Tuesday, March 30, 2010

SUY TÍNH CỦA MỸ TRƯỚC SỰ GIA TĂNG ẢNH HƯỞNG CỦA TQ TẠI ĐNA

Suy tính của Mỹ trước sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại Đông Nam Á

Thứ hai, 29 Tháng 3 2010 13:35

http://nghiencuubiendong.vn/quan-h-quc-t/836-suy-tinh-ca-m-trc-s-gia-tng-nh-hng-ca-trung-quc-ti-ong-nam-a

Nhà báo Peter. J. Brown đã có bài viết về suy tính của Mỹ đối với sự hiện diện của Trung Quốc tại Đông Nam Á với nhan đề “Mỹ suy tính về sự trỗi dậy của Trung Quốc tại Đông Nam Á” đăng trên mạng Asia Times tháng 3/2010. Sau đây là nội dung bài báo.

Cuối tháng trước, Ủy ban Nghiên cứu Kinh tế và An ninh Mỹ-Trung (USCC) đã tổ chức một buổi điều trần dài về các hoạt động của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á và tác động đối với lợi ích của Mỹ trong khu vực chiến lược này. Có năm nghị sĩ, hai quan chức cấp cao của Chính phủ Mỹ và 10 chuyên gia tới USCC để điều trần vào lúc Mỹ hứa hẹn sẽ tập trung vào quan hệ ngoại giao ở khu vực Đông Nam Á.

Ủy viên USCC, ông Larry Wortzel nhấn mạnh về những ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc gia tăng trong khu vực và lưu ý rằng Bắc Kinh tài trợ nhiều dự án khai thác tài nguyên với mục tiêu tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế của Trung Quốc. Học giả này cũng cho biết rằng Bắc Kinh cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp để tài trợ cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt ở Mianma, Lào và Campuchia.

Ngoài những thoả thuận kinh tế của Trung Quốc trong khu vực, học giả Wortzel còn chú trọng tới sự mở rộng ảnh hưởng gần đây về an ninh tại Đông Nam Á của Trung Quốc, bao gồm cả việc bán vũ khí và tập trận chung. Ông Wortzel cho biết: “Các cuộc viếng thăm quân sự cấp cao giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á gia tăng, trong đó có cuộc viếng thăm của các tàu hải quân Trung Quốc tại khu vực này”.

Buổi điều trần diễn ra ngay sau chuyến đi của các thành viên của USCC tới Đài Loan và Việt Nam vào cuối tháng 12/2009 và đã thảo luận về sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Tại Việt Nam, Ủy ban Nghiên cứu Kinh tế An ninh Mỹ-Trung thường xuyên được lưu ý rằng Hà Nội ngày càng lo lắng hơn về việc Trung Quốc gia tăng đòi hỏi chủ quyền của họ trên Biển Đông, nơi mà nhiều nước trong khu vực có những tuyên bố chủ quyền chồng lấn.

Học giả Wortzel cảnh báo: “Khi hải quân Trung Quốc cải thiện sức mạnh, có thể có cả hạm đội tàu sân bay trong tương lai không xa, cán cân quyền lực trong khu vực sẽ nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Đã có một số quốc gia bắt đầu có phản ứng, đó là việc công bố kế hoạch gần đây của Việt Nam mua 6 tàu ngầm hiện đại và 12 máy bay chiến đấu của Nga. Sự xuất hiện của dầu hỏa và khí đốt trong khu vực chỉ làm trầm trọng thêm tình hình”.

Nghị sỹ Mỹ Dana Rohrabacher, thành viên của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, đã thẳng thắn chỉ trích ảnh hưởng đang gia tăng của Trung Quốc trong khu vực. Nghị sỹ này đã đề cập tới Trung Quốc như “một quốc gia chuyên chế đang tìm cách trở thành một đế chế độc tài, lan rộng ảnh hưởng và sự thống trị lên khắp khu vực, đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Á”.

