Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Sáu, 04 tháng 6 2010 Chia sẻ
http://www1.voanews.com/vietnamese/blogs/quoc/nguoi-viet-khinh-nguoi-viet-06-04-2010-95635339.html
Nhớ, có lần về Việt
Khoảng giữa thập niên 1990, khi chính sách mở cửa về kinh tế của Việt
Tôi có một chị bạn lấy chồng Úc. Hai người đi về Việt
Mà hình như không phải chỉ ở trong nước.
Nhớ, cách đây hơn mười năm, cái máy giặt ở nhà tôi bị trục trặc. Tôi điện thoại gọi một người thợ Việt
Ừ, thì cũng dễ.
Sau đó, trong một buổi nói chuyện phiếm, tôi kể cho một người bạn Úc đang dạy tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai (ESL) nghe. Chị nói là chị không hiểu được. Chị dạy ESL cả mấy chục năm nay, chưa bao giờ nghe bất cứ ai nói là dạy ESL dễ hơn dạy các môn khác. Chưa ai gọi English, ngay cả English as a second language, là tiếng “lít” như một số người Việt vẫn gọi tiếng Việt là tiếng “Mít” cả.
Mà hình như tâm lý khinh thường người Việt và tiếng Việt đã có ngay từ xưa. Chữ Hán là chữ của thánh hiền. Người ta không dám vất hay đạp lên một mảnh giấy có vài chữ Hán nguệch ngoạc trên đó. Trong khi đó chữ Nôm thì lúc nào cũng bị coi rẻ: nôm na mách qué. Viết văn, muốn đi vào thiên cổ, thì dùng chữ Hán. Khi viết bằng chữ Nôm thì người ta khiêm tốn hẳn. Tài năng lồng lộng như Nguyễn Du cũng khiêm tốn: “Lời quê chắp nhặt dông dài / Mua vui cũng được một vài trống canh”. Các cây bút khác cũng thế. Trong Nhị Độ Mai: “Biết bao lời kệch tiếng quê / Thôi thôi bất quá là nghề mua vui”. Trong Phù dung tân truyện: “Lời quê chắp chảnh nên câu / Chép làm một truyện để sau mua cười”. Trong Bích câu kỳ ngộ: “Cũng xin góp một hội cười / Cùng mua mấy trống canh vui gọi là”, v.v… Đầu thế kỷ 18, dưới thời chúa Trịnh, các truyện “nôm na” ấy được xem là những “tiếng dâm” cần phải bị nghiêm cấm đấy!
Dưới thời Pháp thuộc, óc tự ti và sùng ngoại càng lên cao. Trong những điều người ta mơ ước “ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”, chẳng có gì dính dáng đến Việt
Tây”. Hết Tây thì đến Mỹ: xài Mỹ, giàu như Mỹ, sang như Mỹ, v.v…
Gần đây thì có sự phân biệt giữa nội và ngoại. “Ngoại” đồng nghĩa với thật và chất lượng cao. “Nội”, ngược lại, hầu hết là kém, thậm chí, giả, hay nói theo tiếng thông dụng lâu nay là dỏm / dởm / rởm.
Thành ra, có thể nói thái độ người Việt tự khinh người Việt, tiếng Việt và bất cứ thứ gì do người Việt làm ra có nguồn gốc sâu xa từ tâm lý thuộc địa. Hết thuộc địa của Tàu thì đến thuộc địa của Tây.
Tàu đi rồi. Tây đi rồi. Tâm lý thuộc địa biến thành tâm lý hậu thuộc địa. Cũng vẫn là một nỗi tự khinh mình.
Bạn có thấy vậy không?
.
.
.
No comments:
Post a Comment