấp bị giao động. Bộ Chính trị sát nhập ban này vào Ban tư tưởng văn hóa do Trần Trọng Tân làm trưởng ban.

Tới năm 1988, sau khi Nguyễn Văn Linh thay đổi đường lối, Trần độ lại bị mất chức và sau đó bị khai trừ ra khỏi đảng cùng lúc với nhà văn Nguyên Ngọc, bí thư đảng đoàn của hội nhà văn đã viết câu “người viết vẫn cứ viết mà không thật tin ở những điều mình viết ra”.

Việc “đổi mới tư duy” đầu tiên là đại hội đảng lần thứ sáu là quyết định bỏ câu “Trung Hoa là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” trong lời mở đầu điều lệ đảng, đánh dấu một sự thay đổi quan trọng trong đường lối đối ngoại.

Vài ngày sau đại hội đảng, vào tháng Giêng 1987, Ban Chấp hành trung ương đảng lại họp hội nghị và đề cử nhân viên chính phủ. Lần này, Võ Chí Công được cử làm chủ tịch nhà nước, Phạm Hùng được cử hội đồng bộ trưởng thay Phạm Văn Đồng. Nội các của Phạm Hùng gồm có 32 bộ trưởng, trong đó những bộ trưởng chính gồm có:

- Phó chủ tịch kiêm tổng thư kí Hội Đồng Bộ Trưởng Nguyễn khánh.

Phó chủ tịch HĐBT kiêm bộ trưởng ngoại thương Đoàn Duy Thành. Nhân vật Đoàn Duy Thành trước đây là bí thư thành ủy Hải Phòng, sau này làm chủ tịch phòng thương mại. Năm 2006 viết cuốn hồi ký tựa đề là “Làm người là khó, làm người xã hội chủ nghĩa càng khó hơn”, mà mục đích chính là để chỉ trích Đỗ Mười, người đã chèn ép con đường tiến hóa của ông ta. Trong cuốn sách này, Đoàn Duy Thành cũng kể lại là ông ta là người được Lê Duẩn cứu xét để làm tổng bí thư đảng. Cuốn sách bị những người trong phe bảo thủ chỉ trích và giám đốc nhà xuất bản bị Bộ Thông Tin Văn Hóa khiển trách.

Bộ trưởng quốc phòng : Lê Đức Anh

Bộ trưởng ngoại giao : Nguyễn Cơ Thạch

Bộ trưởng nội vụ: Mai Chí Thọ

Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch nhà nước: Võ Văn Kiệt, phụ tá là Đậu Ngọc Xuân.

Chủ nhiệm Ủy ban hợp tác kinh tế văn hóa với Ai Lao và Cam Pu Chia: Đặng Thí

Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước: Phạm Văn Tiệm

Bộ trưởng tài chính: Hoàng Quy

Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước: Lữ Minh Châu.

Bộ trưởng Vật tư: Hoàng Đức Nghi.

Bộ trưởng Xây dựng: Phan Ngọc Tường

Bộ trưởng Giao thông Vận tải: Bùi Danh Lưu

Bộ trưởng Công nghiệp: Vũ Tuấn.

Bộ trưởng Văn hóa: Trần Văn Phác

Bộ trưởng thông tin: Trần Hoàn (từng là trưởng ty văn hóa Thừa Thiên Huế sau 1975, cũng tác giả bài Sơn Nữ Ca).

Bộ trưởng Tư pháp: Phan Hiền, từng là Thứ Ngoại giao.

Bộ trưởng Y tế: Đặng Hồi Xuân (vài năm sau, Đặng Hồi Xuân bị tử nạn máy bay khi sang Vọng các họp một hội nghị về y tế).

Đoàn Khuê được cử thay Lê Đức Anh làm tổng thương mưu trưởng quân đội.

Nguyễn Quyết thay Chu Huy Mân làm chủ nhiệm tổng cục Chính trị .

Tháng tư năm 1927, Việt Nam cho bầu cử Quốc Hội khóa 8 và sau khi Trần Độ từ chối, Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban tổ chức đảng xếp đặt cho Lê Quang Đạo làm chủ tịch QH. Kỳ bầu cử này, ngoài các cán bộ được chỉ định, đảng Cộng Sản còn cho vào một số nhỏ những nhân vật cơ hội không phải đảng viên như Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Lý Chánh Trung, Nguyễn Xuân Oánh, Ngô Bá Thành … Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa được mời ứng cử nhưng đã từ chối. Sau năm 1975, dù đã được cử làm thứ trưởng Y tế, bà đã nhiều lần, kể cả khi gặp Phạm Văn Đồng, xin ra khỏi đảng nhưng chỉ được chấp thuận năm 1979 với điều kiện việc ra khỏi đảng của bà chỉ được tiết lộ 10 năm sau.