Nghị sỹ Rohrabacher cho biết tại châu Á, có lẽ mối quan hệ thân thiện nhất mà Trung Quốc có là mối quan hệ với chế độ cầm quyền Mianma. Theo Rohrabacher, Trung Quốc đã trang bị vũ khí cho Chính quyền Mianma tới tận chân răng và đổi lại là quyền được khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú tại nơi đây.

Giáo sư thỉnh giảng tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, Ellen Frost cho biết, chính phủ các nước Đông Nam Á đang cảnh giác về vấn đề gia tăng quân sự của Trung Quốc. Sau khi được trấn an về các động thái gần đây của Trung Quốc, một số nước vẫn không rõ mục đích cuối cùng của Trung Quốc là gì.

Ellen Frost cho hay: “Các nhà lãnh đạo lớn tuổi hơn nhớ lại thời kỳ Trung Quốc tích cực hỗ trợ các thành phần nổi loạn ở đất nước họ. Thay vì tìm cách lập liên minh chống Trung Quốc, những người có kinh nghiệm điều hành chính phủ ở khu vực Đông Nam Á đã lựa chọn việc đưa Trung Quốc vào các tổ chức mà vị trí và chương trình nghị sự nằm trong sự kiểm soát của họ”.

Theo Giáo sư Frost, “Họ tính toán rằng đưa Trung Quốc vào rất nhiều thoả thuận và các ủy ban, sẽ khuyến khích thái độ hòa bình và hợp tác, giúp ổn định khu vực. Nhưng để được an toàn, nhiều chính phủ ASEAN đang tái khẳng định hoặc tăng cường quan hệ quân sự với Mỹ”.

Giáo sư Frost lập luận: “Giới lãnh đạo ASEAN tìm cách gia tăng tối đa tiếng nói tập thể trong khu vực và rộng hơn trên thế giới. Họ tính toán rằng để cho Trung Quốc giữ vai trò lãnh đạo ở các tổ chức trong khu vực càng làm cho các cường quốc khác chú ý hơn tới khu vực và tham gia các họat động hợp tác với các nước ASEAN và thậm chí sẽ có các điều khoản hấp dẫn hơn để thương lượng”.

Theo Phó trợ lý Bộ Ngoại giao Mỹ về vấn đề Đông Á-Thái Bình Dương, David Shear, rõ ràng là cả Trung Quốc và các nước ASEAN đều thấy hai bên cùng có lợi trong việc mở rộng thương mại và quan hệ kinh tế của Trung Quốc trong khu vực có khả năng sẽ phát triển hơn nữa khi gia nhập Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc-ASEAN (CAFTA), có hiệu lực vào đầu năm 2010.

Ông Shear cũng lưu ý, có những lo ngại rằng cạnh tranh bằng hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc có thể ảnh hưởng không tốt đến ngành công nghiệp tại các quốc gia Đông Nam Á. Inđônêxia đã kêu gọi xem xét lại thoả thuận liên quan tới những mối quan ngại đó.

Ông Shear nhận định, trong khi Đông Nam Á nhận ra nhiều cơ hội lớn ở Trung Quốc, họ vẫn thấy các mối quan hệ kinh tế với Mỹ và những nước khác là cần thiết.

Trong năm 2008, doanh số thương mại của Trung Quốc với các nước trong khu vực là 193 tỉ USD, trong khi con số này năm 2001 chỉ là 45,5 tỉ USD. Trong khi đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào khu vực vẫn thấp so với Mỹ và Nhật Bản, nhưng viện trợ trực tiếp của Trung Quốc thì lớn hơn nhiều.

Theo Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan, Trung Quốc đã chi 10 tỉ USD để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải thiện đường bộ, đường sắt, đường hàng không và các đường viễn thông nối liền giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Bắc Kinh cũng đã bỏ ra 15 tỉ USD để cho vay nhằm thúc đẩy sự liên kết và hội nhập trong khu vực.

