Friday, April 30, 2010

THÁNG TƯ, THƯ CHO BẠN

Tháng Tư, Thư Cho Bạn
Vinh Phan

Thứ Ba, 4/27/2010, 12:00:00 AM

http://www.vietbao.com/?ppid=74&pid=51&nid=158497

Tác giả tên thật Phan ngọc Vinh, là cựu nữ sinh Gia Long, ra Trường năm 1971. Từ sau 1975, làm cô giáo ở Cần Đước. Cùng chồng và 2 con định cư tại Mỹ theo diện HO., nghề nghiệp: làm Nail. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là thư gửi bạn Saigon một thời cùng nhau ra... chợ trời, rồi mỗi người một ngả.

.

***

.

Lệ Hằng thương nhớ,
Thế là đã 17 năm, tao vẫn chưa một lần về thăm quê hương xứ sở.
Cũng đã đúng 17 năm rồi, kể từ ngày tao đến thăm mầy vì chỉ còn 2 ngày nữa, tao và chú của mầy cùng 2 con sẽ lên máy bay đi Mỹ. Hôm ấy, tao lấy sổ tay ghi địa chỉ mầy. Cuốn sổ vẫn còn trong chiếc va li cũ, nhưng mỗi khi Tết đến, muốn viết cho mày tấm thiệp, muốn gửi cho mày chút quà, tao lại thấy... chùn tay. Chắc mầy không hiểu tại sao đâu. Thôi thì hôm nay tao viết thư naỳ để mình cùng nhớ lại.
Hai đứa mình từng cùng học Trường Nữ Trung Học Gia Long, hàng ngày cùng đi về chung một con đường. Khi ra trường, tao đi làm Thư ký ở Bộ Giáo dục, Mầy thì đi bán hàng trong Thương xá Tax, gần BGD, hàng ngày tao có dịp chở mày đi về vì mình cùng ở chung trên con đường ấy, đường HTC.
Tao nhớ rõ, đó là vào năm 1974, mầy giới thiệu chú Nhung của mầy cho tao. Không như những bạn trai cùng tuổi, chú Nhung của mầy thật đứng đắn đàng hoàng trong bộ đồ lính, với 2 bông mai vàng đính trên cổ áo, cư xử thật chừng mực, tư cách. Sau một thời thân quen biết, ngày đầu tiên tao mời Nhung về nhà gặp Ba tao là Ba Tao chịu liền.
Tình yêu trao nhau chưa được bao lâu thì Saigon sụp dổ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chú Nhung của mày thành “lính ngụy” chờ đi tù cải tạo. Gia đình bọn mình ngày ngày ăn toàn bo bo khoai độn.
Hai đứa gom hết mấy cái áo dài, ly tách muỗng dĩa trong nhà, trải tấm nylon bên lề đường TMG, ngồi với mớ linh tinh chờ thời, xem ông đi qua bà đi lại, và tai thì nghe loa "Bác cùng chúng cháu hành quân, Trường sơn đông Trường sơn tây...".
Vật vã lên xuống trên con đường TMG được 2 tháng thì tao được giấy từ Bộ với "chủ mới" đổi tao xuống Cần Đước, và có nghề nghiệp mới là Giáo viên. Ngày hai dứa chia tay, tao dắt mầy đi ăn mì bình dân ở góc đường Hiền Vương và Bà Huyện Thanh Quan, chẳng nói được gì nhiều. Tao thì cứ kể những lúc đi ăn, đi dạo chợ hoa với Chú Nhung của mầy vào Tết vừa rồi, mày còn kể là chú Nhung vốn tình dè dặt, cẩn thận, khi đến chơi nhà Má mầy sau tháng 4/75, dù được mời cơm, Chú cũng chỉ dám ăn lấy lệ, dù trong bụng cũng chẳng có gì.
Sau bữa ăn mì bình dân, tao lên đường đi Cần Đước. Phải đi mấy chuyến xe mới tới chợ Cần Đước, rồi từ đó đi xe lam vô Kinh Nước Mặn. Xe lam chất đầy người và hàng hóa, băng ngồi hai bên không thể nhúc nhíc cục cưa gì được, hàng hóa ở giữa và người ngồi trên hàng hóa, rồi người đứng đeo đàng sau. Trước thì tài xế, 2 người ngồi 2 bên, 2 người đeo 2 bên, trên mui cũng đầy cả người và hàng hóa.