Sau khi được hỏi về biến cố lịch sử nào trọng đại nhất trong năm 50 năm qua, bà trả lời là là sự sụp đổ của bức Tường Bá Linh vào năm 1989, vì biến cố đó đã chấm dứt một (đại ảo tưởng). Ngoài bà Dương Quỳnh Hoa, những người thuộc Mặt trận Giải Phóng Miền Nam cũng như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tuấn Phát, Nguyễn Thị Định… được sắp xếp cho làm phó chủ tịch nhà nước. Chức vụ này chỉ có hư danh, dành cho những người sắp bị loại. Bà Hoa đã từng nói thẳng với Nguyễn Hữu Thọ là họ chỉ là “hình nộm, mặt nạ hay vài món trang sức rẻ tiền” của chế độ CSVN mà thôi.

Trong những năm đầu của chính sách đổi mới, Cộng Sản Việt Nam vẫn chỉ có một chỗ dựa duy nhất là cộng sản Liên Xô. Sau khi đã sắp xếp xong nội các, ngày 17 tháng năm 1987, đến lượt Nguyễn Văn Linh bay sang Liên Xô để gặp TBT đảng CS Gorbachev. Đích thân Gorbachev vạch rõ cho Nguyễn Văn Linh những kinh nghiệm về sự trì trệ của kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự cần thiết phải giao thương với những nước tư bản và khuyến cáo Việt Nam nên giải quyết vấn đề Căm Pu Chia sớm ngõ hầu hòa hoãn được với Trung Hoa. Vì thế, sau khi từ Liên Xô trở về, ngày 23 Tháng Năm 1987, Nguyễn Văn Linh đã viết ngay một loạt bài “Những việc cần làm ngay” đăng trên báo Nhân Dân của ĐCSVN để hô hào “đổi mới tư duy” và ngày 26 Tháng Năm 1987, Nguyễn Văn Linh họp Bộ Chính Trị thông báo về những khuyến cáo của Liên Xô (6). Trong thời gian đó, trong bước đầu lấy lòng Trung Hoa, Bộ Ngoại Giao đã làm tờ trình lên Bộ chính trị xin bỏ câu nói “ Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” trong lời mở đầu của Hiến Pháp nước CHXHCN VN.

Sau phái đoàn của đảng Cộng Sản Việt Nam do Nguyễn Văn Linh hướng dẫn sang gặp Gorbachev, những phái đoàn chính phủ và quân đội cũng lần lượt bay sang Liên Xô để học kinh nghiệm và xin ý kiến. Phái đoàn chính phủ do Phạm Hùng hướng dẫn sang Mạc tư Khoa vào ngày 12 Tháng sáu 1987 và phái đoàn do Nguyễn Quyết, chủ nhiệm tổng cục Chính trị, sang ngày 19 Tháng Sáu 1987. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi sau đại hội VI. Việt Nam lại học tập khuôn mẫu của Liên Xô để thực hiện sự thay đổi.

Từ Liên Xô, Nguyễn Văn Linh bắt đầu thi hành hàng loạt những biện pháp “đổi mới”. Trước hết về kinh tế, được thấy rõ bản chất thiếu năng động và trí tuệ của nền kinh tế Liên Xô, được thông báo về kết quả thảm hại của nó sau hơn sáu chục năm ( 60) xây dựng xã hội chủ nghĩa, và được chứng kiến sự phát triển của kinh tế nhảy vọt của những nước liên bang, Cộng sản Việt Nam đành chấp nhận sự thất bại của hệ thống kinh tế tập trung và bắt đầu đưa ra những phương cách sửa đổi lại. Dù cho những biện pháp tư nhân hóa và tản quyền hóa về kinh tế như vậy đi ngược lại với giáo điều Mác xít, họ vẫn muốn giữ ưu quyền độc tôn của Đảng để gọi chính sách kinh tế của họ là nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Những biện pháp cởi mở kinh tế được đưa ra gồm có :

Giải trừ việc tập thể hóa nông nghiệp

Để cho những công ty quốc doanh được độc lập hơn

Bãi bỏ những trạm thuế quan từ địa phương này sang địa phương khác.

Hoàn chỉnh lại Luật đầu tư để các công ty ngoại quốc dễ dàng đem vốn vào Việt Nam đầu tư làm ăn.

Bãi bỏ độc quyền của Nhà nước trong việc buôn bán với nước ngoài

Cho phép các công ty tư nhân thuê dùng mười nhân công trở xuống.

Giải thể bớt những cơ quan và bộ máy hành chánh hoạch định kế hoạch kinh tế trung ương

Bớt đi 15% nhân viên nhà nước.