Ngoại giao Trung Quốc, thường được gọi là “quyền lực mềm”, cũng đã nhấn mạnh tới các mối liên hệ văn hóa. Ví dụ như, khoảng 10.000 sinh viên Thái Lan hiện đang du học tại Trung Quốc (số sinh viên này nhiều hơn tại Mỹ). Ông Shear lưu ý rằng Trung Quốc đã mở Viện Khổng Tử đầu tiên tại châu Á vào năm 2004 và hiện nay có tới 70 viện trên khắp châu Á và 282 viện trên toàn cầu. Riêng tại Thái Lan, có tới 12 viện, và gần đây Trung Quốc đã mở một viện đầu tiên tại Campuchia.

Để cạnh tranh gây ảnh hưởng tại khu vực này cần có làn sóng phát thanh. Trong khi Mỹ từ lâu đã hỗ trợ cho Đài châu Á Tự do và Đài Tiếng nói Hoa Kỳ với các chương trình phát thanh trong khu vực, Trung Quốc đã lập Đài phát thanh Hữu nghị Trung Quốc-Campuchia hồi tháng 12/2008. Theo ông David Shear, tác động thực sự từ các nỗ lực của Trung Quốc lên nhận thức trong khu vực và sự nhạy cảm đối với lợi ích của Trung Quốc vẫn là mối quan tâm của Mỹ.

Ông David Shear tuyên bố Mỹ sẽ tăng cường hơn nữa sự hiện diện của họ tại đây. Ông cũng thừa nhận rằng các Tổng thống Mỹ trước đó đã bỏ lỡ các hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, các Ngoại trưởng đã bỏ qua các cuộc họp ở Diễn đàn Khu vực ASEAN và các quan chức cấp cao của Mỹ đã không dành đủ thời gian cho các mối quan hệ song phương trong khu vực.

Ông David Shear nhấn mạnh rằng thông điệp của Chính phủ Obama để giải quyết vấn đề này thật đơn giản: “Chúng ta quay trở lại và sẵn sàng tham gia tích cực”. Ông cũng tiết lộ, Oasinhtơn dự tính chỉ định một Đại sứ Mỹ ở Giacácta làm Đại sứ tại ASEAN và bắt đầu tham vấn về việc làm cách nào Mỹ có thể đóng vai trò quan trọng trong Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.

Ernest Bower, Cố vấn cấp cao và là Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế có trụ sở tại Oasinhtơn, nhấn mạnh rằng Đông Nam Á mong muốn và cần Mỹ tham gia nhiều hơn và thể hiện rõ chiến lược nâng cao lợi ích của họ trong khu vực. Chỉ khi đó, mong muốn về cân bằng quyền lực lâu dài ở Đông Nam Á mới được hiện thực hóa.

Ông Bower cho rằng Đông Nam Á không xem Trung Quốc là một “mối quan ngại về an ninh ở phương Bắc”, mà là “một nước láng giềng tham gia và quan tâm đến việc cung cấp những lợi ích đáng kể về thương mại, viện trợ, du lịch và hứa hẹn gia tăng đầu tư và thúc đẩy sự thịnh vượng. Ông Bower cũng cho hay Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các sinh viên Đông Nam Á đến và học tập ở Trung Quốc, cung cấp các suất học bổng ở các cấp, kể cả cho các học viên và nghiên cứu sinh lấy bằng thạc sĩ và tiến sĩ. Chính sách của Trung Quốc hướng tới Đông Nam Á trong 15 năm qua đã chuyển đổi từ tư tưởng đến cơ hội và thực dụng. Học giả Bower kết luận, có lẽ sự khác biệt quan trọng nhất giữa Trung Quốc và Mỹ tại khu vực Đông Nam Á là Trung Quốc có một chiến lược rõ ràng trong khu vực, còn Mỹ thì không.

