Tuesday, February 2, 2010

ĐẠI NẠN TRUNG HOA THỜI HẬU THẾ CHIẾN

Đại nạn Trung Hoa thời hậu thế chiến
Trần Gia Phụng
02/02/2010 6:16 sáng
Chưa có phản hồi.
http://www.talawas.org/?p=15629

1. Chiến tranh bùng nổ

Năm 1945, Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản Đông Dương cướp chính quyền và thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945. Mười ngày sau, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 11-9-1945 tại Hà Nội, đưa ra nguyên tắc hoạt động căn bản là Đảng Cộng sản Đông Dương nắm độc quyền điều khiển mặt trận Việt Minh, và một mình thực hiện cách mạng
[1], nghĩa là một mình Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo nhà nước, mở đầu chế độ độc tài.
Để độc quyền lãnh đạo đất nước, Hồ Chí Minh, Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương thực hiện triệt để chủ trương tiêu diệt tiềm lực, giết tất cả những ai có khả năng tiềm ẩn mà không theo Việt Minh để tránh hậu hoạn. Vì vậy, các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc chống đối, không hợp tác với Việt Minh.
Khi quân đội Pháp nhờ quân đội Anh đưa trở lại Đông Dương, Pháp dần dần chiếm Nam Kỳ, tiến ra Trung và Bắc Kỳ. Pháp ký hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946 với Trung Hoa (do Quốc Dân Đảng cai trị), để Trung Hoa chịu giao Bắc Kỳ cho Pháp. Quân đội Pháp đổ bộ Hải Phòng ngày 3-6-1946.
Hồ Chí Minh nhượng bộ, ký kết thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946, theo đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật (điều 2). Điều nầy trái với “Lời thề” của Hồ Chí Minh khi tuyên bố thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trình diện chính phủ ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình. Nguyên văn lời thề đó như sau: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.”
[2] Các đảng phái theo chủ trương dân tộc và dân chúng rất chống đối hành động nầy của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh còn qua Paris ký Tạm ước (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 gồm 14 điều khoản, theo đó Việt Minh để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam, hai bên sẽ nghiên cứu về tương lai ngoại giao Việt Nam và vấn đề Nam Kỳ, cam kết hợp tác chấm dứt những vụ gây hấn, mở đường cho các cuộc thương thuyết năm sau.
Pháp thấy rõ chủ trương độc tài của Hồ Chí Minh, Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương làm cho chính họ bị cô lập và yếu thế vì không ai hợp tác với Việt Minh. Pháp liền từ từ đưa ra thêm nhiều đòi hỏi. Tại Hà Nội, ngày 18-12-1946, Pháp giao cho Việt Minh hai tối hậu thư. Tối hậu thư thứ nhất, Pháp đòi Việt Minh hủy bỏ chướng ngại vật ở Hà Nội. Tối hậu thư thứ hai, Pháp cho biết nếu Việt Minh không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ phụ trách an ninh kể từ 20-12-1946.
[3]
Nếu quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát cả lực lượng võ trang Việt Minh, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, lãnh đạo mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp. Đó là điều Việt Minh không thể chấp nhận được, nhưng không thể để Pháp bắt và cũng không thể âm thầm bỏ trốn khỏi Hà Nội. Vì vậy Hồ Chí Minh liền họp Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc (Hà Đông), quyết định phát động cuộc chiến chống Pháp trên toàn quốc.[4] Quyết định nầy nhằm tạo lý do chính đáng cho Hồ Chí Minh, lãnh đạo Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương thoát thân khỏi Hà Nội trong danh dự.
Có hai điểm đáng chú: 1) Khi cầm quyền, thì Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương độc tài, độc quyền chính trị, không chia sẻ quyền lực cho bất cứ ai. Khi bị đe dọa, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương lại kêu gọi dân chúng tiếp ứng, toàn dân kháng chiến. 2) Hồ Chí Minh không hỏi ý kiến quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của người Việt lúc đó, hay ban thường vụ quốc hội, đại diện cho quốc hội, gồm những người luôn luôn có mặt ở Hà Nội, mà chỉ hỏi ý kiến Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương để phát động chiến tranh. Thế là chiến tranh bùng nổ từ tối 19-12-1946, kéo dài cho đến hiệp định Genève (20-7-1954) mới tạm ngưng.

