Sunday, April 4, 2010

KARL MARX - NHÀ TIÊN TRI GIẬN DỮ (2)

Karl Marx - nhà tiên tri giận dữ (2)

YesMan2008

31-03-2010 11:05 PM

http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=362&page=2

(tiếp theo)

Đánh giá Marx

Làm thế nào mà chúng ta có thể phê phán một cách toàn diện những phân tích thiên tài của Marx? Nhiệm vụ này thật là đáng sợ. Trong suốt thế kỷ qua, giới trí thức đã viết hàng triệu trang giấy để ngợi ca, lăng mạ và ba hoa, bốc phét về Marx. Một dàn ý đơn giản để đánh giá Marx là như thế này: (1) Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx bẻ cong khái niệm lao động thặng dư như thế nào? (2) Những điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản có chính xác không? (3) Ông đóng góp cho kinh tế học hiện đại những gì? (4) Ông đóng góp gì cho chính trị học hiện đại?

1.Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx bẻ cong khái niệm lao động thặng dư như thế nào:
Trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo, Jean Valjean thường xuyên phải đối diện với kẻ báo oán: Thanh tra Javert. Và cuộc đời cứ luôn kéo Javert về đối diện với Valjean. Tính biện chứng văn chương tạo ra một cuộc tranh đấu kịch tính cho mỗi bên. Nếu không có nhân vật kia, cuộc đời sẽ trở nên quá đơn giản đối với họ.

Vấn đề trong chủ nghĩa lịch sử của Marx là ở chỗ nhà biện chứng bậc thầy này lại bỏ qua sự biện chứng kịch tính nhất: giữa những nguyên nhân ý thức và những nguyên nhân vật chất. Về cơ bản, Marx miêu tả những yếu tố vật chất là nguyên nhân cho mọi sự thay đổi. Chúng thiết lập và thay đổi ý thức hay thượng tầng kiến trúc của xã hội một cách định kỳ. Mặc dù thừa nhận mối quan hệ này nhưng Marx lại luôn coi thường những tác động của ý thức. Và sai lầm này lan sang hủy hoại lý thuyết kinh tế của ông.

Khái niệm về lao động thặng dư là cơ sở cho toàn bộ học thuyết Marx về chủ nghĩa tư bản. Hãy nhớ lại phép tam đoạn luận đơn giản. Tại sao lao động phải bị bóc lột? Bởi vì Marx nắm chặt lấy "học thuyết giá trị lao động" để giải thích việc nhà tư bản thu được lợi nhuận. Theo Marx, "không một nguyên tử" giá trị nào bắt nguồn từ nhà tư bản.30 Không chút đắn đo, Marx cho rằng cô thợ may Jasmine hay người thợ rèn đang đập thình thịch vào cái đe mới tạo ra giá trị.

Marx đã quên mất điều gì? Ông không để ý tới khả năng sáng tạo và tài kinh doanh. Để tạo ra của cải đòi hỏi phải có những thứ hơn cả nguyên liệu hữu hình. Việc chế tạo ra các đầu máy video (VCR) không cần những loại vật liệu thô mới hay những phương thức bóc lột lao động tàn nhẫn hơn. Ngành công nghiệp video đòi hỏi hai điều: phát minh và bản lĩnh kinh doanh - sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong đầu tư. Tại sao người Nga sống dưới chế độ cộng sản lại phải xin những chiếc quần bò vải bông chéo do người Mỹ làm ra? Không phải vì Liên Xô thiếu bông hay thiếu công nhân để sản xuất quần áo chất lượng cao, mà bởi vì họ thiếu năng lực sáng tạo, động cơ làm việc và kỷ luật. Chính những cái vô hình này phân biệt những công ty và quốc gia thành công với số còn lại.

Chủ nghĩa duy vật của Marx không may lại làm ông phớt lờ tất cả các loại vốn, như vốn nhân lực tức là tri thức, tài khéo léo hay kỹ năng quản lý đều rất quan trọng đối với lợi nhuận. Làm thế nào mà học thuyết giá trị lao động có thể giải thích được những giây phút lóe sáng hay sự sáng suốt như ví dụ dưới đây?

Vài năm trước, khi một người bước qua một khu rừng, một bông gai nhỏ bắt chặt lên chiếc tất len của anh ta. Tài khoản ngân hàng của anh ta giờ đây đầy ắp tiền. Anh ta phát minh ra khóa dán Velcro. Liệu tất cả lợi nhuận của anh ta có được là do đánh cắp của công nhân?