Ông Walter Lohman, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu châu Á tại The Heritage Foundation ở Oasinhtơn, nhận định về sự khác biệt quan trọng giữa chiến lược ngoại giao của Mỹ và Trung Quốc trong khu vực như sau: “Trung Quốc có cách tiếp cận mà chúng ta không làm. Dĩ nhiên, quan chức Mỹ có trách nhiệm với người dân Mỹ theo cách mà Trung Quốc không làm đối với người dân của họ. Chúng ta không thể lập các hiệp định thương mại theo cách chỉ chọn người thắng và kẻ bại bằng chính sách ngoại giao hoặc công nghiệp bắt buộc. Người Trung Quốc cũng gần hơn và gửi nhiều nhà ngoại giao tới ASEAN. Chúng ta có thể làm tốt hơn là chúng ta bảo vệ ASEAN, nhưng chúng ta không thể làm giống hệt như cách người Trung Quốc làm, ngoại giao giống như ngoại giao của họ, diễn đàn như diễn đàn của họ”. Ông Lohman cho biết thêm, Mỹ nên sử dụng chính sách “đòn bẩy”. Theo Lohman, nếu Trung Quốc muốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng của ASEAN, Mỹ cần có các mối quan hệ trong khu vực để giúp ASEAN quyết định điều gì là quan trọng đối với họ và lên tiếng về những điều mà họ quan tâm. Nếu các công ty đa quốc gia của Trung Quốc muốn đầu tư vào ASEAN, thì Mỹ cần làm sao để họ tuân theo các tiêu chuẩn thân thiện của Mỹ và đưa họ hội nhập vào các chuỗi cung ứng của Oasinhtơn.

Trợ lý giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Georgetown, Catharin Dalpino đề cập tới chiến lược chia nhỏ khu vực của Bắc Kinh và vai trò của Trung Quốc ở khu vực đất liền Đông Nam Á ngày càng khác xa với mối quan hệ của họ ở trên vùng biển thuộc Đông Nam Á như thế nào.

Bà Dalpino nói: “Chắc chắn là mức độ khác nhau nhưng sự khác biệt đáng kể trong chính sách của Trung Quốc về việc chia đôi khu vực là Trung Quốc tập trung hơn trong việc xâm nhập khu vực đất liền để tạo ra một sự chia rẽ không chính thức. Sự phát triển trong khu vực đất liền ở Đông Nam Á đã không phát triển riêng lẻ, mà nó đã được tạo ra do sự thiếu đồng bộ trong chính sách của Mỹ về hai khu vực này trong nhiều năm và sự thờ ơ của Oasinhtơn đối với khu vực đất liền ở Đông Nam Á”. Bà Dalpino cũng lưu ý, chẳng hạn như “liên minh với Thái Lan đã tự động phát triển trong nhiều năm”.

Ông Bronson Percival, Cố vấn cấp cao Trung tâm Nghiên cứu chiến lược thuộc Trung tâm Phân tích Hải quân tại Virginia, đã tranh luận rằng “Mỹ là lực lượng cân bằng trong khu vực Đông Nam Á” và luôn nhấn mạnh rằng “mục đích không phải là Mỹ đối đầu với Trung Quốc ở Đông Nam Á”.

Hơn nữa, Chính phủ Obama giờ đây đã thay đổi được tư tưởng chống Mỹ phổ biến dưới thời George. W. Bush và sự thờ ơ của Mỹ qua việc ký kết Hiệp định Thân thiện và Hợp tác với ASEAN. Mỹ cũng đã xây dựng được các mối quan hệ quân sự đặc biệt ở vùng biển thuộc Đông Nam Á. Ông Percival cũng kêu gọi Mỹ thay đổi sự tập trung vào Đông Nam Á từ các vấn đề nhân đạo như Mianma đến các vấn đề an ninh quan trọng như Biển Đông. Bronson Percival kết luận, chúng ta không biết liệu Bắc Kinh có đưa ra “chủ nghĩa đế quốc gặm nhấm” ở Biển Đông hay không, nhưng chúng ta cần ngăn chặn sự thống trị của Trung Quốc ở vùng biển này, giữ quyền tự do đi lại cho các lực lượng vũ trang của Mỹ và cung cấp nguồn năng lượng là rất quan trọng đối với liên minh của Mỹ tại vùng Đông Bắc Á và thật ra là để duy trì đầy đủ ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Đông Á./.

.

.

.

No comments:

Post a Comment