Trả lại một số những xí nghiệp ở miền Nam đã bị nhà nước tịch thu sau ngày “giải phóng” 30/4/1975

Bãi bỏ chế độ (bao cấp) theo đó công nhân viên ngoài lương bổng, tùy theo chức vụ mà được lãnh một số nhu yếu phẩm (như gạo, thịt, thuốc lá …) nhất định

Nhờ những biện pháp đổi mới, trong vòng 2 - 3 năm sau, nền kinh tế của Việt Nam bắt đầu hồi phục và phát triển. Nông đân không còn bị bó buộc lao động trong tập thể đã gia tăng sản xuất, cho nên mấy năm sau Việt Nam đã bắt đầu xuất cảng lúa gạo. Những cơ sở kỹ nghệ nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng cũng bộc phát.

Nhờ vị trí thiên nhiên thuận lợi, dân trí cao, nhân dân được tiếng là cần cù siêng năng nên dù có phần nào bị gò bó do cấm vận, những nhà đầu tư ngoại quốc bắt đầu đổ tiền vào đầu tư. Ngoài ra, những giếng dầu hỏa ngoài khơi đã khai thác được, đồng thời với nhu cầu về dầu hỏa trên thế giới tăng lên nhanh chóng. Thêm vào đó, tiền bạc của người Việt Nam ở hải ngoại gửi về mỗi năm hàng tỷ Mỹ kim nên đã giúp cho kinh tế Việt Nam kể từ 1991 đã phát triển đều đặn từ 6 đến 8% mỗi năm trong liên tiếp 6,7 năm liền.

Tuy nông nghiệp và những xí nghiệp tư doanh đã đóng góp lớn lao trong việc hồi phục kinh tế, chính quyền Cộng sản lúc nào cũng nhằm ưu tiên cho việc phát triển những công ty quốc doanh, dù trong khoảng 6000 công ty quốc doanh này, đa số bị lỗ vốn. Do việc phát triển nền kinh tế thị trường, một số luật lệ kinh doanh được đặt ra. Tuy đại hội VI của đảng Cộng sản bắt đầu nhấn mạnh đến quan niệm “nhà nước pháp quyền” để điều hành kinh tế theo luật pháp, nhưng đại hội vẫn cứ xác nhận lại cái gọi là pháp chế xã hội chủ nghĩa “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ” nhằm bảo vệ quyền lợi của Đảng. Trước năm 1986, trong 8914 văn kiện luật pháp, chỉ có 62 đạo luật là do Quốc Hội biểu quyết, số còn lại hoặc là chỉ thị, hoặc công tư, hoặc nghị quyết do Đảng hay chính phủ đưa ra. Họ giải thích luật pháp của họ như sau :

“Luật pháp của chúng ta khác với luật pháp của tư bản. Luật của chúng ta nhằm phát triển đất nước chúng ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi luật của các quốc gia tư bản là nhằm bảo vệ cho bọn tư bản”.

Do sự mơ hồ của luật lệ, nếu có tranh chấp giữa xí nghiệp tư nhân và nhà nước, chắc chắn phía nhà nước sẽ thắng. Ngoài ra, nếu mọi xí nghiệp tư nhân có làm mất lòng hay dám cạnh tranh với một công ty nhà nước, họ không những bị truy tố về những vi phạm kinh tế mà còn có thể bị suy diễn sang thành tội chính trị, tội phá hoại quốc gia. Để chắc ăn, thường là những công ty tư nhân phải dựa dẫm vào một vài cán bộ cao cấp nào đó làm ô dù che chắn cho mình. Từ đó tham nhũng nảy sinh. Hệ thống cho vay tiền ngân hàng cũng thế. Một cái thư giới thiệu của một cán bộ hay ủy viên cao cấp sẽ giúp cho việc vay tiền được dễ dàng.

Điển hình của việc đầu tư làm ăn của Việt Nam là Nguyễn Trung Trực một Việt kiều ở Úc về thành lập công ty Peregrine. Công ty này bắt đầu kinh doanh nhập cảng thuốc Tây từ năm 1990. Vì có một công ty của nhà nước không chịu trả tiền, ông ta nhờ người quen bên vợ là bộ trưởng Bộ công an Bùi Thiện Ngộ và vợ của phó thủ tướng Trần Đức Lương làm ô dù để can thiệp giúp.

