Saturday, July 31, 2010

THỬ BÀN VỀ SỨC MẠNH CỦA TRUNG QUỐC (3 & 4)

Thử bàn về sức mạnh của Trung Quốc - Phần 3

Thứ hai, 19/07/2010, 22:22(GMT+7)

http://vitinfo.com.vn/MMuctin/Quocte/LA79302/default.html

.

VIT - Trong thời đại hạt nhân ngày nay chẳng nước lớn nào dại dột đánh nhau, bởi lẽ như thế là tự sát, là cùng chết. Trong chiến tranh lạnh, Mỹ và Liên Xô do ý thức hệ trái nghịch mà đối đầu cực kỳ quyết liệt, nhưng hai bên đều tránh xung đột quân sự, dù họ có thừa bom hạt nhân đến mức phải huỷ bớt đi. Vì vậy muốn thắng đối thủ thì phải ra sức tận dụng phát huy sức mạnh mềm, một loại sức mạnh vô hình có tác dụng lôi kéo người ta theo mình mà chẳng cần doạ dẫm hoặc lừa bịp dụ dỗ (một kiểu “diễn biến hoà bình”).


Phần III: Sức mạnh mềm của Trung Quốc ra sao?

Trong thời đại tin học, sức mạnh mềm ngày một trở nên quan trọng, có tác dụng hơn cả sức mạnh cứng, lực công phá ngầm rất lớn. Song tạo ra sức mạnh mềm là việc rất khó và lâu dài, liên quan đến văn hoá truyền thống, giá trị quan và tập quán dân tộc hình thành trong quá khứ. Với một nước có lịch sử lâu đời, các truyền thống ấy không dễ thay đổi.

Có thể coi sức mạnh mềm là lực hút của nền văn minh. Cho tới nay văn minh phương Đông vẫn học văn minh phương Tây là chính, quá trình này chưa đảo ngược được cho dù người ta luôn nói thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của TQ. Người Nhật khôn ngoan từ cuối thế kỷ XIX nêu khẩu hiệu “Thoát Á nhập Âu” là vì biết rõ văn minh phương Tây ưu việt hơn hẳn.

Khái niệm sức mạnh mềm được người TQ coi trọng hơn các nước khác, có lẽ vì họ thấy đây là lĩnh vực còn yếu. Xét theo 4 tiêu chuẩn cường quốc do Brzezinski nêu ra trong cuốn Bàn Cờ Lớn (The Grand Chessboard, 1999) - là mạnh về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, và văn hoá có sức hấp dẫn, - thì họ chưa đạt tiêu chuẩn sau cùng. Sức cạnh tranh văn hoá TQ hoàn toàn không tương xứng với vị thế nước lớn kinh tế hiện nay và nền văn minh Trung Hoa 5000 năm lịch sử.

Nhân Dân Nhật báo TQ mở riêng một trang mạng Diễn đàn sức mạnh mềm (rsl.people.com.cn); chưa kể nhiều trang mạng cùng chủ đề do các đơn vị khác chủ trì. Cuộc thảo luận về sức mạnh mềm đang thu hút nhiều người Trung Quốc tham gia.

Phó Giám đốc Học viện Văn hoá Trung Hoa Diệp Tiểu Văn viết: Bà Thatcher từng nói “TQ sẽ không trở thành nước lớn trên thế giới, họ xuất khẩu ti-vi chứ chưa xuất khẩu quan niệm, tư tưởng” [trích từ sách Statecraft: Strategies for a Changing World], câu này muốn nhắc nhở nếu TQ không xuất khẩu văn hoá thì cho dù đã đứng đầu toàn cầu về xuất khẩu hàng hoá nhưng TQ sẽ vẫn là anh nông dân bán hàng rong, chưa phải đại gia thương mại. Văn hoá TQ cần đi ra thế giới với bộ mặt hợp tác, nhấn mạnh hoà hợp, hoà bình, lấy con người làm gốc, nhân ái, khoan dung.

Đúng vậy, xuất khẩu văn hoá của TQ hiện nay chỉ bằng 1/14 nhập khẩu, đấy là chưa kể loại sản phẩm văn hoá phi vật thể (như nghe đài, xem truyền hình).