Tại vùng này, những ngày mưa đường nhầy nhụa đất sét vàng, xe chạy không nỗi, đàn ông phải leo xuống đẩy. Đẩy không nỗi, xe không nổ máy, đám người trên xe phải xuống đi bộ. Tao nhớ lúc đó mình có đôi guốc mới cũng còn cao chút xíu, vì tao họ lùn nên đi dép xẹp sẽ không bằng ai, đến nước nầy thì chỉ có xách guốc vì khi bước, guốc sẽ dính chặt xuống đất sét, ngồi đó mà gỡ thì "rằm tây" mới tới Kinh nước mặn .
Việc đi dạy của tao ở vùng này không dễ. Từ nơi ở trọ, phải đi thuyền qua khỏi con kinh nầy. Năm đó, 1976, có ông lão chèo đò độ gần 60, sống dộ nhật bằng con thuyền nhỏ, trên thuyền chở độ 15 người, có khi chở cả xe đạp hoặc xe gắn máy, ông cứ từ từ đẩy thuyền qua con kinh. Nói là con kinh, chứ người đứng bên nầy nhìn người bên kia, chỉ thấy chút xíu bằng cây tăm thôi, đủ thấy là con kinh rộng tới cỡ nào. Tao lại không biết bơi, nên mỗi lần đi qua đò là lâm râm khấn vái "cầu xin Phật Bà phù hộ" cho bình an. Khi lên được bờ rồi, tao lấy xe đạp đã gửi sẵn ở một nhà ven bờ, đạp vào độ 10 cây số, đi qua nhà dân, đạp ra hướng biển, gần tới đồn Rạch Cóc, nơi đó ngôi trường chỉ có 2 phòng học. Nhiệm sở của tao là ngôi Trường của họ Đạo Cao Đài, bị nhà nước tiếp thu.
Tao sợ nhất là mỗi khi xuống trường gặp trời mưa, vì không đi xe đạp được, mà phải đi bộ, mà khi đi bộ trên đất sét, thì rất dễ bị chụp ếch.
Những ngày ấy, đôi khi tao viết thư về cho mầy, kể chuyện về học trò, về trường học, về biển, về Đồn Rạch Cóc. Có những sáng sớm, học trò lấp ló trước cửa nhà tao ở trọ, nó đem những con cua hay mớ tôm còn nhẩy soi sói, nói là hồi dêm Bố Mẹ đi chài muốn chia cho Cô để ăn cho vui .
Có những ngày vừa dạy xong lớp xóa mù chữ thì chủ nhà đã kêu người dọn cơm mời cô giáo, canh bầu, cá rô phi chiên dầm mắm ớt, bầu trồng bên hè, cá ở dưới ao. Dân Saigon thời đó đói dài cổ như tao, phần đông ăn cơm độn bo bo, khi xuống đâyđược ăn cơm gạo lúa tiêu không độn, Tao ăn những 4 chén cơm, ém đầy cứng ngắc.
Sau đó vài tháng, vài cô giáo rủ tao về trường Long Hựu 2, tức gần giữa đường Kinh Nước Mặn và Rạch Cóc, mỗi ngày đạp xe đi và về độ 10 cây số, nhưng Tao nhận lời vì ở nhà dân cũng tiện nhưng không thoải mái.
Hồi còn ở trọ nhà Ông Hai Lự có đò đi đường sông từ Đồn Rạch Cốc ra chợ Kinh nước mặn, nhưng không tiện đường về Saigon nên tao ít đi đò. Cứ cách một ngày ổng lái tàu, có gắn máy Kohler, vợ con theo phụ để chuyển đồ cho khách, tao có thể gửi mua đồ ăn nên cũng không đói lắm.