Từ đó, trong thời gian Bùi Thiện Ngộ làm bộ trưởng, công ty của Nguyễn Trung Trực làm ăn rất phát đạt, được báo chí nhà nước ca tụng là “một tư nhân ngoại quốc đầu tư thành công” nhưng đến năm 1996, khi Bùi Thiện Ngộ (phe của đảng) bị loại khỏi Bộ Chính Trị, thì Nguyễn Trung Trực bị (phe chính phủ của Võ Văn Kiệt) đưa ra tòa về tội trốn thuế, mục đích chính là để Trần Đức Lương cũng bị mang tiếng.

Vì những điều hành guồng máy nhà nước từ trên xuống dưới đều nằm trong tay những đảng viên đang nắm chính quyền đặc lợi, trong đó tương đối có học hay có dịp ra nước ngoài được đào tạo ở Liên Xô hay Đông Âu là những nơi mà luật pháp chỉ vào mục đích chính trị cho nên những vấn đề thi hành những biện pháp đổi mới kinh tế đã được thi hành một cách tùy tiện, tùy theo hoàn cảnh hay địa phương

Về phương diện văn hóa hay tư tưởng, mấy tháng sau này đại hội đảng, không khí đổi mới còn tưng bừng nhộn nhịp, trong hai ngày 6 và 7 Tháng Mười 1978, trưởng ban văn hóa Trần Độ đã tổ chức để cho TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh gặp gỡ với gần 100 văn nghệ sĩ gồm có các nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa như : Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khắc Viện …vv… Trong buổi gặp mặt, những văn nghệ sĩ đã phát biểu trung thực cảm nghĩ của họ và Nguyễn Văn Linh cũng tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ, đồng thời cũng nhắc nhở văn nghệ sĩ “đừng bao giờ uốn cong ngòi bút ”.

Nghị quyết số 5 của Bộ Chính Trị Tháng Mười Hai năm 1988 cũng đề ra những mục tiêu cởi mở tích cực “Văn học, nghệ thuật góp phần tích cực cho đấu tranh để mở rộng và làm sâu sắc thêm quá trình dân chủ hóa của mọi mặt đời sống đất nước, cổ vũ nhiệt tình cho công cuộc đổi mới, tích cực tham gia giải quyết việc giải phóng những tiềm năng của đất nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nghị quyết của đại hội VI của Đảng đề ra ”.

Được nới lỏng sự kiểm soát, những văn nghệ sĩ bắt đầu viết về những tệ nạn xã hội và ngay của cả đảng, của chính quyền một cách táo bạo hơn. Điển hình nhất là Tiến Sĩ khoa học Nguyễn Xuân Tụ. Tháng chín năm 1988, dưới bút hiệu Hà Sĩ Phu, ông đưa ra bài tham luận “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Của Chí Tuệ ”, nêu lên những sai lầm tai hại của chủ nghĩa Cộng sản.

Ông Nguyễn Xuân Tụ có bằng tiến sĩ sinh học, từng du học ở Tiệp Khắc và làm viện phó học Viện Khoa Học Đà Lạt, vì không chịu vào đảng CSVN nên ông bị ép phải về hưu sớm. Trong bài tham luận, ông viết: “Ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì cứu nước mưu hạnh phúc cho dân là mục đích chính, chủ nghĩa Mác Lê nin là phương tiện. Nhưng rồi dần dần lại phát sinh cái tín ngưỡng “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”. Lạ như vậy đấy, chủ nghĩa với tư cách là con đường, là phương tiện thì nó là cái để ta dùng chứ sao lại là cái để ta thờ…”.

Từ đó, Hà Sĩ Phu liên tiếp bị bắt giữ tra xét nhà cửa tịch thu máy vi tính hay tài liệu. Ngoài Hà Sĩ Phu có những đảng viên khác như : Nhà thơ Bùi Minh Quốc, từng là tổng biên tập Tạp chí Lang Bian cũng bất mãn với đảng CS vì đất nước chưa có tự do dân chủ. Năm 1988, ông cùng với nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự đi một vòng khắp nước kêu gọi văn nghệ sĩ và trí thức đòi hỏi Đảng cộng sản mở rộng tự do dân chủ và báo chí (8). Trở về, ông bị mất chức và bị trục xuất ra khỏi đảng sau đó liên tiếp bị bắt giữ, quản chế mấy năm liền. Một nhà nghiên cứu điện ảnh khác là Vũ Huy Cương từng bị ở tù 9 năm không xét xử sau khi phát biểu ủng hộ dân chủ, tự do chung sống hòa bình với phe tư bản hồi “chủ nghĩa xét lại hiện đại” ở Liên Xô đang là cao trào, sau khi ra tù ông viết thư ủng hộ tướng Trần Độ cũng bị công an bắt giữ lại (9).