Các học giả TQ than phiền: sau Tôn Trung Sơn, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, nước này chưa xuất hiện nhà tư tưởng hoặc triết gia nào có ảnh hưởng toàn cầu.

Trong khi đó các học thuyết mới mọc lên như nấm ở phương Tây, như thuyết Xung đột văn minh (của Huntington), thuyết Sức mạnh mềm (của Nye) v.v... Sinh viên, học giả kinh tế khắp thế giới đều đọc sách của Adam Smith, Paul Samuelson v.v... Ngược lại, TQ chưa xây dựng được học thuyết kinh tế riêng của mình tuy kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Tương tự, có nhiều sinh viên nhất nhưng chưa trường ĐH nào của TQ có tên trong 50 trường ĐH hàng đầu thế giới. Không nước nào có lượng tác phẩm văn học xuất bản hàng năm nhiều như TQ song chưa tác phẩm văn học TQ nào có ảnh hưởng toàn cầu (trong khi một số nhà văn TQ chạy ra nước ngoài lại được tặng nhiều giải lớn). Chưa một công dân quốc tịch Trung Quốc nào được tặng giải Nobel khoa học hoặc văn học, tuy đã có một số người Hoa quốc tịch nước ngoài nhận vinh dự này; giải Fields (còn gọi là giải Nobel toán học) cũng vậy.

TQ cho rằng tiếng nói quốc tế của họ còn yếu, vì hiện nay 95% thị trường truyền thông thế giới là do 10 tập đoàn truyền thông phương Tây kiểm soát.

TQ chiếm 25 trong số 500 công ty có vốn lớn nhất toàn cầu năm 2009 [danh sách do Financial Times lập; Mỹ có 181, Nhật 49, Anh 32], đặc biệt chiếm vị trí thứ 2 và thứ 4. Thế nhưng rất ít thương hiệu TQ nổi tiếng thế giới. Hàng TQ nhiều, rẻ, đẹp nhưng hàng xấu, hàng nhái, thậm chí hàng có hại sức khoẻ (như sữa bẩn melamin) đã làm mất thanh danh của họ. Ở châu Á hàng TQ khó cạnh tranh với hàng Nhật hoặc Hàn Quốc; sang Âu, Mỹ lại càng hay bị chê.

Bởi vậy tạo dựng uy tín cho các doanh nghiệp và thương hiệu cho hàng hoá TQ trở thành việc bức thiết và lâu dài. Đây là một lĩnh vực sức mạnh mềm rất quan trọng, vì hàng hoá đi vào từng gia đình nước ngoài, hàng tốt mang lại thiện cảm với quốc gia sản xuất thứ hàng đó.

Trong cuốn Giấc mơ Trung Quốc, tác giả Lưu Minh Phúc viện dẫn quan điểm “quốc gia hạng nhất xuất khẩu giá trị quan và văn hoá; quốc gia hạng hai xuất khẩu công nghệ và quy tắc; quốc gia hạng ba xuất khẩu sản phẩm và sức lao động” và nhận xét TQ hiện nay chỉ mới xuất khẩu hàng hoá và sức lao động là chính. Tác giả hy vọng sẽ có ngày sản phẩm văn hoá TQ sẽ đi vào từng gia đình trên khắp thế giới như đồ chơi trẻ em và quần áo “made in China” hiện nay.

Một nhà báo TQ viết: thực hiện giấc mơ xuất khẩu văn hoá và giá trị còn khó hơn giấc mơ kinh tế. Trước hết, chữ Hán khó học là một cản trở truyền bá văn hoá, vì thế nền văn minh Trung Hoa có bề dầy 5000 năm cho tới nay vẫn bị coi là thần bí. Thời Ngũ tứ (1919) giới trẻ TQ phê phán chữ Hán khó học, chỉ một số tinh anh mới nắm được, hình thành nạn chuyên chế học thuật. Có lẽ vì thế mà thế giới chưa biết gì mấy về các thành tựu khoa học nhân văn xã hội, khoa học tự nhiên và kỹ thuật cũng như văn học nghệ thuật TQ. Trong Diễn đàn Toàn cầu tương lai Trung Quốc (Future China Global Forum) họp ngày 12-13/7/2010 tại Singapore, ông Lý Quang Diệu nói người Trung Quốc nên nắm được tiếng Anh (toàn dân Singapore, trong đó 80% là người Hoa đều nắm được tiếng Anh).