Trong chương sau, chúng ta sẽ thấy Alfred Marshall tấn công Marx vì đã bỏ qua giá trị của việc chấp nhận rủi ro và "chờ đợi" đối với xã hội. Bằng cách đầu tư, nhà tư bản từ bỏ sự thỏa mãn tức thời của việc mua hàng hóa. Những khoản kiếm được nhờ đầu tư trả cho sự chờ đợi và trì hoãn thỏa mãn của anh ta. Nếu mọi người đều tiêu thụ tất cả mọi thứ bây giờ, xã hội sẽ chẳng tạo ra được cái gì mới. Do vậy, lợi nhuận đóng một vai trò cốt yếu và hoàn toàn hợp lý. (Thật tình cờ, cuộc "cách mạng" của những người theo phái cận biên mà Marshall là người đi đầu, chứng minh rằng giá trị bắt nguồn từ cầu, cũng như từ sản xuất hay cung. Vào thời điểm tập II của Tư Bản xuất bản sau khi tác giả đã chết, những người theo phái cận biên đã tấn công dữ dội cách tiếp cận trọng cung của Marx và những nhà kinh điển)

Bằng việc thừa nhận học thuyết giá trị lao động, Marx coi thường quá nhiều yếu tố động và yếu tố ý thức. Ricardo không mắc phải sai lầm này, bởi vì ông nhìn nhận học thuyết giá trị lao động chỉ là một công cụ tính toán tiệm cận thôi, chứ không phải là nguyên nhân quyết định giá trị. Khi Marx cố chứng minh lý thuyết bằng toán học, ông rơi vào một đống bông gai. Thật ngạc nhiên là ông lại không khám phá ra khóa dán Velcro hồi thế kỷ XIX.

2.Những điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản có chính xác không? Marx không có ý định đưa ra lời tiên đoán. Ông nhằm vào sự tiên đoán khoa học, dự báo tiến trình lịch sử dựa trên những khuynh hướng có thể nhận biết được. Nhưng khi lịch sử đi chệch khỏi những dự báo của ông, thì những hậu duệ của ông sau khi ông chết đã tạo ra một thứ giả-tôn giáo từ những công trình của ông. Thật vậy, những "quy luật" của ông tuân theo lịch sử. Sau khi mô hình hóa những quy luật, những học trò của ông có thể công bố tính chính xác của những điều tiên đoán. Mặc dù có xuất phát điểm là khoa học vô thần, chủ nghĩa Marx trong thế kỷ XX lại giống như một cửa sổ kính màu cho ánh sáng Mặt trời đi qua nó một cách chọn lọc và hiếm khi thừa nhận sai lầm. Một khi những quy luật trở thành kinh sách tôn giáo, thì những nỗ lực nhằm kiểm chứng tính khoa học của chủ nghĩa Marx đều thất bại.

Marx sống đủ lâu để trông thấy một vài người ủng hộ mình tung hô và tán tụng những quy luật của ông, dựng lên những bục giảng đạo và ban phát bánh thánh. Nhà chủ trương học thuyết vô chính phủ Proudhon đã cảnh báo Marx đừng có tạo ra một cuốn giáo lý vấn đáp:

Vì sự nghiệp của Chúa, sau khi chúng ta bãi bỏ tất cả chủ nghĩa giáo điều suy diễn, chúng ta hãy chấm dứt tiêm nhiễm một loại giáo điều khác vào đầu dân chúng vì bất kỳ lý do gì đi nữa… Chúng ta hãy luận chiến với nhau một cách lịch sự và chân thành … Vì chúng là người đi đầu của phong trào, chúng ta hãy đừng biến mình trở thành lãnh tụ của sự tin tưởng mù quáng mới, chúng ta đừng thể hiện như là tông đồ của một tôn giáo mới ngay cả khi tôn giáo này là tôn giáo của logic, tôn giáo của lý trí.31

Ngay cả khi chúng ta không thể bác bỏ được những dự đoán của Marx, chúng ta vẫn có thể quan sát một số phát triển trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa kể từ thời đại của ông. Thứ nhất, mức sống của công nhân đã được nâng lên rất đáng kể trong suốt 100 năm qua. Tỉ lệ người sở hữu nhà và ôtô tăng lên cực kỳ nhanh. Theo định nghĩa về sự nghèo đói hiện nay, giai cấp tư sản mới nổi ở thời của Marx đã bị nghèo đi và bị "bần cùng hóa" theo thuật ngữ của Marx. Và nếu chiểu theo định nghĩa ở thời của Marx, thì giai cấp công nhân ngày nay là giàu có một cách phô trương. Không ai có thể bác bỏ sự tăng lên trong mức sống "tuyệt đối" của người công nhân.