Cũng thời gian đó, một số cán bộ miền nam bất mãn trước những biện pháp đàn áp công dân của chế độ nên đã cùng ông Nguyễn Hộ lập ra “ Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ”, sở dĩ được gọi là câu lạc bộ vì cộng sản không cho lập đảng hay hội đoàn không thuộc nhà nước (10). Đảng Dân Chủ VN được đảng Cộng Sản cử ông Hoàng Minh Chính đứng ra thành lập ngày 30-6-1994 để làm bù nhìn cho đảng Cộng Sản Việt Nam, dù đã an phận chịu sự kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc cũng bị giải tán trong năm 1988, tổng thư ký của đảng này là Nghiêm Xuân Yêm tuyên bố là “đã làm chọn nhiệm vụ lịch sử ”.

Ông Nguyễn Hộ từng là đảng viên Cộng Sản từ năm 1937, giai đoạn từ năm 1964 đến 1975 phụ trách công tác binh địch vận. Sau năm 1975 đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong vùng Sài Gòn. Tuy mới đầu những đảng viên cựu cán bộ này chỉ muốn cải thiện lại đường lối cai trị của Đảng CS, cũng như của phẩm chất cán bộ, nhưng vì không một chính quyền cộng sản nào muốn có một đảng hay hiệp hội nào dù non yếu tồn tại hay song song với mình, nhất là trước cái gương của Công đoàn Đoàn Kết bên Ba Lan, đã từng phát triển và lấn áp được đảng Cộng Sản, cho nên câu lạc bộ của Nguyễn Hộ mới đầu còn bị cảnh cáo, sau đó bị gán cho kẻ phản động, nhận tiền đế quốc…

Tờ nội san “Truyền Thống Kháng Chiến” sau ba số thì bị đóng cửa vĩnh viễn. Đồng thời Đảng cho thành Lập một hội Cựu Chiến sĩ Việt Nam khác để cạnh tranh và làm phân hóa câu lạc bộ này. Những cán bộ tên tuổi của câu lạc bộ bị mua chuộc, lôi kéo, trong đó có Trần Văn Giàu, một trong những sáng lập viên của câu lạc bộ này, sau khi bỏ sang Hội Chiến Sĩ được cho sang Pháp rong chơi nhiều tháng. Trần Văn Trà thì được thông gia là Võ Chí Công dụ sang cho làm phó chủ tịch của hội, còn Trần Bạch Đằng thì hy vọng sẽ được Nguyễn Văn Linh giúp đỡ. Cũng như các hội đoàn khác của nhà nước CSVN, hội Cựu Chiến Sĩ này được đặt dưới dưới quyền giám sát của Mặt Trận Tổ Quốc. Những người đứng đầu trong câu lạc bộ không chịu khuất phục như các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu… cũng bị bắt giữ. Ông Tạ Bá Tòng trước kia phụ trách trí thức vận dưới quyền ông Nguyễn Hộ, từng khuyến dụ được thú y sĩ Phạm Văn Huyến và con gái của ông ta là Phạm Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá Thành) vào Mặt Trận GPMN VN…

Thất vọng với chủ nghĩa Cộng Sản, Nguyễn Hộ đã viết trong tác phẩm Quan điểm và cuộc sống : “Tôi phải thú nhận là chúng tôi đã chọn nhầm lý tưởng chủ nghĩa Cộng Sản. Bởi vì trong suốt hơn 60 năm cách mạng cộng sản, nhân dân Việt Nam đã phải gánh chịu biết bao hy sinh để chẳng được cái gì, đất nước vẫn nghèo đói, nhân dân vẫn không đủ ăn, đủ mặc, không có tự do không có dân chủ….Thật là một điều sỷ nhục” !!!

Tương tự như thế, chính quyền Việt Nam cũng lập ra một giáo hội phật giáo thuộc nhà nước CSVN để cạnh tranh với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đồng thời cũng tìm cớ bắt giam hai vị cao tăng của hội giáo này là hai Thượng Tọa Huyền Quang và Quảng Độ. Để bịt miệng Thượng Tọa Quảng Độ, có tin Mai Chí Thọ đã có lần dụ đỗ thượng tọa cho về chủ trì chùa Quán sứ ở Hà Nội nhưng thượng tọa từ chối. Ngoài ra họ cũng bắt luôn hai nhà Phật học thông thái là Thượng Tọa Trí Siêu và Thượng Tọa Tuệ Sĩ ở chùa Già Lam, rồi kêu án tử hình vào ngày 30- 9- 1998 về tội “âm mưu lật đổ chính phủ”. Trước sự phản đối của quốc tế, án tử hình sau đó được giảm xuống còn 20 năm tù. Nhiều đại diện tôn giáo khác như linh mục công giáo Nguyễn Văn Lý, ông Lê Quang Liêm phật giáo đạo Hòa Hảo, Phạm Công Trí đạo Cao Đài cũng bị bắt giữ…