Hồi ấy, trước khi bị đi tù cải tạo, chú Nhung của mày vẫn cố đến tận vùng quê Kinh Nước Mặn tìm tao. Có những đêm về Saigon, tao và Nhung đón đò từ Rạch Cóc, con gái chủ nhà làm một cây đuốc bằng rơm quấn với miếng vải cũ rồi nhúng vào dầu chai đốt lên, đưa hai đứa tụi tao xuống chỗ đón đò. Khi nghe tiếng máy đò chạy xình xịch từ xa, thì cô ấy quơ ngọn đuốc theo dấu hiệu gì đó thì lái tàu sẽ ghé bến, dân ở đây tốt lắm họ giúp tụi tao rất tử tế. Tao nhớ mãi một đêm đò ế, không có khách, tao và Nhung nằm dài trên băng lim dim nghe sóng vỗ mạn thuyền. Chợt cảm thấy như có luồng sáng lạ len qua cửa sổ, tao bừng dậy la lên "Nhung ơi dậy đi, xem trăng lên". Ôi đó là vầng trăng rằm đẹp vô cùng, tỏa sáng lung linh trên mặt sông. Vầng trăng to như cái mâm, nhìn rõ thấy như có chú cuội và cây đa. Hai bên dòng sông, hàng bần nháp nhô theo sóng nước cũng run rẩy như chào đón vầng trăng. Từ nhỏ đến giờ sống ở đô thị, đây là lần đầu tiên tao thấy vầng trăng nhô lên trên mặt sông.
Sau đêm trăng ấy, Nhung bỗng biến mất. Rồi rất lâu sau đó, tao mới nhận được thư của chú mày viết từ trại cải tạo, gửi về địa chỉ nhà tao ở Saigon. Lần đầu tiên nhận thư, tao khóc òa như con nít. Nhung vẫn còn sống, mà còn sống là còn hy vọng có ngày đoàn tụ.
Từ đó, trên bước đường xuôi ngược từ Sài Gòn xuống Cần Đước mỗi khi rảnh rổi sau giờ lên lớp, tao ngồi lại phòng dạy học viết thư gửi cho Chú của mầy. Tao kể chuyện về học trò, về những gì xẫy ra trên những con đường tao đã đi qua, tả cảnh, tả tình thầy trò... Thư của tao, Nhung kể là các bạn tù của anh ấy chuyền tay nhau đọc, họ khen cô giáo Vinh viết thư cảm động. Nhung còn kể là chính anh quản giáo VC trong đội tù ban đầu đọc để kiểm duyệt, riết rồi đọc để vui lây, và còn linh động là không hạn chế thư gửi vào cơ chứ!
Rồi cũng đến ngày quy định được đi thăm ông chú của mầy. Tao đã kể về những con đường đi qua từ Sài gòn xuống Cần Đước, bây giờ kể sơ về đoạn đường từ Sài Gòn lên Hàm Tân thăm tù.
Buổi tối, trước ngày đi, tao ghé nhà Chú của mầy. Mầy biết Chú của mầy cùng các cô sống với nhau từ nhỏ, anh chị em rất thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Bà chị Cả, không lập gia đình, chỉ săn sóc các em từ miếng ăn giấc ngủ, nên khi Chú mầy bị tù thì chị ấy rất là lo rầu, buồn thảm. Lương giáo viên trả tiền đi xe cũng đủ hết rồi, tao thật sự chỉ có tấm lòng thành, mọi thứ đồ gửi cho Chú là do Chị ấy dành dụm chắt chiu lo hết.
Bốn giờ sáng, hai vai tao mang hai bị đồ to tổ bố, cả cô mầy cũng thế, càng nặng càng tốt, vì càng nặng thì đồ trử khô cho Chú càng nhiều. Tao nhớ mình lúc ra bến xe, đầu đoiä nón lá, phải chen lấn giữa hàng người giành dựt để mua vé, có lúc đang ở hàng trên, bị lấn văng xuống hàng dưới, và cái nón lá thì bị đè bẹp dưới chân. Rốt cuộc cũng mua được vé, lên xe đò cũng nêm chặt người.
