Sunday, March 21, 2010

GIẢI CỨU QUỐC GIA VỠ NỢ (Nguyễn Quang A)

Giải cứu quốc gia vỡ nợ

Nguyễn Quang A (*)

Đăng bởi anhbasam on 21/03/2010

http://anhbasam.com/2010/03/21/513-gi%e1%ba%a3i-c%e1%bb%a9u-qu%e1%bb%91c-gia-v%e1%bb%a1-n%e1%bb%a3/

Một công ty không trả được nợ khi đến hạn, sẽ lâm vào trạng thái vỡ nợ. Một quốc gia cũng vậy. Iceland năm ngoái đã rơi vào tình trạng đó, năm nay Hy Lạp đang đứng trước nguy cơ vỡ nợ.

Một công ty có nguy cơ vỡ nợ nếu không được các chủ nợ, hay các bên thứ ba cứu trợ, thì có thể bị phá sản, phải thanh lý mọi tài sản để trả nợ và bị xóa sổ.

Một quốc gia khó có thể bị xóa sổ, nhưng nguy cơ phải bán tài sản, tô nhượng đất đai hầm mỏ để trả nợ là cao, hay việc các thế hệ tương lai phải còng lưng ra làm việc, chắt bóp chi tiêu để trả nợ là chuyện đương nhiên.

Chính phủ Hy Lạp đã phải đưa ra các chính sách tăng thuế, cắt giảm chi tiêu để có khả năng trả lãi và một phần gốc của món nợ quốc gia hơn 400 tỷ euro. Người dân xuống đường biểu tình chống lại chính sách tăng thuế và cắt giảm phúc lợi.

16 Bộ trưởng tài chính các nước vùng euro dường như đã thống nhất kế hoạch giải cứu Hy Lạp trong cuộc họp tại Brussels ngày 15-3 vừa qua, tuy kế hoạch chi tiết chưa được tiết lộ.

Tại sao một quốc gia có thể lâm vào tình trạng vỡ nợ?

Cũng đơn giản như một hộ gia đình, hay một công ty, chính phủ phải chi tiêu (nuôi quan chức, quân đội, công an, đầu tư phát triển,…) Cân đối với các khoản chi, chính phủ có các khoản thu, nếu thu không đủ chi thì phải đi vay trong hay ngoài nước, còn dùng máy in tiền để chi sẽ gây ra lạm phát khôn lường (thực sự là một loại thuế trá hình đánh vào tất cả mọi người dân).

Nguồn thu nội địa của chính phủ là thuế, phí, bán tài nguyên (thí dụ, dầu, than đá), các khoản khác, và các khoản vay trong nước (bán trái phiếu, tín phiếu).

Các khoản thu từ nước ngoài gồm tiền viện trợ không hoàn lại (thường không đáng kể) và các khoản vay nước ngoài (ODA hay vay thương mại, thí dụ phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế như Việt Nam đã phát hành 1 tỷ USD trong thời gian vừa qua).

Nếu sử dụng các khoản vay không hiệu quả, tham nhũng gây thất thoát và thu không nghiêm (trốn thuế) hay thu không đủ, thì nợ nần có thể chồng chất và rất dễ lâm vào tình trạng vỡ nợ.

Báo chí nêu Hy Lạp vỡ nợ vì tham nhũng và trốn thuế. Xếp hạng tín dụng của Hy Lạp từ mức (A -) đã bị hạ xuống (BBB+) mức thấp nhất trong các nước Châu Âu. Xếp hạng tín dụng thấp càng gây khó khăn cho việc vay mới (khó có thể vay hay phải vay với lãi suất cao).

Việt Nam có lẽ cũng phải nghiêm túc học các bài học đau xót này của Iceland và Hy Lạp, tuy trước mắt tình hình của chúng ta khả quan hơn nhiều do các khoản vay (ODA) dài hạn, lãi suất thấp và tổng dư nợ chưa quá cao. Tuy nhiên mức tăng dư nợ và hiệu quả sử dụng có thể gây lo ngại.

Mức xếp hạng tín dụng của Việt Nam vừa bị Fitch (**) hạ xuống một bậc (xuống mức BB-). Thâm hụt ngân sách của Việt Nam liên tục ở mức cao suốt nhiều năm trời. Các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ tăng nhanh, tuy được nhà chức trách thông báo vẫn ở mức an toàn (mức dưới 40% GDP được gọi là mức an toàn).

