Monday, August 30, 2010

TẠI SAO HOA KỲ CÓ HÀNH ĐỘNG VỚI HÀ NỘI

Tại sao Hoa Kỳ có động thái vi Hà Ni

Nguồn: Richard Weitz, The Diplomat

Cymbidium, X-Cafe chuyển ngữ

18.08.2010

http://www.x-cafevn.org/node/879

Dưới áp lực từ các nước trong ASEAN, Hoa Kỳ có mặt trên khắp biển Đông. Nhưng xung đột với Trung Quốc không phải là điều không thể tránh khỏi.

Tuần trước, tạp chí Globe đăng lại một bài báo viết bởi Ju Wen được phổ biến rộng rãi. Bài báo tấn công Hoa Kỳ cho rằng “họ sẽ xía vào biển Đông bằng cách tuyên bố rằng tranh chấp lãnh thổ trong khu vực có ảnh hưởng đến quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ."

Bài bình luận nói bóng gió về những lời phát biểu của Ngoại trưởng Hilary Clinton trong cuộc họp của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tại Hà Nội vào tháng trước, trong đó bà nói rằng Washington sẵn sàng trợ giúp các cuộc thảo luận đa phương về tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông. Bà Clinton cũng cho biết Hoa Kỳ phản đối bất kỳ việc cưỡng chế hoặc đe dọa vũ lực để thực thi những xác nhận chủ quyền trái ngược nhau.

Lời tuyên bố là một nước cờ gan dạ có dụng ý làm Bắc Kinh chuyển hướng từ lập trường năng nổ hơn mà họ đã áp dụng cho vụ tranh chấp trong những tháng gần đây. Nhưng nó cũng đánh dấu một sự thay đổi đối với Hoa Kỳ, một quốc gia từ trước đến nay tìm cách tránh tham dự vào các tranh chấp chủ quyền ở Đông Á.

Điều gì đã đưa đến một thay đổi như thế? Để biện minh cho lời phát biểu về mối quan tâm, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố "Hoa Kỳ, như mọi quốc gia khác, có một quyền lợi quốc gia trong việc tự do hành hải, tự do ra vào các hải cảng của Á Châu và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông."

Có lẽ chẳng có gì ngạc nhiên khi Trung Quốc nổi giận về những lời phát biểu của bà Clinton, ít ra là vì trước đây họ đã thành công trong việc đem vấn đề tranh chấp chủ quyền ra ngoài chương trình nghị ARF và các cuộc họp đa quốc gia khác. Là quốc gia hùng mạnh nhất trong khu vực, Trung Quốc đã tìm cách áp dụng sự ưu đãi của họ trên các nước láng giềng yếu đuối hơn, lý tưởng nhất là bằng cách chia hóa rồi đối đáp với họ một cách song phương. Giới cầm quyền Trung Quốc lên án những nỗ lực "quốc tế hóa" vấn đề của bà Clinton qua các chỉ trích từ Bộ Quốc phòng và Ngoại giao là bà đã can thiệp vào vụ tranh chấp Biển Đông.

Ví dụ, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Geng Yansheng cho biết Bắc Kinh đã có 'chủ quyền không thể tranh cãi' trên biển nhưng sẽ tìm cách giải quyết vấn đề với các quốc gia xác nhận có chủ quyền khác và sẽ không phản đối sự đi lại của tàu bè ngoại quốc trong khu vực miễn là họ tôn trọng luật pháp quốc tế; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì chỉ trích bà Clinton với cáo buộc là bà cố gắng đổ dầu vào lửa.

Ít nhất dưới mắt người Trung Quốc, kế hoạch của Washington để thi hành cuộc thao diễn sắp đến của hải quân Hoa Kỳ và Nam Hàn trong Hoàng Hải giữa Trung Quốc và bán đảo Hàn Quốc giống như xát muối vào vết thương. Mặc dù giới chức Trung Quốc thừa nhận rằng hầu hết Hoàng Hải là hải phận quốc tế, họ khăng khăng rằng vùng biển này là một khu vực an ninh nhạy cảm vì nó nằm gần các thành phố lớn của họ dọc theo duyên hải, bao gồm cả Bắc Kinh, và tầm quan trọng của nó như là một tuyến thương mại hàng hải.