Tuy tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã cảnh báo trước những người công nhân rằng "người công nhân hiện đại… đã không vươn lên được cùng sự tiến bộ của công nghiệp mà còn luôn luôn rơi xuống thấp hơn, dưới cả những điều kiện sinh sống của chính giai cấp họ. Người lao động trở thành một người nghèo khổ". Nhưng Marx sớm nhận ra rằng ví tiền của công nhân đã trở nên dày hơn. Ông thậm chí cũng phải thừa nhận rằng mười năm sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, tiền lương của công nhân đã tăng lên 40%.32

Vì lý do này nên Marx đã sửa đổi những định nghĩa và cảnh báo rằng công nhân sẽ trở nên ngày càng nghèo hơn so với nhà tư bản. Cảnh khải huyền của người lao động cứ mờ nhạt dần đi: Người giàu sẽ giàu hơn và người nghèo cũng trở nên giàu hơn. Nhưng người giàu sẽ giàu nhanh hơn.33

Marx ép định nghĩa mới vào cuốn Tư Bản bằng cách tuyên bố rằng "sự tồn tại" là một thuật ngữ tương đối, tùy thuộc vào lối sống đương thời. Có lẽ là trong thế kỷ XX, sự sinh tồn tối thiểu cần có máy truyền hình màu vì những người "nô lệ ăn lương" trung bình trong lĩnh vực chế tạo đều có thể mua được. Bằng cách lùi vào lập luận mang tính chất tương đối như vậy, Marx từ bỏ sự giận dữ và cảm giác tuyệt vọng về cảnh ngộ của người công nhân. Chừng nào mà người nghèo vẫn trở nên giàu có hơn, thì viễn cảnh đó thậm chí còn vượt qua được phép kiểm định công bằng xã hội của nhà triết học John Rawls (cho phép người giàu kiếm được chỉ khi nào người nghèo cũng có lợi).34

Cho nên những người Marxist hiện đại nhấn mạnh đến tâm lý khổ sở và sự lạc lõng. Họ có lẽ đúng; những người công nhân vẫn thường cảm thấy buồn chán và phẫn nộ. Nhưng Marx không nói với chúng ta về cách thức mà chủ nghĩa xã hội làm cho việc nhặt rác trở nên thú vị. Nếu những người lao động hạnh phúc làm việc tốt hơn thì ít nhất dưới chủ nghĩa tư bản, những người chủ cũng có động cơ thuyết phục để làm hài lòng nhân viên của mình.

Hơn nữa, làm thế nào để chúng ta có thể định nghĩa được hạnh phúc của những người lao động? Nếu tiền lương chỉ là tương đối, tại sao đó không phải là hạnh phúc? Liệu chúng ta có phải đưa ra câu hỏi tuyệt đối: Những người công nhân hiện tại có hạnh phúc hơn những người công nhân 100 năm trước không? Hay chúng ta phải đặt ra câu hỏi tương đối: Mức độ gia tăng hạnh phúc của họ có nhanh hơn mức gia tăng hạnh phúc của các nhà tư bản không? Hãy xem xét điều này: Người giàu trở nên hạnh phúc hơn, và người nghèo cũng trở nên hạnh phúc hơn. Nhưng người giàu trở nên hạnh phúc hơn nhanh hơn. Một khi chúng ta bắt đầu diễn giải sự hạnh phúc sao cho chúng ta có thể kiểm định được “tính khoa học” của chủ nghĩa Marx, thì đó là một ngày đáng buồn cho những người Marxist cũng như những người không phải là Marxist.

Marx cũng tiên đoán sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản, một hệ thống tự tạo ra những "người đào mồ chôn" chính mình. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại có vẻ chưa chết. Nạn thất nghiệp có cao hơn một chút so với hồi đầu những năm 1900. Nhưng nếu chúng ta xét đến tỷ lệ phần trăm dân số lao động và đặc biệt sự gia nhập của phụ nữ vào lực lượng lao động thì tỷ lệ có việc làm lại cao hơn.

Hơn thế nữa, chủ nghĩa tư bản thường sản sinh ra tầng lớp trung lưu gián tiếp sở hữu một số phương tiện sản xuất thông qua thị trường chứng khoán. Trong những năm cuối của thập niên 1980, hàng triệu người Anh thuộc tầng lớp trung lưu dưới mua cổ phiếu của những công ty được "cổ phần hóa" như British Telecom, British Steel và British Airways. Hầu hết các quỹ hưu trí nghiệp đoàn ở Mỹ đều đầu tư nhiều vào cổ phiếu các tập đoàn.

Một số người bảo vệ Marx chỉ ra sự gia tăng vai trò của chính phủ trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa như là vị cứu tinh bất ngờ của chủ nghĩa tư bản. Các khoản chi tiêu phúc lợi xã hội bảo vệ các nhà tư bản khỏi suy thoái sâu hơn và cách mạng. Những người bảo vệ Marx có lẽ đúng. Nhưng hãy nhớ rằng, Marx tiên đoán rằng hệ thống chính trị và thượng tầng kiến trúc sẽ giữ bất động, chống lại sự thay đổi. Sự cứng nhắc sẽ phá hủy nó. Nếu xét về quá khứ, thượng tầng kiến trúc đã nhượng bộ để cứu chủ nghĩa tư bản, thì Marx tiếp tục sai thêm một lần nữa.