Văn học TQ chưa có ảnh hưởng quốc tế lớn. Ba tác phẩm cổ điển Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Thuỷ Hử tuy được người TQ rất thích, nhưng ra thế giới lại không thế, thậm chí bị chê là thiếu tính nhân văn. Văn học cận đại và hiện đại cũng không hợp “khẩu vị” phương Tây. Nhà Hán học người Đức Kubin còn gọi văn học hiện đại TQ là “rác rưởi”. Nghệ thuật điện ảnh dù đầu tư nhiều nhưng chưa mấy phim đoạt giải quốc tế lớn.

Trong thập niên vừa qua TQ đặc biệt chú trọng tăng cường sức mạnh mềm. Theo đề nghị của các giới chính trị, kinh tế, học thuật, họ đã thành lập Uỷ ban Xây dựng Sức mạnh mềm Trung Quốc (tiếng Anh viết tắt CCOSP). Uỷ ban này nhận được sự ủng hộ của Viện Khoa học quyết sách TQ, Hội Doanh nghiệp TQ, Uỷ ban Chuyên nghiệp chiến lược doanh nghiệp và Hội nghiên cứu chiến lược học phát triển TQ.

Ban lãnh đạo CCOSP có Chủ tịch là ông Quản Ích Hân, cùng 3 phó Chủ tịch và 1 tổng thư ký. Bên cạnh còn có một Ban Chuyên gia gồm 16 viện sĩ, giáo sư, doanh nhân ...CCOSP có nhiệm vụ chung là nâng cao sức mạnh mềm quốc gia, chủ yếu là sức mạnh mềm của các doanh nghiệp và thành phố; nhiệm vụ cụ thể là triển khai việc nghiên cứu, tư vấn, đào tạo, thúc đẩy sức mạnh mềm, tăng cường xây dựng và nâng cao sức mạnh mềm của các đơn vị này.

Sức mạnh mềm của doanh nghiệp và đô thị được đặc biệt chú trọng. Các đô thị đều lập quy hoạch thực hiện 10 chỉ tiêu sức mạnh mềm: sức kêu gọi văn hoá, sức ngưng tụ, sức truyền bá hình ảnh, năng lực làm việc của chính quyền, khả năng hoà hợp xã hội, phát triển giáo dục, sức thu hút thương mại, sức sáng tạo KHKT, sức ảnh hưởng khu vực, năng lực thúc đẩy tin học. Các đô thị lớn phấn đấu trở thành đô thị trung tâm quốc gia. Năm 2009 TQ được xếp thứ 74 trong bảng xếp hạng quốc gia xét theo chỉ số hoà bình thế giới, cao hơn Mỹ 9 bậc.

Một loạt báo, tạp chí tiếng nước ngoài ra đời. Tăng phát thanh, truyền hình phát ra hải ngoại; như phát chương trình truyền hình 24 giờ/ngày phủ sóng 22 quốc gia A-rập với 300 triệu dân.

TQ đã tranh thủ các lễ hội để phô trương hình ảnh nước mình, thí dụ lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh 2008, lễ Quốc khánh 60 năm ... được tổ chức cực kỳ hoành tráng, quy mô vượt xa tất cả các nước khác. Nhiều tỷ đô-la được chi vào thiết kế xây dựng các công trình kiến trúc đồ sộ cỡ nhất thế giới như nhà hát quốc gia, sân vận động, trụ sở đài truyền hình trung ương ...

Tháng 7/2009 chính phủ TQ đã ban hành Quy hoạch chấn hưng ngành văn hoá, nhằm tạo ra sức cạnh tranh văn hoá trên phạm vi toàn cầu.