Để làm tăng cường độ, hôm 12 tháng Tám, Thiếu tướng Luo Yuan đăng bài xã luận luận trong báo Quân đội Giải phóng, một ấn phẩm hàng đầu của Quân đội Giải phóng Nhân dân, kêu gọi Bắc Kinh trả thù "Nếu ai đó không làm hại tôi, tôi sẽ không làm hại người đó, nhưng nếu có ai đó làm hại tôi, tôi phải làm hại người đó" Đề đốc Yang Yi của Đại học Quốc phòng Trung Quốc sau đó đã viết một bài khác trong Quân đội Giải phóng cảnh báo rằng dự tính thao diễn quân sự Hoa Kỳ-Nam Hàn có thể làm suy yếu sự quan tâm của Bắc Kinh trong việc hỗ trợ Washington với Bình Nhưỡng. Yang viết "Một mặt, họ muốn Trung Quốc đóng một vai trong các vấn đề an ninh khu vực. Mặt khác, họ tham gia vào một cuộc bao vây Trung Quốc ngày càng chặt chẽ và liên tục thử thách quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc."

Nhưng không phải mọi quốc gia có quan tâm đến Biển Đông đều không hài lòng với sự can thiệp của Hoa Kỳ.

Việt Nam là quốc gia duy nhất khác khai có chủ quyền trên tất cả các hòn đảo nhỏ, nhưng Brunei, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, và Đài Loan khẳng định chủ quyền trên một số đảo ở Biển Đông bao gồm khoảng 3.5 triệu cây số vuông gần bờ biển của tất cả các quốc gia này và một vài nước khác. Chuỗi đảo Trường Sa và Hoàng Sa là những đảo nổi bật nhất, kích thước nhỏ nhắn của nó che dấu cái giá trị tiềm năng của tài nguyên thiên nhiên quan trọng cho là nằm dưới biển xung quanh, nhất là dầu và khí đốt. Các quần đảo cũng được bao quanh bởi các vùng đánh cá quan trọng và nằm giữa các tuyến hành hải tối cần. Theo Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan, hơn 85 phần trăm của các nguồn năng lượng xuất sang Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn Quốc đều đi qua Biển Đông.

Trong thập niên 1990, Trung Quốc tuyên bố toàn bộ Biển Ðông là lãnh hải của họ, nhưng vào ngày 4 tháng Mười Một, 2002, để ghi nhận sự quan tâm chung của tất cả các quốc gia trong việc giữ gìn an toàn tuyến hải hành ở Đông Á, Trung Quốc và mười thành viên của ASEAN đã ký Tuyên Ngôn về Cách Ứng xử của các Quốc gia tại Biển Đông. Các quốc gia ký vào bản Tuyên Ngôn cam kết giải quyết tranh chấp chủ quyền của họ một cách hòa bình qua đàm phán trực tiếp.

Tuy nhiên, vào tháng Ba năm nay, tất cả lại thay đổi. Trung Quốc tuyên bố Biển Đông là một ‘quyền lợi cốt lõi quốc gia'. Trong ngôn ngữ ngoại giao, điều này thường có nghĩa là một vấn đề mà một quốc gia sẵn sàng sử dụng quân lực để bảo vệ (các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây chỉ áp dụng thuật ngữ đó vào Tây Tạng và Đài Loan).