Cuối cùng, những người Marxist giải thích sự thành công ngạc nhiên của chủ nghĩa tư bản bằng cách viện dẫn những quốc gia bên ngoài. Họ nói rằng các nhà tư bản bắt đầu bóc lột những những công nhân nước ngoài ở những nước kém phát triển hơn và những người công nhân bị bóc lột ở nước ngoài này đã chống đỡ cho nền kinh tế trong nước. Một lần nữa, ngay cả khi lập luận này có giá trị, thì nó cũng đưa chúng ta chệch xa khỏi sự phân tích của Marx về sự hủy hoại biện chứng nằm trong lòng chủ nghĩa tư bản.

Nói tóm lại, Marx đã nghĩ ra một hệ thống khoa học trong tác phẩm Tư Bản. Ông tự tin tiên đoán quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Với lối diễn giải phóng khoáng và láu cá, có lẽ thỉnh thoảng ông mới đúng. Nhưng có một điều chắc chắn là Marx rất khinh thường những người mộ đạo đầy cảm tính. Ông sẽ giận dữ bác bỏ những nỗ lực giành chiến thắng trong lập luận bằng lòng khoan dung của trí tuệ.

3.Marx đóng góp cho kinh tế học hiện đại những gì? Khi mỉa mai tính thiết thực của một lý thuyết nào đó của đồng nghiệp, nhà kinh tế học Joan Robinson thường nói: "Hãy tưởng tượng một con chó chạy qua cánh đồng đuổi bắt một con cáo. Con chó đi theo mùi của con cáo. Lý thuyết của đồng nghiệp tôi là con bọ chét trên lưng con chó đó."

Đối với hầu hết các nhà kinh tế chính thống ở Mỹ và Anh, các lý thuyết kinh tế của Marx là những con bọ chét đó. Trong phạm vi lý thuyết kinh tế chính thống, sự thách thức của Marx chỉ là thùng rỗng kêu to. Paul Samuelson mô tả học thuyết giá trị lao động là sự ngụy biện siêu hình hay sự ngụy biện định nghĩa.

Trong cuộc Đại Suy thoái, George Bernard Shaw đã cố thuyết phục John Maynard Keynes về những ưu điểm của Marx. Keynes đã phủ định lại:


Cảm nghĩ của tôi về cuốn Tư Bản cũng giống như cảm nghĩ của tôi về kinh Koran. Tôi biết rằng nó quan trọng về mặt lịch sử. Và tôi biết có nhiều người, mặc dù không phải là dốt nát nhưng lại coi nó là Hòn đá tảng của mọi Thời đại và chứa nhiều nguồn cảm hứng. Tuy nhiên khi tôi xem kỹ nó, tôi cảm thấy không thể giải thích được là tại sao nó lại có được những tác động như vậy. Cách bút chiến khoa học lỗi thời và tồi tàn của nó dường như hoàn toàn không phù hợp với mục đích này. Nhưng như tôi đã nói, tôi chỉ cảm thấy nó giống hệt với kinh Koran thôi. Làm thế nào mà hai cuốn sách này lại có thể đem cảnh nước sôi lửa bỏng đến một nửa thế giới? Tôi không thể hiểu nổi. Rõ ràng có nhược điểm gì đó trong sự hiểu biết của tôi. Ngài có tin vào cuốn Tư Bản cũng như kinh Koran không? Hay chỉ có cuốn Tư Bản thôi? Cho dù có bất cứ giá trị nào về xã hội học gần đây của cuốn Tư Bản, tôi dám chắc rằng giá trị kinh tế đương thời của nó (ngoài một vài điểm lóe sáng nhưng không liên tục và không có tính xây dựng ra) là bằng không. Ngài hứa sẽ đọc lại nó một lần nữa chứ, nếu tôi cũng làm vậy?

Shaw đọc lại. Keynes đọc lại. Keynes có nhìn thấy ánh sáng hay Thánh địa Mecca không? Ông không thấy gì:

ʺTôi ưa thích Engels hơn cả. Tôi có thể thấy rằng họ đã tạo ra một phương pháp tiến hành nào đó và một lối viết rất rẻ tiền. Còn những người kế tục họ đã duy trì lòng trung thành đối với họ. Nhưng nếu ngài bảo tôi rằng họ đã phát hiện ra một đầu mối của một bí ẩn kinh tế nào đó, thì tôi xin đầu hàng ʺ
.35

Kể từ khi Keynes thiên tài như vậy đầu hàng thì hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đã từ bỏ các cuộc luận chiến và ngừng nghiên cứu Marx. Theo Frank Hahn, một nhà phê bình xuất sắc chủ nghĩa tư bản tự do kinh tế thì: "Hầu hết những người Marxist chưa bao giờ đọc Marx cả. Thế nên, bạn không thể trách họ."