Chính phủ đã mạnh tay đầu tư kinh phí thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử (HVKT) trên khắp 5 châu, coi đây là các cơ sở xuất khẩu văn hoá và giá trị quan của TQ. HVKT là một tổ chức công ích xã hội không kiếm lời, nhằm triển khai tại nước ngoài việc dạy Hán ngữ, đào tạo giáo viên dạy Hán ngữ, giới thiệu văn hoá Trung Hoa và trao đổi văn hoá; trong đó việc đầu tiên là cung cấp cho người học hoặc yêu thích học Hán ngữ trên khắp thế giới một kênh giảng dạy Hán ngữ chính quy nhất, bộ giáo trình Hán ngữ chuẩn, có uy tín nhất.

Chủ tịch Tổng bộ HVKT Lưu Diên Đông cho biết: kể từ HVKT đầu tiên được lập năm 2004 (tại Hàn Quốc) cho tới nay TQ đã lập được 282 học viện tại 88 nước, chưa kể 272 “Lớp Khổng Tử” (chủ yếu tại các trường trung học) với 230 nghìn học sinh. Hiện nay 50 nước đang xin lập HVKT. TQ cũng dự định lập tại Việt Nam một HVKT. Riêng ở Mỹ hiện đã có 80 HVKT.

Việc dạy Hán ngữ được mọi người hoan nghênh, vì họ có dịp được miễn phí học thứ ngôn ngữ của nền văn minh lâu đời nhất nhì thế giới với 1,5 tỷ dân. Nhưng việc trao đổi truyền bá văn hoá TQ thì không đơn giản như vậy.

Lưu Toàn Sinh Giám đốc HVKT Đại học Maryland (HVKT đầu tiên ở Mỹ) cho biết: “Một số người Mỹ không hoan nghênh HVKT, họ cho rằng đây là dịp TQ trỗi dậy thừa cơ tiến hành cuộc xâm lược văn hoá với nước Mỹ; họ lo ngại hai nền văn minh TQ-Mỹ có thể va chạm nhau. Nhưng nhận thức này là sự hiểu lầm văn hoá TQ.”

Theo ông Lưu, thực chất tinh thần hoà hợp, hoà bình mà nền văn hoá TQ theo đuổi mới là nguyên nhân tầng sâu hấp dẫn dân Mỹ học Hán ngữ. “Hoà nhập văn hoá thắng xung đột văn hoá” - ông nói, “Nhà phát minh bom khinh khí từng nói phát minh lớn nhất của thế kỷ XXI nên là thực hiện chung sống hoà hợp giữa con người với con người, mà tư tưởng Hoà vi quý, Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì chớ đẹm lại cho người khác) của Khổng Tử từ lâu đã trả lời câu hỏi ấy. Rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử cho tới nay vẫn có giá trị mạnh mẽ.”

Dĩ nhiên nói hay mà làm dở thì tác hại hơn là không nói. Cuộc điều tra Cái nhìn về TQ mới đây tại 14 quốc gia cho thấy thiện cảm với TQ từ mức 49% năm 2005 giảm xuống còn 34% năm 2009-2010 (theo BBC 20/4/2010). Thiện cảm của dân Đài Loan đối với Nhật cũng nhiều hơn với TQ.

Học thuyết của Khổng Tử sau gần một thế kỷ bị phê phán, vùi giập, từ thập niên 90 trở đi lại được người TQ từng bước phục hồi và cố gắng quảng bá ra thế giới như một hệ tư tưởng, hệ giá trị quan mang đặc sắc Trung Hoa. Nỗ lực ấy mang lại kết quả ra sao?

Nguồn tin của VITINFO

.

.

.

Thử bàn về sức mạnh của Trung Quốc – Phần 4

Nguyễn Hải Hoành

Thứ sáu, 30/07/2010, 13:32(GMT+7)

http://vitinfo.com.vn/MMuctin/Quocte/LA79690/default.html

VIT - Mạng lưới Học viện Khổng Tử do chính phủ Trung Quốc xây dựng trên khắp thế giới có nhiệm vụ truyền bá văn hoá Trung Hoa, một nền văn hoá lâu đời có nhiều thành tựu xuất sắc như tứ đại phát minh (giấy, nam châm, thuốc súng, kỹ thuật in), chữ Hán, thơ Đường, v.v... Người Trung Quốc quen gọi học thuật của nền văn hoá truyền thống ấy là “Quốc học”, để phân biệt với “Tây học”, tức học thuật của phương Tây.