Riêng bác sĩ Nguyễn Đan Quế (11), từng bị bắt năm 1987 và bị tù 10 năm, sau khi bị bắt lại vì thành vì thành lập Cao Trào Nhân Bản và bị đưa ra tòa ngày 29- 4 - 1991, ông điềm tĩnh nói với chánh án là họ là họ không có tư cách xử lí ông. Khi công bố đọc bằng chứng là “Tuyên Ngôn Cao Trào Nhân Bản” nhiều đoạn chỉ trích chính quyền của ông bị sửa đổi, bác sĩ Quế đã phải liên tiếp phản đối, chỉnh sửa lại : “ Anh phải đọc cho đúng những gì tôi đã viết ”. Ông bị tòa nhanh chóng kết án 20 năm tù giam.

Hòa Thượng Quảng Độ, bị đẩy ra ngoài Bắc từ 1982, mười năm sau, ông tự ý trở về Sài Gòn và liên tiếp bị sách nhiễu hoặc quản thúc tại gia. Mấy năm sau, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, người được quân đội Bắc Việt đem ra miền bắc năm 1968 làm dụng cụ tuyên truyền viên tịch. Trước khi chết, Thượng Tọa Huyền Quang lên thay làm Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất mà không công nhận Phật Giáo nhà nước. Chính quyền tịch thu bức thư, nói bức thư đó là giả, không cho Hòa Thượng Huyền Quang dự đám tang. Thượng Tọa Thích Trí Tựu, trụ trì ở chùa Linh Mụ, khi xác nhận thư đó là thật cũng bị chính quyền bắt và cùng các Hòa Thượng Hải Thanh, Hải Chánh ở tù tại Phủ Lý – trại giam Ba Sao, Nam Hà.

Về thông tin báo chí, sau một thời gian “cởi trói” ngắn ngủi, trước những biến cố bất lợi xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu, đồng thời ở trong nước, có những dấu hiệu phản kháng và xúc phạm vào quyền uy tối thượng của đảng CS và các đảng viên cao cấp. Chẳng hạn như bài phóng sự “Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì” của ký giả Phùng Gia Lộc, viết về những hành động thiếu tình người của những cán bộ tỉnh Thanh Hóa khi đi thu thuế dân nghèo đăng trên báo Văn Nghệ, đã được quần chúng hưởng ứng đến nỗi bí thư tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa là Hà Trọng Hòa bị mất chức năm 1988.

Vì thế, các nhà lãnh đạo cộng sản, kể cả chính người hô hào cởi trói là Nguyễn Văn Linh, lại bắt đầu tìm cách trở lại chính sách trói buộc chặt hơn. Hơn thế nữa, một tháng sau khi Nguyễn Văn Linh đi gặp Ceaucescu là tổng bí thư đảng CS, kiêm chủ tịch nước Lỗ Ma Ni và trước đó nữa là đi dự kỷ niệm ngày 40 năm thành lập nước Đức cộng sản và có gặp gỡ Eric Honecker - tổng bí thư Đông Đức ở Đông Âu khoảng cuối năm 1989 khi về nước, thì tình hình thay đổi hẳn, hai người này một người bị xử tử, một người bị bắt giam ngồi tù. Vì thế, đa số đảng đảng viên cộng sản cao cấp, từ những ủy viên bộ Chính Trị đến những ủy viên trung Ương Đảng CSVN, sợ bị mất quyền lực và có thể bị truy tố nên tìm cách quay về con đường độc tài chuyên chính cũ. Ngay cả Nguyễn Văn Linh, người được coi như khai sinh ra “đổi mới” ở Việt Nam, sợ sẽ chịu chung số phận như Ceaucescu ở Rumania nên lại quay về phục hồi những biện pháp đàn áp dân chúng như cũ.

Trong một buổi họp của Trung ương đảng, những biện pháp đổi mới được phê bình là hữu khuynh. Thủ tướng lúc đó là Võ Văn Kiệt vừa mới tạm thời thay Phạm Hùng được vài tháng thì bị Nguyễn Văn Linh cùng Trung Ương Đảng Cộng Sản buộc phải nhường bước cho nhân vật bảo thủ hơn là Đỗ Mười. Theo bà Nguyễn Thị Thi, một đại biểu Quốc Hội của thành phố Hồ Chí Minh, khi Quốc Hội bầu lại thủ tướng, chủ tọa đoàn của Quốc Hội đã ép các đảng viên phải bầu cho Đỗ Mười lên thay Phạm Hùng nhưng một phần ba đảng viên đã cãi lệnh mà bầu cho Võ Văn Kiệt.