Tuy vậy, Marx vẫn còn núp đằng sau những lập luận của hàng nghìn nhà kinh tế học cấp tiến xuất bản Tạp chí Kinh tế Chính trị cấp tiến. Họ có một tiếng nói mạnh mẽ ở Đại học Massachusetts ở Amherst. Từ nguyên của từ "cấp tiến" (radical) là từ "radic" tức là gốc rễ, giống với (radish) củ cải vậy. Y như Marx, các nhà kinh tế học cấp tiến tin rằng cái gốc của lý thuyết kinh tế học hiện đại bị mục nát trong sự phân tích của nó về chủ nghĩa tư bản. Dù sao những người cấp tiến không muốn chịu trách nhiệm cho tất cả những câu mà Marx thốt ra hoặc mọi lời tiên đoán mà ông ta công bố.

Một vài người cấp tiến vẫn còn ôm lấy học thuyết giá trị lao động của Marx. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều nhấn mạnh đến vấn đề kiểm soát trong chủ nghĩa tư bản. Các ông chủ tìm mọi cách "chia để trị", và duy trì sự kiểm soát ở nơi làm việc và trong phòng bỏ phiếu. Nhà Marxist người Ba Lan Michal Kalecki đã lập luận rằng hồi những năm 1940, chính phủ cố ý tạo ra những đợt lạm phát và suy thoái để bóp chết cầu của công nhân. Nhà cấp tiến hiện đại Stephen Marglin thì cho rằng các doanh nghiệp thường hoan nghênh những cuộc suy thoái. Nếu Marglin đúng thì đang có rất nhiều người hoạt động theo "ý thức sai lầm" của Marx. Chúng ta hãy xem xét bài viết của Marglin về cuộc bầu cử tổng thống năm 1980: Ronald Reagan hứa hẹn tỉ lệ lạm phát thấp hơn mà không có suy thoái. Thật là ngốc nghếch, ông ta nghĩ rằng các ông chủ không thích suy thoái. Nhưng các ông chủ lại bầu cho Reagan. Tại sao vậy? Họ biết là ông ta sẽ thất bại và vô tình gây ra suy thoái. Đúng là ông ta đã thất bại và theo như luận thuyết của Marglin thì các ông chủ rất vui sướng khi nhìn thấy giá cổ phiếu của họ giảm xuống.36

Các nhà cấp tiến hiện đại tiến hành nhiều cuộc chiến - chống lại những mô hình của những nhà kinh tế đồng nghiệp của họ, chống lại chính phủ, chống lại các nhà tư bản, và đôi khi chống lại chính ký ức của thày họ, Karl Marx. Cho đến nay người ta khó lòng mà đếm được những lần chiến thắng của họ.

4.Marx đóng góp gì cho chính trị học hiện đại? Tiếng than khóc to nhất trong bất kỳ một cuộc tranh luận nào về chủ nghĩa cộng sản ngày nay đều xuất phát từ những người Marxist, những người chỉ trích gắt gao nền chính trị Liên Xô cũ và những nước đồng minh của nó. Họ hét to lên rằng đây không phải là chủ nghĩa cộng sản của Marx. Tất nhiên là họ đúng. Ngay từ đầu, Marx chỉ giới hạn chủ nghĩa cộng sản ở những nước đã được công nghiệp hóa (mặc dù trong những năm cuối đời, ông cẩn thận xem xét một cuộc cách mạng có thể xảy ra ở nước Nga). Stalin có một nhiệm vụ khó khăn là tăng tốc, đưa nước Nga nông nghiệp tiến vào kỷ nguyên công nghiệp. Dựa vào điểm (1) và (9) trong bản kế hoạch của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Stalin đã buộc nông dân phải gia nhập các nông trang tập thể và nhà nước. Vào mùa đông những năm 1932-1933, ông cố tình gây ra nạn đói làm chết hàng triệu người để bẻ gãy sự kháng cự của họ, đặc biệt là ở Ukraina.37

Trước Stalin, Lenin đã gặp phải những rắc rối chính trị tương tự khi định hình lại tư duy của người Nga. Trong thời kỳ ông cầm quyền, nền chuyên chính vô sản là nền chuyên chính của Đảng - một chế độ độc tài sẽ không nhanh chóng tự tiêu vong được.