Phần IV: Nho giáo có thể tăng được sức mạnh mềm của Trung Quốc hay không?


Phần quan trọng nhất của Quốc học là Nho giáo (hoặc Nho gia, Nho học), một hệ thống đạo đức, triết lý do Khổng Tử sáng lập nhằm xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo, Đạo gia và Pháp gia là 3 phái chính trong văn hoá tư tưởng truyền thống của Trung Quốc (sau có thêm Phật Giáo nhập từ Ấn Độ). Do được giai cấp phong kiến coi là hệ tư tưởng độc tôn suốt mấy nghìn năm nên Nho giáo có ảnh hưởng lớn nhất đối với Trung Quốc, cho dù nó chưa chắc đã tiến bộ hơn 2 phái kia.

Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Trung Quốc, của đạo Khổng. Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội trang trọng thờ tượng Khổng Tử với dòng chữ Chí Thánh Tiên Sư. Quả vậy, vị hiệu trưởng trường tư thục đầu tiên trên thế giới này mãi mãi là nhà giáo dục vĩ đại của nhân loại.

Là hệ tư tưởng của chế độ phong kiến, cho nên khi người Trung Quốc bắt đầu chống chế độ đó (phong trào Thái Bình Thiên Quốc, 1851) thì địa vị Nho giáo bắt đầu lung lay. Nhất là khi văn minh phương Tây với hai đặc điểm chính dân chủ và khoa học du nhập vào Trung Quốc, và khi chính quyền nhà Thanh thua nhục nhã trước sự xâm lăng của các đế quốc phương Tây thì giới trí thức Trung Quốc mới hiểu ra nước mình quá lạc hậu, các tư tưởng truyền thống Trung Hoa đều không thể cứu được Trung Quốc, ngược lại còn là thứ cần vứt bỏ. Từ đó Nho giáo bị chính người Trung Quốc phê phán thậm tệ.

Giữa thế kỷ XIX Nhật Bản đi đầu bỏ Nho giáo theo văn minh phương Tây và nhờ đó nhanh chóng trở nên hùng mạnh. Noi gương ấy, các nhà cải cách ở Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu đề xuất chủ trương duy tân, hiện đại hoá Trung Quốc về mọi mặt. Tại Việt Nam, Phan Châu Trinh cùng các sĩ phu Đông Kinh Nghĩa Thục hăng hái đả phá “cựu học” (tức Nho học) và mọi hủ tục phong kiến, đề xướng “tân học”, dùng chữ Quốc ngữ thay chữ Hán. Phan Châu Trinh kêu gọi: “Không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam”!

Thời kỳ Ngũ Tứ (1919) các lãnh tụ phong trào Tân Văn hoá như Lỗ Tấn, Hồ Thích, Trần Độc Tú ra sức hạ bệ Nho giáo. Thánh nhân số 1 Trung Quốc là Lỗ Tấn (lời Mao Trạch Đông) nói đạo Khổng là học thuyết ăn thịt người, là công cụ áp bức bóc lột của chế độ phong kiến.

Sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời, học thuyết này hầu như không còn chỗ đứng, và bị nhổ tận gốc trong “Cách mạng văn hoá”.

Từ ngày cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc tiến những bước khổng lồ, người Trung Quốc muốn từ các giá trị văn hoá truyền thống của họ tìm ra lý lẽ giải thích sự thần kỳ ấy. Khi kinh tế Trung Quốc đã ngang ngửa với Âu Mỹ, họ cũng muốn văn hoá Trung Quốc có địa vị tương xứng để chấm dứt “thời đại bá quyền văn hoá phương Tây”. Mặt khác, đời sống công nghiệp, hiện đại hóa mang lại nhiều vấn nạn, như môi trường ô nhiễm, đạo đức suy thoái, tham nhũng, phân hóa giàu nghèo. Sau khi CNXH ở Liên Xô sụp đổ, người Trung Quốc cảm thấy có khoảng trống về tư tưởng cần được khoả lấp; tự nhiên họ thấy cần phục hồi Nho giáo, coi đó là một thứ sức mạnh mềm mang đặc sắc Trung Quốc.