Theo Bộ Tài chính, ở thời điểm 30-6-2009 nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 29,8 % GDP (23,6 tỷ USD). Sau tháng 6-2009 Việt Nam đã ký thỏa thuận vay và bảo lãnh có giá trị tổng cộng gần 4,5 tỷ USD (1,205 tỷ USD với Ngân hàng Phát triển Châu Á, ADB; 927 triệu USD với Ngân hàng Thế giới; 1,33 tỷ USD với Nhật Bản; và đã phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế) đó là chưa kể khoản vay 290 triệu USD Nhật Bản vừa ký cho Việt Nam vay giữa tháng 3 này. Nếu giải ngân hết các khoản này thì nợ nước ngoài của Việt Nam có thể tăng lên khoảng 35% GDP. Chưa rõ nợ trong nước của Chính phủ là bao nhiêu. Nhiều người cho rằng nợ công (trong và ngoài nước) của nhà nước Việt Nam đã vượt quá 50% GDP.

Điều đáng lo ngại là hiệu quả chi tiêu, hiệu quả đầu tư không cao, nạn tham nhũng tràn lan và nạn “khát đầu tư” của các cơ quan nhà nước vẫn không hề dịu đi, và vì thế nợ có thể tăng nhanh nếu không được kiểm soát chặt.

Nào là các dự án bauxite, đường sắt cao tốc mà Quốc hội chắc sẽ bàn, điện hạt nhân, và bao nhiêu siêu dự án khác.

Rồi Bộ Tài chính vừa có Quyết định về việc bổ sung vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) với số tiền trên 10.200 tỷ đồng… vân vân và vân vân.

Tất cả các siêu dự án đó và việc chi cấp vốn cho các tập đoàn và các đại gia quốc doanh cần các khoản tiền khổng lồ.

Nhà nước trung ương vay, các tập đoàn vay và các địa phương cũng vay.

Thành phố Hồ Chí Minh vừa thành lập công ty đầu tư tài chính nhà nước (HFIC) để huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, phát hành trái phiếu, vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng; tiếp nhận các nguồn tài trợ, nhận ủy thác các nguồn vốn;…

Hà Nội cũng đang đề xuất để được vay nước ngoài hàng tỷ USD. Có lẽ Hà Nội cũng sẽ noi gương thành phố Hồ Chí Minh để lập ra công ty đầu tư tài chính của mình.

Không rõ các tỉnh thành khác ra sao.

Chưa nói đến chuyện các công ty đầu tư tài chính nhà nước này sẽ chèn ép các ngân hàng trong huy động vốn, tôi chỉ cảnh báo nếu không kiểm soát chặt thì các công ty đầu tư tài chính nhà nước địa phương và các tập đoàn có thể vay tràn lan để đầu tư tràn lan (với lãi suất cao hơn nhà nước trung ương vay) có thể đẩy đất nước lâm vào cảnh nợ nần và có thể có nguy cơ vỡ nợ trong tương lai, đẩy con cháu phải còng lưng trả nợ.

Nạn khát đầu tư là một căn bệnh của bất cứ nhà nước nào, nếu không được giám sát, kiểm soát một cách chặt chẽ. Có quá nhiều cám dỗ và quá nhiều lý do nghe rất “chính đáng” cho việc vay nợ và chi tiêu, song hãy đừng đổ gánh nặng lên các thế hệ tương lai.

Phải xác định thật rõ các việc nhà nước nhất quyết phải làm, phải đầu tư (nuôi quân đội, làm luật, ép thực thi luật, xây dựng hạ tầng,…), nhưng nhà nước đừng đi kinh doanh, đừng đầu tư kinh doanh.

Nếu vẫn còn mụ mẫm trong não trạng “chính phủ không dựa vào các tập đoàn thì dựa vào ai?” hay tập đoàn “khỏe” chính phủ “khỏe” thì khả năng đất nước đến ngày vỡ nợ là rất cao.

Các vị có chức có quyền hãy cẩn trọng.

* Bài viết đã được biên tập lại và đăng trên Tiền phong Chủ nhật, 21-3-2010. Bản ở đây là đầy đủ.

** Có rất nhiều tổ chức cung cấp chỉ số rủi ro tài chính và xếp hạng năng lực tài chính, trong đó chỉ số của Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch Ratings được tín nhiệm hơn cả (wikipedia).

.

.

.

No comments:

Post a Comment