Thế thì liệu Trung Quốc có khả năng quân sự để trợ lực lời tuyên bố như vậy với sức mạnh nếu cần? Hải quân Trung Quốc chắc chắn đang được phát triển, nhưng vẫn có thể không có khả năng nếu Hải quân Hoa Kỳ quyết định can thiệp. Nói thế chứ Hải quân Trung Quốc đã xây một căn cứ khổng lồ trên đảo Hải Nam để đặt hạm đội gần vùng biển tranh chấp thuộc Biển Đông. Quân đội Trung Quốc cũng đã phát triển Feng Dong 21D, một hỏa tiễn mới với đầu đạn chống tàu mà Quân đội Giải phóng Nhân dân muốn trang bị với một đầu đạn cơ động có thể nhắm vào một hàng không mẫu hạm hoặc mục tiêu di động khác tại một khoảng cách 1.500 cây số. Quân đội Trung Quốc dường như tin rằng chỉ có khả năng như vậy mới khiến Hải quân Mỹ không bén mảng vào Biển Đông, Đài Loan, hoặc khu vực tranh chấp khác xung quanh ngoại vi hành hải Trung Quốc.

Trong khi đó, các quốc gia ASEAN đơn giản là không thể hy vọng sẽ tự một mình cân bằng với Trung Quốc về phương diện quân sự, nhất là khi họ đã thể hiện ít quan tâm về việc chung góp nguồn lực hạn chế của họ để phát triển một lực lượng quân đội tập thể.

Không như Nam Hàn, Nhật Bản hay Úc, các quốc gia Đông Nam Á không có những thoả ước quốc phòng song phương với Hoa Kỳ, và vị trí của họ bị phức tạp thêm bởi các ràng buộc kinh tế sâu xa và cùng hưởng lợi với Bắc Kinh mà họ không muốn làm hại bằng cách đương đầu trực tiếp với Trung Quốc với những xác nhận chủ quyền trên biển của mình.

Nhưng nỗ lực được thực hiện để tránh đối đầu công khai với Bắc Kinh không nên bị nhầm lẫn với sự thiếu hành động. Một số quan chức ASEAN đã kín đáo thúc dục Washington can thiệp vào vấn đề Biển Đông để can ngăn thói phiêu lưu của Trung Quốc.

Trong khi đó, cũng như bất kỳ quốc gia nào trong khu vực, Việt Nam đã nhiệt tình muốn làm việc với Hoa Kỳ, kẻ thù cũ của mình để làm cân bằng với anh khổng lồ Trung Quốc. Và có một quá khứ căng thẳng giữa hai quốc gia. Hải quân Việt Nam đã chiến đấu chống Hải quân Trung Quốc vào giữa những năm 1970 và cuối thập niên 1980 về các chuỗi đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Gần đây, chính quyền Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố cấm đánh cá trong vùng Biển Đông và đã bắt giữ tàu đánh cá Việt Nam trong khu vực, giữ những mẻ cá cùng với thiết bị, và thả tàu chỉ sau khi chủ tàu nộp tiền phạt cho chính quyền Trung Quốc. Họ cũng đã cảnh báo các công ty năng lượng Tây Phương đừng thương lượng các thỏa thuận khoan dầu ngoài khơi với chính phủ Việt Nam nếu không, việc kinh doanh của họ tại Trung Quốc sẽ bị thiệt hại.

Trước một bối cảnh như vậy, chắc hẳn không phải là điều ngẫu nhiên mà Ngoại trưởng Clinton đã có những nhận xét của bà khi ở Hà Nội. Hải quân Hoa Kỳ và Việt Nam sau đó thực hành thao diễn quân sự với nhau, chứng kiến chuyến viếng thăm đầu tiên của hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ USS George Washington đến một cảng Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc 35 năm trước, cùng với sự đón tiếp một phái đoàn quân đội Việt Nam trên tàu trong khi dương buồm trong vùng Biển Đông tranh chấp ngoài khơi cảng Đà Nẵng của Việt Nam.

Một lần nữa, có lẽ chẳng có gì ngạc nhiên, các quan hệ về an ninh ngày càng tăng giữa Việt Nam và Washington đã gây ra phản ứng giận dữ qua một nhà bình luận Trung Quốc cảnh báo rằng Hoa Kỳ đang cố gắng xây dựng một “NATO Á Châu” để bao vây Trung Quốc.