Từ giữa thập niên 80, nhà nước cấp kinh phí cho một nhóm học giả nghiên cứu Nho giáo mới thời hiện đại. Tuy mới đầu bị phê phán là “chủ nghĩa bảo thủ văn hóa”, đi ngược chủ nghĩa Mác, nhưng nhóm này ngày càng cố gắng chứng minh các giá trị quan Nho giáo có thể đóng góp vào việc xây dựng xã hội mới.

Nho giáo có các giá trị quan khác với phương Tây, như:

- Giá trị đạo nghĩa cao hơn giá trị danh lợi;
- Giá trị đạo đức cao hơn giá trị của trí năng;
- Giá trị của tập thể cao hơn giá trị của cá nhân;
- Giá trị của bình yên cao hơn giá trị của tự do;
- Giá trị của sự hài hòa cao hơn giá trị của cạnh tranh.

Vì thế Nho giáo có thể hữu ích cho việc hiện đại hóa và thống nhất Trung Quốc, nâng uy tín quốc tế của Trung Quốc; có thể dùng một số quan điểm Nho giáo để giải quyết các vấn nạn của thế giới hiện nay như xung đột và chiến tranh, môi trường sinh thái bị huỷ hoại, đời sống căng thẳng do lối sống công nghiệp, do đạo đức suy đồi. Thí dụ quan điểm Thiên nhân hợp nhất chủ trương không được khai thác tới mức tàn phá thiên nhiên. Nhân chính học của Mạnh Tử chủ trương người làm chính trị phải thương dân. Tư tưởng Hoà vi quý, Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì chớ đẹm lại cho người khác) có lợi cho hoà bình thế giới. Các giá trị quan của Nho giáo và của phương Tây có thể bổ sung lẫn nhau; Nho giáo cần được giải thích một cách sáng tạo và đổi mới, nhằm hình thành giá trị quan phù hợp nhu cầu phát triển.

Năm 1999, lần đầu tiên sau nửa thế kỷ, lễ kỷ niệm 2550 năm sinh Khổng Tử được tổ chức rầm rộ và có sự tham gia của chính quyền. Phó chủ tịch Hội Nho học Trung Quốc nói thời kỳ phục hưng đạo Khổng đã xuất hiện. Tháng 3/2005, một đại biểu Quốc hội Trung Quốc đề nghị phục hồi đạo đức nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, đưa Tứ thư ngũ kinh vào chương trình trung-tiểu học và sát hạch công chức…

Lãnh đạo Trung Quốc cũng bắt đầu dùng ngôn từ của Nho giáo: tháng 2/2006, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu: Khổng Tử từng nói Hoà vi quý; sau đó ông chỉ thị Trung Quốc phải xây dựng xã hội hài hoà – một chủ trương dựa trên những tư tưởng cơ bản Hoà và Nhân (thương người) của Nho giáo.

“Cơn sốt Quốc học” xuất hiện khi bà Vu Đan thuyết trình nhiều buổi trên truyền hình trung ương đề tài “Thu hoạch đọc sách Luận Ngữ” (10/2006), thu hút hàng trăm triệu người xem. Các trường phổ thông rộ lên phong trào trẻ em đọc Tam Tự Kinh, Luận Ngữ. Các trường đại học mở lớp Quốc học. Nhiều kinh điển Khổng Mạnh in hàng triệu bản vẫn bán hết ngay. “Cơn sốt Quốc học” đã góp phần làm tâm lý quần chúng được an ủi, ổn định. Sử gia Dư Anh Thời nhận xét: Nhà nước muốn Luận Ngữ gây được tác dụng xã hội hài hoà, ai nghèo thì hãy cứ yên vui với cảnh nghèo, qua đó giảm số người bất mãn với tình trạng phân hoá giàu nghèo.

Trong “cơn sốt” ấy đã xuất hiện nhiều yếu tố phục cổ, mê tín, trọng hình thức nhẹ nội dung, lãng phí tiền của xây miếu đắp tượng, lễ bái, xu hướng đề cao vua chúa phong kiến, hạ thấp vai trò phong trào Ngũ Tứ và chủ nghĩa Mác. Thậm chí có học giả quá khích (như Tưởng Khánh) đề nghị đưa Nho giáo lên thành hệ tư tưởng của quốc gia!