Từ 6 giờ sáng, xe chạy đến 12 giờ trưa thì tới Hàm Tân, đi bộ vào trại thấy từng lượt người tù đi qua. Đợi mãi đến chiều, cho đến lúc tưởng như mòn mỏi thì thấy Chú Nhung của mày hiện ra trong đám 4,5 người tù. Từ mé dốc đằng xa, thấy bóng Nhung trong bộ đồ tù khốn khổ, nước mắt tao tự bao giờ trào ra không dừng được. Rồi cũng đối diện với nhau, tay cũng chẳng nắm được bàn tay, vì tao đi với cô của mầy, và vì đàng sau lưng thì công an bồng súng đi tới đi lui la hét "trao đổi gì thì nhanh lên đi chứ, sao mà cứ nói linh tinh." . Có lúc Nhung bảo tao nhìn xuống dưới chân đi, tao kín đáo nhìn xuống, Chú nhẹ nhàng rút chân ra khỏi chiếc giày ba ta. Thì " Trời hởi trời", những móng chân sần sùi đen đủi. Chú bảo đi lao động dầm sình thúi móng... Chú phải mượn đôi giày ba ta của bạn tù, mang đỡ ra ngoài để gặp thân nhân.
Mỗi gia đình chỉ gặp thân nhân 15 phút rồi về, sau khi trao đổi túi đồ thăm nuôi. Khi phải chia tay, tao để Chú ra trước. Chỉ vài phút sau, Chú đi khuất sau cái dốc. Nhìn theo mãi, cũng chỉ là những hàng lau sậy lung linh theo gió.
Những ngày dạy ở Long Hựu, nếu không kể những gian nan cực khổ khi phải lặn lội từ SG xuống, thì tao thật sự yêu học trò, yêu cuộc sống bình dị ở đây, không bon chen danh lợi, yêu dân chúng địa phương, yêu biển êm đềm màu xanh trong sáng, từng đợt sóng xô nhẹ vào bờ, chứ không gầm thét như biển ở Vũng Tàu.
Rồi có lệnh bắt dân chúng âcùng tất cả giáo viên, công nhân viên phải đi Thủy lợi, đắp môt đoạn sông để làm cái đập. Đại khái trên làm cái cầu có đường xe chạy, dưới là cái đập, mùa khô thì đóng đập để ngăn nước mặn, mùa mưa thì tùy lượng nước nhiều ít để mở hay đóng mà giử nước làm ruộng.
Còn nhớ hôm ấy, là ngày cuối cùng làm Thuỷ lợi, vào thứ bảy, xem như GV đạt mọi chỉ tiêu, tụi tao vào nhà dân rửõa mặt tay chân. Tao chạy ra bến xe đi chuyến cuối cùng để về SG. Tao nhớ mầy vô cùng. Kỳ rồi đi thăm nuôi Nhung về, không kịp ghé cho mầy hay tin. Đã gần hai năm hai đứa không gặp nhau.
Khi tới được nhà mầy, tao được bà má cho hay mầy đã lấy chồng ra ở riêng. Em mầy nói thêm chồng của chỉ là Bác sĩ ở trong bưng ra! Giọng người em mầy có vẻ...làm sao ấy! Còn tao thì sững sờ. Em mầy bảo "Chị có muốn ra nhà chị ấy chơi không, Em dắt Chị đi ".
Sau đùó người em mày đưa tao đi đến căn nhà mặt đường TMG hai tầng lầu. Ngôi nhà bề thế sang trọng làm tao phải nhìn lại mình. Đúng là thê thảm quá: Đầu cột búi tó, chân đi dép mủ, quần vải ú đen, áo bà ba tự tao may từ cái áo dài được sửa lại... Đã vậy quần áo còn dính mấy vệt bùn thuỷ lợi. Trên tay lại còn xách cái giỏ bàng, kẹp thêm cái nón lá bị bung vành nữa chứ. À, còn cái món nầy nữa, trước khi đi Thủy lợi độ vài tuần, tao có mua 20kg cá đỏ đuôi, tự tay ướp muối phơi khô. Tao đem về cho má Tao và biếu nhà mầy một nửa, đã sớt cho má mầy một ít, còn lại tao đem tới cho Mầy.
Tao chần chừ không biết có nên vào nhà mầy không. Thôi thì cứ vào. Mình đâu có đi mượn tiền đâu mà sợ, thăm bạn thôi mà.
Em của mầy bấm chuông, phải mất vài phút mới có tiếng động trong nhà. Có tiếng chó, chắc là chó berger, sủa inh ỏi. Rồi thì cửa cũng mở. Hai năm trời mới gặp lại nhau, tao vồn vã hỏi thăm, nhưng rồi phải khựng lại vì thấy mày nâng đôi kính cận lên, nhìn tao. Cái nhìn lạnh lùng, xa lạ, nhu nhìn một người từ trên rừng trở về thành phố.