Bà Ba Thi từng là giám đốc Công Ty Lương Thực thành phố HCM. Trong những năm 1979, 1980, thành phố bị thiếu lương thực trầm trọng vì nông dân không chịu bán gạo với giá thu mua rẻ mạt của nhà nước, chính bà Thi đã giám “xé rào” cãi lệnh trung ương, xuống những tỉnh miền Tây Nam Bộ mua gạo rồi về bán lại theo giá thị trường tự do.

Trong nội bộ đảng, Trần Trọng Tân, một người từng theo Lê Đức Thọ phụ trách về tư huấn ở Căm Pu Chia được cử lên làm trưởng ban Văn Hóa Tư Tưởng của Đảng để giám sát Trần Độ. Trong Ủy Ban Trung Ương Đảng, ông Trần Độ là một trong những người hiếm hoi giám đưa ra những biện pháp cải cách. Cuối năm 1989, trong bản “Phác Thảo Cương Lĩnh Văn Hóa Việt Nam những năm 1990”. Ông đưa ra những điểm tiến bộ như: “văn hóa phải dựa trên cơ sở đúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương trí và đạo đức cho xã hội. thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo, phê bình”. Thấy được những quan điểm này “chệch đường nối”, một số phần tử văn hóa bảo thủ và cơ hội như Hà Xuân Trường đã báo cáo ngay nên cho Lê Đức Thọ. Lập tức Trần Độ sau đó bị phê bình, mất chức để cho Hà Xuân Trường nên thay.

Cũng trong tháng 12 năm 1989, đại hội các nhà văn được tổ chức tại Hà Nội. Tuy là đại hội của các nhà văn, nhưng đại hội lại được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Trần Trọng Tân, Nguyễn Đức Tâm và Đào Duy Tùng. Ngoài ra lại còn sự hiện diện của Đỗ Mười, Lê Đức Thọ (lúc đó là cố vấn Bộ Chính Trị ) và trung tướng công an - Dương Thông (12). Dương Thông đến để tố cáo một số nhà văn nhận tiền để làm tay sai cho nước ngoài nhưng không nói được là ai khi bị chất vấn. Tuy trong 330 nhà văn đảng viên CSVN, có 180 người đa số là những nhà văn miền Nam trừ những người như Trần Bạch Đằng, đã bỏ phiếu để bầu trực tiếp Nguyễn Quang Sáng làm chủ tịch Hội Nhà Văn, nhưng cũng có đến 150 người theo lệnh Đảng mà muốn ban quản trị bầu một người mà Đảng đã chọn lựa là Anh Đức. Tỷ số này cho thấy ngay trong giới cầm bút, một giới tương đối đầu óc phóng khoáng cũng có một số không ít những phần tử thủ cựu và sợ oai hùm của Đảng CS. Tuy Nguyễn Quang Sáng đắc cử, nhưng trong Ban Quản Trị Hội Nhà Văn, đa số vẫn là những người có trong danh sách Đảng chỉ định. Đó có lẽ cũng là một thắng lợi chót của Hội Nhà Văn VN.

Những năm sau, chính quyền lại siết chặt quyền kiểm soát thông tin và văn nghệ. Những nhà văn như Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc… bị kiểm soát chặt chẽ hay bị quản chế hoặc bị bỏ tù. Dương Thu Hương là người đã viết về những nhũng lạm của chính quyền Cộng sản một cách trực tiếp và can đảm nhất. Cuốn tiểu thuyết “Những Thiên Đường Mù” xuất bản năm 1988 đã mô tả một giai mới, nhờ ưu quyền mà làm giàu qua tham nhũng hay biển thủ của công quỹ (13).

Song song với những biện pháp cải tổ hệ thống kinh tế, sau đại hội VI, Cộng Sản Việt Nam cũng phải bắt buộc thay đổi đường lối ngoại giao. Tháng 7 năm 1987, Hội Nghị Trung Ương Đảng họp và ra nghị quyết số 2 về ngoại giao gồm những điểm chính :

- Tránh đụng chạm với quân đội Trung Hoa ở vùng biên giới và ở ngoài biển Đông

- Đặt kế hoạch rút quân đội VN ra khỏi Cam Pu Chia, Việt Nam đã thực hiện rút quân từ năm 1986 và cuộc rút quân dự trù hoàn tất vào cuối năm 1989. Song song với Việt Nam rút quân, Căm Pu Chia đã chuyển hướng thay đổi tên nước, sửa đổi tên pháp, tuyên bố là một nước trung lập và lấy Phật giáo là quốc giáo. Đồng thời, Việt Nam chấm dứt việc gọi quan hệ ngoại giao với Ai Lao và Cam Pu Chia là những “quan hệ đặc biệt”…