Giáo sư Vương Kiệt ở trường Đảng Trung ương Trung Quốc cảnh báo: trong cơn sốt này cần cảnh giác với khuynh hướng dân tộc hẹp hòi và bảo thủ về văn hoá, với những kẻ mượn danh phục hồi Nho giáo để thay thế chủ nghĩa Mác và tẩy chay văn hoá phương Tây.

Thực ra đó chỉ là cơn sốt giả, thể hiện sự nông cạn văn hoá tới mức bệnh hoạn. Quả thế, sau 2 năm nó đã nhanh chóng hạ nhiệt, để lại một thứ tình cảm dân tộc chủ nghĩa hư vô, những bộ phim ca ngợi vua chúa phong kiến. Một số kẻ đầu cơ văn hoá vớ bẫm về danh và lợi qua cơn sốt ảo này.

Trong thực tế, phái Mác xít và phái tự do trong giới trí thức Trung Quốc hiện còn rất đông, rất mạnh; họ ra sức chống lại việc phục hồi đạo Khổng; cho rằng ngày nay có bao nhiêu học thuyết tân tiến, cớ sao phải quay về tư tưởng cổ hủ ấy.

Triết gia nổi tiếng Lý Trạch Hậu phản đối một Khổng Tử phục cổ, dân tộc chủ nghĩa. Ông nói Luận Ngữ không thể cung cấp các quan niệm dân chủ và khoa học là thứ Trung Quốc vẫn đang cần; không phải mọi lời Khổng Tử đều là chân lý.

Sách "Chó không nhà": Tôi đọc Luận Ngữ của Lý Linh (được chọn là sách hay nhất năm 2007), góp phần quan trọng hạ nhiệt “Cơn sốt Quốc học”. Tác giả nói thẳng: Khổng Tử không phải là thánh nhân; Khổng Tử bao đời được ca tụng ấy chỉ là Khổng Tử “nhân tạo”, không phải Khổng Tử đích thực. Đức Khổng chỉ là một người xuất thân hèn mọn nhưng lại dùng tầng lớp quý tộc cổ (chân quân tử) làm tiêu chuẩn lập thân, một người chân thành nhiệt tình, mơ ước phục hồi sự cai trị yên bình thiên hạ của Chu Công; cụ đi khắp nơi du thuyết lo nghĩ thay cho bọn thống trị, rát cổ bỏng họng khuyên chúng cải tà quy chính mà chúng chẳng thèm nghe; một người gian nan phiêu bạt như con chó không nhà, như chính cụ thừa nhận. Lý Linh trích dẫn lời triết gia Hegel: “Trung Quốc không có triết học.” để phủ nhận ý kiến coi Khổng học là triết học.

Một học giả nổi tiếng tích cực phục hồi Nho giáo là Dư Anh Thời (Giải thưởng thành tựu suốt đời về khoa học nhân văn và xã hội John W. Kruge, được gọi là giải Nobel khoa học nhân văn và xã hội) cho rằng dân Trung Quốc vì thiếu tín ngưỡng nên phải tìm đến Luận Ngữ; trào lưu Nho học Trung Quốc hiện nay có xu hướng chống các giá trị của phương Tây; người Trung Quốc đang hiểu sai Luận Ngữ, sách này chủ yếu nói về tu thân và trật xã hội, không nói về chính trị, không thể coi Khổng Tử là hình mẫu của mọi thứ.

Giáo sư ĐH Thanh Hoa Daniel Bell (người Mỹ, hăng hái chủ trưng phục hồi Nho giáo) nói: cách giải thích Nho giáo của giới học giả thường xa rời đường lối của chính quyền, như Nho giáo phản đối sử dụng vũ lực mà Trung Quốc chủ trương dù buộc phải dùng vũ lực thì cũng phải thống nhất Đài Loan; hoặc Khổng Tử chủ trương chọn người qua thi tài kiểu khoa cử, còn Trung Quốc thì chọn theo tiêu chuẩn trung thành với đảng.