Đến cuối thập niên 1980, Mikhail Gorbachev cố gắng cứu chữa một nền kinh tế bị xơ cứng. Như những người bảo vệ nó thường nói, nền kinh tế của họ bị quặt què trong suốt 70 năm xấu trời. Vào thời điểm đó Gorbachev dường như đã sẵn sàng vứt bỏ Marx và chấp nhận một vài cơ chế thị trường tự do, kể cả việc cho thuê dài hạn đất đai nông trang và các phân xưởng sản xuất nhằm kiếm lợi nhuận và tạo ra những hợp tác xã tư nhân. Mặc dù vậy, Gorbachev lại không thể duy trì được tình thế khi những lực lượng thị trường làm bỏng những bày tay cộng sản đã quen nắm chặt nền kinh tế. Có thể nói rằng chiếc máy fax đóng một vai trò to lớn trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh giống như một công nghệ quân sự, bằng cách cho phép các tổ chức dân chủ có thể truyền bá những thông điệp của mình. Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã vật lộn để thúc đẩy nền kinh tế Nga tiến lên, nhưng lại bị cản trở bởi tham nhũng, thế lực mafia mới nổi lên và dân số già cỗi cảm thấy có quá ít lợi thế cho họ trong một nền kinh tế mới. Đối với những người hưu trí, chủ nghĩa cộng sản đảm bảo cho họ một số tiền - một số tiền không đáng kể nhưng ít nhất là một khẩu phần chắc chắn. Chủ nghĩa tư bản chẳng bảo đảm cho họ cái gì ngoài sự hỗn loạn. Trái lại, những người Nga trẻ tuổi đã chớp lấy cơ hội xây dựng nên những doanh nghiệp mới để đi lại tự do và cố gắng bắt tay vào kinh doanh. Đây là một sự phân hóa xã hội nguy hiểm gần như không thể hàn gắn được. Một sự phân ly còn sâu sắc hơn cả sự bất hòa giữa "nhà tư bản và công nhân" mà Marx và Lenin đã lợi dụng. Tháng Bảy năm 1998, Yeltsin tham gia nghi lễ an táng dành cho Nga hoàng Nicholas và gia đình ông ta ở St. Petersburg; những người mà hài cốt của họ đã bị thiêu đốt và để mặc trong quên lãng hàng thập kỷ. Yeltsin lên án hành động giết Nga hoàng một cách man rợ của những người Leninist, hy vọng tìm ra một vấn đề mà những người già và trẻ có thể đồng ý với nhau.

Người Trung Quốc tôn thờ Marx sau cuộc cách mạng năm 1949 của họ. Ngay sau đó họ trở thành người đa thần giáo bằng cách đặt Mao Trạch Đông lên cùng bàn thờ. Nhưng đến cuối những năm 1970, dưới thời Đặng Tiểu Bình, người Trung Quốc bắt đầu nhanh chóng chuyển hướng sang tự do kinh doanh trong nhiều khu vực kinh tế. Điều này thực sự là sự quở trách Marx và chửi rủa Mao. Đặng, người đã bị Mao tống vào tù hồi Cách mạng Văn hóa đẫm máu trong những năm 1960, là một người thực dụng. Ông phát biểu rằng "mèo trắng hay mèo đen không thành vấn đề miễn là bắt được chuột".38 Ông cho phép các chủ hiệu được giữ lại lợi nhuận và nông dân được tự do bán lương thực của mình. Họ gọi xu hướng này là gì? Họ đã chuyển chữ thuật ngữ "thị trường tự do". Hàng triệu người Trung Quốc tưởng rằng "thị trường tự do" là một thuật ngữ gốc Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khoảng mười năm tự do hóa, những lực lượng bảo thủ khẳng định lại vị thế của họ vào năm 1987 (mặc dù họ không chấm dứt việc kinh doanh của nhà hàng Gà Rán Kentucky - KFC nằm ở phía đối diện của lăng Mao Trạch Đông). Mặc dù vậy, sự thụt lùi chỉ là tạm thời. Sau khi Đặng chết, thủ tướng mới Chu Dung Cơ và chủ tịch Giang Trạch Dân cam kết thúc đẩy hơn nữa kinh tế tư nhân và cắt giảm phạm vi hoạt động của các công ty đại chúng. Năm 1998, Giang thậm chí còn nắm cả quân đội. Những ngón tay của ông ta có thể sờ đến tất cả các khu vực kinh doanh từ khách sạn, các nhà máy sản xuất tủ lạnh, đến các quầy bar karaoke. Các doanh nhân Trung Quốc đã len lỏi vào nền kinh tế thế giới. Hầu hết đồ chơi tại các cửa hàng đồ chơi Toys "R" Us ở địa phương nơi bạn ở đều được chế tạo tại Trung Quốc. Trong khi đó, ngày càng nhiều người Trung Quốc gội đầu bằng dầu gội đầu Procter & Gamble hơn bất kỳ nhãn hiệu nào! Điều kỳ quặc trong sự thành công của Chu và Giang là trong khi thúc đẩy hơn nữa tự do kinh doanh, họ vẫn duy trì quyền lực của Đảng Cộng sản để dọa dẫm. Mặc dù vẫn còn một số hồ nghi nhưng đó không còn là Đảng Cộng sản của cha ông họ nữa.