Lệ Hằng ơi,
Khi tìm thăm mày ngày ấy, tao định kể cho mầy nghe nhiêu chuyện, định sẽ dắt mầy đi ăn gỏi khô bò, món ăn màày thích lắm... Đủ thứ dự định, nhưng thôi. Tao chỉ nói là tới thăm mầy chút thôi phải về ngay. “Thôi, tao về nghe Hằng.” Tao nói rồi đi ngay, cũng không để lại gói khô định tặng mày. Chỉ là món quà nghèo. Chắc mầy sẽ quăng trong xó xỉnh nào đó.
Trên đường trở về nhà, ôm mớ khô và cái giỏ bàng với cái nón lá bung vành, tao thất thiểu, lòng thì buồn vô hạn. Thôi, chắc từ nay sẽ không bao giờ gặp lại. Chú Nhung của mày giờ này đang còn trong trại tù. Hèn gì bao lâu không nghe mày thăm hỏi. Biết bao điều muốn nói với mày. Nhưng thôi, hãy mừng cho mầy có nơi nương tựa, có ùnhà cao cửa rộng, dù là...
Biết bao gia đình nhân chủ đích thực của những căn nhà bề thế đã "hồ hởi, phấn khởi" ghi danh đi kinh tế mới, và rồi nhà cửa bị chiếm.
Sau buổi ghé thăm mày lần ấy, tao biết con đường tao phải đi. Đó là con đường đi đến trại tù Hàm Tân để đến với chú Nhung của mày.
Nhiều năm đã qua.
Nhung đã trở về, chúng tao đã thành hôn. Hai ngày trước khi đi Mỹ, tao cũng đã đến thăm mày.Ngày tao và Nhung lên máy bay đi Mỹ, hai vợ chồng đã có 2 con. Một đứa 5 tuổi, một đứa 7 tuổi, ngơ ngác, lạ lẫm khi đặt chân bước xuống phi trường, như Bố Mẹ của chúng.
Bây giờ, một đứa đã tốt nghiệp đủ ba cái bằng của một đại học tài chánh nổi tiếng tại Hoa Kỳ, đang làm việc cho nhà băng. Một đứa năm nay sẽ tốt nghiệp kỹ sư công chánh. Chú Nhung của mầy vẫn làm việc 40 giờ mỗi tuần dù đã 69 tuổi.
Thư nầy được gõ ngay trong tiệm Nail mà tao là chủ. Gia đình được như ngày hôm nay, là nhờ sự cố gắng của mỗi thành viên để xứng đáng với việc nước Mỹ, người Mỹ đã dang đôi tay san sớt và chia xẻ giúp đỡ.
Mười bẩy năm không viết nổi lá thư. Hy vọng mày đã hiểu. Ngừng gõ, không hiểu phải chúc mày ra sao. Thôi thì cùng nhớ ngày nào hai đứa rủ nhau ra... chợ trời, rồi mỗi người một ngả.
VINH PHAN

.

.

.

No comments:

Post a Comment