Học giả nổi tiếng Đỗ Duy Minh nói: xử lý văn hoá truyền thống là việc rất khó, Trung Quốc hiện chưa đủ điều kiện để thực hiện một “Trung Quốc văn hoá”; chớ nên đi con đường dân tộc hẹp hòi, chớ nên kiêu ngạo hoặc tự ti: việc phục hưng dân tộc Trung Hoa phải chăng chỉ nhằm để không bị kẻ khác bắt nạt hay là nhằm nắm lấy quyền bắt nạt kẻ khác?

Một nhân vật dân tộc chủ nghĩa là nhà bình luận văn hoá Tư Mã Bình Bang cũng nói: lịch sử cho thấy việc kiểm thảo các thói xấu thâm căn cố đế trong truyền thống dân tộc Trung Quốc vẫn là quá trình quan trọng để cải tạo người Trung Quốc thành con người hiện đại; nếu dựa vào trí tuệ gây dựng cơ đồ của tổ tiên ta thì kết cục sẽ nhất định sẽ rất bi thảm.

Trung tướng Không quân Lưu Á Châu (hiện là chính uỷ ĐH Quốc phòng Trung Quốc) nói Nho giáo có tội với nhân dân Trung Quốc, Khổng Tử không phải là nhà tư tưởng, cái gọi là triết lý của đạo Khổng chỉ xoay quanh quyền lực; nếu Nho học là triết học thì đó là triết học của xã hội quan trường hoá, nếu là tôn giáo thì đó là tôn giáo rởm.

Trong tiểu thuyết nổi tiếng Tôtem Sói, tác giả Khương Nhung nhiều lần căm phẫn lên án văn hoá Nho giáo đã tạo nên tính cách ươn hèn của người Trung Quốc, biến họ thành bầy cừu trước sự tấn công dũng mãnh của bầy sói đế quốc phương Tây.

Ai cũng biết bản chất Nho giáo có không ít quan điểm lạc hậu, thậm chí phản động; sau cả trăm năm bị đả phá, thực tế nó đã chết trong lòng người Trung Quốc. Một thứ quá xưa cũ như thế sẽ rất khó phục hồi, có nói tốt đến mấy rốt cuộc cũng chẳng làm nó sống lại như xưa.

Thế hệ người Trung Quốc hiện nay rất xa lạ với tư tưởng Khổng Mạnh, họ thích tự do dân chủ, khoa học và lối sống hiện đại hơn. Nhiều nhà kinh tế Trung Quốc tán thành quan điểm của Max Weber cho rằng văn hoá truyền thống Trung Hoa không dung hợp với hiện đại hoá.

Đỗ Duy Minh nói xu thế phát triển xã hội hiện nay là hiện đại hoá, tức kinh tế thị trường, chính trị dân chủ và coi trọng cá nhân – tính hiện đại này là thứ giá trị duy nhất có thể toàn cầu hoá, nghĩa là được đa phần thế giới chấp nhận. Nói cách khác, Nho giáo khó có thể toàn cầu hoá, vì thế khó có thể trở thành một thứ sức mạnh mềm lớn tới mức người Trung Quốc hy vọng.

Tuy vậy không thể phủ nhận một số yếu tố tích cực của Nho giáo có thể giúp Trung Quốc giải quyết các mâu thuẫn nội bộ, giúp xây dựng xã hội văn minh, hoà hợp, đạo đức, giúp vào việc bảo vệ môi sinh và tài nguyên thiên nhiên, giúp xây dựng chính quyền trong sạch và thương dân, giúp chính quyền quan tâm phúc lợi của dân, quan tâm tới các quần thể yếu thế, như người nghèo hoặc tàn tật, người văn hoá thấp... Do đó có thể hy vọng Nho giáo sau khi được giải thích lại sẽ đóng vai trò quan trọng trong đối thoại văn minh giữa Trung Quốc với thế giới toàn cầu.



Phần I: Đánh giá và xếp hạng sức mạnh quốc gia Trung Quốc
Phần II: Các bình luận về xếp hạng sức mạnh quốc gia Trung Quốc
Phần III: Sức mạnh mềm của Trung Quốc ra sao?
Phần IV: Nho giáo liệu có thể tăng được sức mạnh mềm của Trung Quốc không?

Tác giả Nguyễn Hải Hoành

No comments:

Post a Comment