Viết trong tờ Nhân Dân Nhật báo, Li Hongmei cáo buộc chính quyền Obama 'thử nghiệm (với) một chiến lược ngoại giao mới, ngấm ngầm hơn nhưng rất nguy hiểm trong khu vực, nơi họ đã đóng vai bá quyền trong bao lâu, để bao vây một đại cường đang trồi lên ... đi từ đối đầu này đến đối đầu với một Trung Quốc đang lên.’ Mặc dù thừa nhận rằng một ‘NATO hiện hữu không thể thành tựu … về tâm lý, Hoa Kỳ tán tỉnh và ép buộc các nước láng giềng với Trung Quốc tham gia vào thiên hà của họ.'

Nhưng không phải cái gì cũng là áp lực từ khu vực để Hoa Kỳ can thiệp, các quan chức Hoa Kỳ có lý do riêng của họ về việc thử thách những xác nhận chủ quyền trên biển của Bắc Kinh.

Theo một dự đoán, một phần ba tất cả chuyến hàng hải thương mại trên thế giới đều đi qua vùng biển mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc hiện nay tự cho là thuộc về họ. Ngay sau khi nhậm chức, chính quyền Obama đã rõ ràng tỏ sự quyết tâm của họ trong cuộc tranh giành xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trong hải phận quốc tế sau khi tàu Trung Quốc và máy bay đã phát động một chiến dịch phối hợp để sách nhiễu tàu quan sát hàng hải Hoa Kỳ nằm trong Biển Đông. Lần nổi tiếng nhất xảy ra vào tháng Ba, 2009, khi thủy thủ Trung Quốc cố gắng vớt phao phát hiện tàu ngầm mà tàu Hải quân Hoa Kỳ Impeccable đang sử dụng để thám thính căn cứ hải quân mới của Trung Quốc trên đảo Hải Nam và tàu ngầm của Trung Quốc trong khu vực.

Thế thì sự kết hợp của những căng thẳng trong khu vực với tư lợi sẽ mang đến một cuộc đụng độ quân sự Trung-Mỹ có tính toán trước?

Ít nhất tại thời điểm này, điều này có vẻ cực kì khó xảy ra vì các lợi ích kinh tế chung của cả hai quốc gia và động cơ rõ ràng của Bắc Kinh là đợi thời cơ của họ trong khi Trung Quốc, gần đây đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới sau Hoa Kỳ, tiếp tục sự tăng tiến thảnh thơi của họ đến quyền lực toàn cầu.

Nhưng không thể loại trừ khả năng xảy ra của cuộc xung đột quân sự vì tính toán sai lầm. Với điều này trong tâm trí, Washington có thể có lý khi cân nhắc xem việc đưa một hàng không mẫu hạm vào Hoàng Hải thực sự có giá trị hay không. Động lực thì cao quý: giúp đồng minh Nam Hàn bằng cách làm nổi bật hỗ trợ quân sự cho Seoul. Nhưng nước cờ đó cũng có rủi ro làm nguy hại đến những nỗ lực nhờ sự giúp đỡ của Bắc Kinh trong việc đối phó với Bình Nhưỡng. Tuy nhiên, vấn đề thao diễn quân sự quân sự nên được đề cập đến một cách riêng biệt ngoài lời tuyên bố của Ngoại trưởng Clinton, nó đã có tác dụng hữu ích để nhấn mạnh mối quan tâm của Washington trong việc phản đối Trung Quốc xác nhận chủ quyền trên toàn Biển Đông.

Năm ngoái, màn trình diễn sự quyết tâm của Hoa Kỳ tiếp tục giám sát hàng hải và tự do thao diễn hành hải trong Biển Đông trước một số phản đối từ Trung Quốc đã đưa đến sự chấm dứt quấy rối của Trung Quốc ở nơi đó. Nếu cả hai bên đều khôn ngoan và biết điều, không có lý do nào mà sự bất đồng gần đây nhất này cần thiết phải đi đến giai đoạn không thể kiểm soát được.

.

.

.

No comments:

Post a Comment