- Giảm bớt quân số để tiết kiệm ngân sách

- Bớt ngân sách quốc phòng

Nghị quyết này dù đã được từng bước thực hiện nhưng được giữ kín cho tới ngày 28- 1-1990 thì báo Nhân Dân của đảng CS mới tiết lộ. Thi hành tinh thần của nghị quyết, Bộ Ngoại Giao dưới dưới quyền điều khiển của Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ, Phan Doãn Nam… đã hoàn thành một dự thảo về chính sách ngoại giao mới, được trình bày trong buổi họp Bộ Chính Trị trong tháng 5 năm 1988. Trong những bộ phận chính phủ, ngành ngoại giao là một ngành gồm những người có học, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên đầu óc cấp tiến hơn.

Trước kia, chiều hướng ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam là chỉ thân thiện với những nước Cộng Sản và thế giới theo quan niện chật hẹp của họ cũng chỉ có 2 phe. Cộng sản hay tư bản theo mô hình (hai phe, bốn mâu thuẫn). Cộng sản là bạn, tư bản là địch. Bộ Ngoại Giao, dưới sự hướng dẫn của Bộ Trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã đổi mới “tư duy đối ngoại” bằng chủ trương “đa phương hóa và đa dạng hóa” đường lối ngoại giao để “phá thế bao vây” trong tình trạng cô lập do sự chiếm đóng Căm Pu Chia. Khác với những ủy viên Bộ Chính Trị khác, trong tập san “Quan Hệ Ngoại Giao” năm 1990, Nguyễn Cơ Thạch thẳng thắn công nhận đóng góp quan trọng của chủ nghĩa tư bản trong hai thế kỷ qua, xác nhận sự cần thiết phải hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới nhất là, ông công nhận sự sụp đổ của những nước xã hội chủ nghĩa là do nguyên nhân nội tại chứ không phải do những âm mưu phá hoại của đế quốc (14).

Vì bản dự thảo mà Nguyễn Cơ Thạch trình bày trong cuộc thảo luận của Bộ Chính Trị tháng 5 năm 1988 có nhiều điểm mới lạ nên đã gặp nhiều chống đối. Cuối cùng, sau những thảo luận gay gắt, bản dự thảo được thông qua ngày 20- 5- 1988, trở thành nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị về ngoại giao, trong đó đề ra những chính sách đối với những đối tượng khác nhau:

- Nhanh chóng giải quyết vấn đề Căm Pu Chia

- Phấn đấu sớm bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc

- Bình thường hóa với quan hệ các nước ASEAN.

- Khôi phục quan hệ với các nước Phương Tây

- Tranh thủ kéo Mỹ đi vào bình thường hóa quan hệ

- Củng cố, tăng cường quan hệ đồng minh, bạn bè….

Theo tinh thần nghị quyết mà Nguyễn Cơ Thạch đưa ra, nhà nước CS Việt Nam sẽ giải quyết cho xong vấn đề Căm Pu Chia và hòa giải với Trung Hoa, nhưng đồng thời, phải có một quan hệ ngoại giao quân bình với các nước Asean , Hoa Kỳ và Tây Âu để không bị Trung Hoa chèn ép…

Trong chiều hướng này, song song với việc “cởi trói” cho văn nghệ, đổi mới kinh tế, và để lấy lòng Hoa Kỳ và các nước Tây phương, năm 1988, chính quyền Việt Nam công bố trả tự do cho 2474 tù nhân chính trị, giảm án hai tu sĩ Tuệ Sĩ và Trí Siêu từ tử hình xuống 10 năm tù giam. Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận cũng được trả tự do sau 13 năm tù đày… (Tổng Giám Mục Thuận sau đó qua La Mã và được thăng chức Hồng Y).

Hai năm 1987 và 1988 cũng là năm mà tổng Tổng Thống Reagan của Hoa Kỳ lần đầu tiên gửi một sứ giả đặc biệt là Tướng Versey sang Việt Nam hai lần để bàn thảo sơ bộ về những vấn đề giúp đỡ nhân đạo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân do, sự thiết lập bang giao với Hoa Kỳ của Việt Nam đã bị chậm trễ thêm mấy năm nữa. Dù nguyên nhân chính khiến Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch bị loại là áp lực của Trung Hoa, nhưng những phần tử bảo thủ trong Bộ Chính Trị CSVN cũng quy nỗi cho Nguyễn Cơ Thạch là đã thất bại không thuyết phục được Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận dù cho Việt Nam đã rút hết quân đội ra khỏi Căm Pu Chia về nước.

.

Viết xong tại Hà Nội giữa năm 2009

Điền Viên

.

.

.

No comments:

Post a Comment