Liên Xô và Trung Quốc là những quốc gia cuối cùng trong số các quốc gia cộng sản lớn nhất tuyên bố trung thành với chủ nghĩa Marx. Khi Bức Màn Sắt tan chảy dọc theo đường biên giới của Ba Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc, Hungary và Rumani, ngày càng có nhiều công nhân giành được tự do để đoàn kết; chống lại những tư tưởng của Marx.

Cho tới nay, không còn một nước nào tuân theo chủ nghĩa Marx đúng như trong mường tượng của những người ngưỡng mộ ông ta nữa. Ngay cả khu định cư của Israel dường như cũng đang chuyển đổi từ những dự án xã hội chủ nghĩa thành những dự án tư bản chủ nghĩa. Có lẽ sẽ không còn nước nào thực hiện giấc mơ của Marx nữa. Giấc mơ hứa hẹn hơn cả thế giới thực tại, một thế giới đầy rẫy sự khan hiếm, sự ích kỷ và xấu xa. Đó là một giấc mơ giống kiểu một thiên đàng đã bị mất, phù hợp hơn đối với những thiên thần hơn là với những người vô sản. Thật không may, lòng mong mỏi khát khao trở nên mạnh mẽ tới mức những người tốt đã bị mê hoặc. Họ ủng hộ những chế độ đồi bại chuyên giảng đạo, nhưng lại không thực hiện giáo lý của chủ nghĩa Marx. George Bernard Shaw đã bắt tay Stalin và quan sát sự đàn áp của chế độ Xô viết trong một thời gian dài trước khi ông tỉnh ngộ.

Đối với nhân loại ngày nay, Marx nhắc nhở chúng ta rằng thay đổi về kinh tế có thể gây ra đau đớn, rằng quyền lực có thể chuyển thành sự áp bức và bộ phận dân cư tầng lớp dưới phải được bảo vệ khỏi sự bóc lột. Những chế độ cộng sản đã cho thấy những cảnh báo trên là hoàn toàn chính xác. Những người ngưỡng mộ Marx tán dương Marx thời trẻ và Marx ít khoa học hơn. Không phải là một nhà kinh tế lý thuyết có sức thuyết phục hay một nhà lãnh đạo chính trị uy tín, Marx trở thành một tiếng nói hiện thời cho sự công bằng xã hội mang tính nhân văn. Ông trở nên giống như Tom Joad trong tác phẩm Chùm nho uất hận của John Steinbeck:

Bao giờ con cũng có mặt trong bóng tối, khắp nơi. Khắp nơi nào mẹ nhìn. Khắp nơi nào mà có một cuộc đánh lộn để con người đói khát có thể giành giật nhau miếng ăn, nơi đó sẽ có con. Khắp nơi nào có một tên cảnh sát đang đánh đập một con người, sẽ có con.… nơi nào có tiếng kêu thét của những người đang nổi giận vì họ đói khát, con sẽ ở đấy … Và khi nào những người cùng cảnh với chúng ta đang ngồi trước bàn ăn có đủ những thứ họ trồng trọt và gặt hái khi nào họ ăn ở trong những ngôi nhà mà họ xây dựng ở đây, sẽ có con. Mẹ hiểu không, mẹ? 39

Đặt sự lạm dụng và tàn bạo dưới cái tên của Marx, đây có lẽ là chỗ tốt nhất dành cho ông ta.

Ghi chú

Chương VI
Karl Marx – nhà tiên tri giận dữ


1. David McLellan, Karl Marx: His Life and Thought (New York: Harper & Row, 1973), tr.4. Xem Karl Marx, “On the Jewish Question”, trong The Marx-Engels Reader (New York: W. W. Norton, 1978) do Robert C. Tucker biên soạn, tr.26-52; Gertrude Himmelfarb, “The Real Marx”, trong Commentary (tháng Tư năm 1985), tr.37-43 và “Letters” (tháng Tám năm 1985).

2. McLellan, tr.6-7.

3. Sđd, tr.33.

4. Robert Payne, Karl Marx (New York: Simon and Schuster, 1968), tr.77.

5. McLellan, tr.53.

6. Saul K. Padover, Karl Marx: An Intimate Biography (New York: McGraw-Hill, 1978), tr. 179.

7. McLellan, tr.99.

8. Karl Marx và Friedrich Engels, Collected Works (New York: International Publishers, 1982), tập 38, tr.115.

9. Karl Marx, “Introduction to A Critique of Hegel's Philosophy of Right”, trong K. Marx, The Early Texts, D. McLellan biên soạn (Oxford: Oxford University Press, 1971), tr.116.

10. Karl Marx, The German Ideology, do Tucker biên soạn, tr.155-56.

11. Karl Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, N. I. Stone dịch (Chicago: Charles Kerr, 1904), Lời tựa.

12. Karl Marx, The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte, do Tucker biên soạn, tr.595.

13. Karl Marx và Friedrich Engels, The Communist Manifesto, Samuel Beer biên soạn. (Arlington Heights: Harlan Davidson, 1955), tr.9.

14. Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, lời tựa.

15. Karl Marx, Capital, tập 1 (Chicago: Charles Kerr, 1906), tr.13.

16. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.13-14.

17. Sđd.

18. McLellan, tr.98.

19. Sandover, tr.291-293.

20. Payne, tr.295.

21. McLellan, tr.264, 357.

22. Sđd, tr.284.

23. Karl Marx, Capital, tập 1, tr.649, 652.

24. Sđd, tr.687.

25. Sđd, tr.836.

26. Sđd, tr.837.

27. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.46.

28. Marx, Capital, tập 1, tr.21.

29. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.31-32.

30. Marx, Capital, tập 1, tr.637.

31. Payne, tr.143.

32. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.22; Thomas Sowell, Marxism: Philosophy and Economics (New York: William Morrow, 1985), tr.138.

33. Vấn đề nghèo khổ tương đối là rất khó đánh giá. Thứ nhất, bởi vì có một khoảng cách về thu nhập giữa người giàu và người nghèo, thậm chí ngay cả khi người nghèo kiếm được thu nhập với tốc độ nhanh hơn, thì chênh lệch tuyệt đối về đồng đô la vẫn có thể tăng lên. Hãy so sánh một người là A khởi đầu với 10.000 đô la và kiếm thêm được 10% mỗi năm với người B khởi nghiệp với 100.000 đô la và chỉ kiếm được thêm 5% mỗi năm. Trong khoảng bảy năm, A kiếm được khoảng 20.000 đô la, trong B kiếm được hơn 140.000 đô la. Thứ hai, ở nước Mỹ, trải qua mỗi thế hệ lại có sự dao động lên xuống đáng kể. Một nghiên cứu quan trọng cho thấy rằng khoảng một phần ba số con cái có cha mẹ là những người giàu có trong nước nhận được thu nhập dưới mức trung bình của quốc gia. Hơn thế nữa, khoảng một phần ba số con cái có cha mẹ là những người nghèo nhất lại vươn lên và vượt mức trung bình của quốc gia. Xem Christopher Jencks và cộng sự, Inequality: A Reassessment of the Effect of Family and Schooling in America (New York: Basic Books, 1972), tr.209-216. Để tham khảo cách tiếp cận quốc tế đối với sự dao động, hãy xem W. W. Rostow, Why the Poor Get Richer and the Rich Slow Down (Austin: University of Texas Press, 1980). Chúng ta có thể tự tin mà nói rằng trong phần lớn thế kỷ XX, tất cả mọi tầng lớp xã hội ở Mỹ đều đạt được sự tiến bộ tuyệt đối. Mặc dù vậy, trong thời kỳ lạm phát đình đốn từ năm 1974 đến năm 1982, tất cả các tầng lớp xã hội đều bị suy giảm thu nhập. Người nghèo đặc biệt phải chịu đựng cả những gánh nặng kinh tế lẫn tâm lý khi số các hộ gia đình mà phụ nữ làm chủ hộ tăng vọt lên khoảng 40%. Trong thời kỳ giữa và cuối thập kỷ 1980, nước Mỹ lại đạt được và vượt mức bình ổn của năm 1973.

34. John Rawls, A Theory of Justice (Cambridge: Harvard University Press, 1971).

35. John Maynard Keynes, The Collected Writings of John Maynard Keynes, tập 28 (London and New York: Macmillan/St. Martin's Press, 1973), tr.38, 42.

36. Xem Stephen A. Marglin, “Radical Macroeconomics” (Cambridge: Harvard Institute of Economics Research, 1982), Discussion Paper số 902, tr.1-26.

37. Xem Robert Conquest, The Harvest of Sorrow (New York: Oxford University Press, 1987).

38. David S. G. Goodman, Deng Xiaoping and the Chinese Revolution: A Political Biography (London: Routledge, 1994), tr.3.

39. John Steinbeck, The Grapes of Wrath (New York: Penguin Books, 1986), tr.537.



Bản PDF

Bản PRC - dùng Mobipocket reader đọc trên mobile, PDA rất tiện

Bổ sung thêm bản đọc online ở
đây

.

.

.

No comments:

Post a Comment