2. Sự phân công của cộng sản quốc tế


Chiến tranh 1946-1954 trên đất nước Việt Nam có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn Việt Minh thất thế (1946-1949) và giai đoạn Việt Minh phản công (1950-1954). Giữa hai giai đoạn nầy xảy ra hai biến cố làm thay đổi tính chất của cuộc chiến.

Thứ nhất, những người theo chủ nghĩa dân tộc, với lập trường tự do dân chủ, dần dần tách ra khỏi mặt trận Việt Minh, và quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, một người không đảng phái, đứng giữa các đảng phái, và là vị vua ai cũng biết tiếng tăm khi ông tự nguyện thoái vị, từ bỏ quyền lợi gia tộc, vì sự đoàn kết quốc gia. Sau những cuộc thương thuyết kéo dài, tổng thống Pháp và cựu hoàng Bảo Đại ký hiệp định Élysée ngày 8-3-1949 theo đó chính phủ Pháp chính thức giải kết hiệp ước bảo hộ 1884, trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Từ đó, chính thể Quốc gia Việt Nam được thành lập, đồng minh với Pháp. Như thế là trên đất nước Việt Nam có hai chính phủ là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quốc gia Việt Nam, theo hai chính thể khác nhau và chống đối nhau.
Thứ hai, tại Trung Hoa, Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công. Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) và chính phủ Quốc dân Đảng di tản ra Đài Loan. Ngày 1-10-1949, tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông (Mao Zedong) tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông trở thành chủ tịch đầu tiên của nhà nước cộng sản lớn nhất Á Châu. Hôm sau, ngày 2-10-1949, Liên Xô thừa nhận chế độ mới ở Trung Hoa.
Ngang đây, có một vấn đề cần lưu ý: Trên tấm hình Việt Minh đón rước cố vấn La Quý Ba (Luo Guibo) năm 1950, người ta vẫn còn thấy hai chữ “Trung Hoa”. Tuy nhiên sau nầy, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thường được gọi là Trung Quốc. Vì vậy, từ đây, bài viết xin gọi là “Trung Quốc” tức Trung Hoa cộng sản, để dễ phân biệt với Trung Hoa thời trước cộng sản.
Khi Việt Minh phát động cuộc chiến ngày 19-12-1946, Mao Trạch Đông đang chống Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, nên Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa giúp gì nhiều cho Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương. Đến tháng 7-1947, Đệ nhất Trung đoàn Quảng Tây của Đảng Cộng sản Trung Quốc lần đầu tiên tổ chức huấn luyện cho hơn 830 sĩ quan và hạ sĩ quan bộ đội Việt Minh.
[5]
Sau khi chế độ Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc được thành lập ngày 1-10-1949 thì vào năm đó, Hồ Chí Minh gởi hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh xin viện trợ. Lúc đó, Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai (Zhou Enlai) đang ở Moscow (từ 16-12-1949 đến 17-2-1950) để thương thuyết với Stalin. Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi), xử lý công việc Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, cử La Quý Ba, ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, làm đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc bên cạnh Đảng Cộng sản Đông Dương.[6] Ngay trong tháng 1-1950, La Quý Ba rời Bắc Kinh, qua Việt Nam.
Theo sự thỏa thuận giữa hai bên, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thừa nhận chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc ngày 15-1-1950. Ngay sau đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc công nhận trở lại chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 18-1-1950. Gần nửa tháng sau, Liên Xô thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh ngày 30-1-1950. Các nước cộng sản khác ở Đông Âu tiếp tục thừa nhận Việt Minh sau Liên Xô.
Ngày 30-1-1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh cầu viện. Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai vẫn còn ở Liên Xô. Lưu Thiếu Kỳ xử lý thường vụ, hứa sẽ đáp ứng những yêu cầu của Việt Minh, và sắp đặt cho Hồ Chí Minh tiếp tục qua Liên Xô ngày 3-2-1950.
Hồ Chí Minh đến Moscow tối 6-2-1950. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô mở tiệc chào mừng Hồ Chí Minh, nhưng lãnh tụ Liên Xô, Joseph Stalin không dự. Stalin chỉ tiếp Hồ Chí Minh tại văn phòng làm việc, với sự có mặt của của Malenkow, Molotow, Bulganin, và đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô, Vương Gia Tường. Stalin nói với Hồ Chí Minh:
“Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô hoàn toàn nên viện trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp của các đồng chí. Song, chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn… Trung Quốc ở sát Việt Nam, hiểu rõ tình hình Việt Nam hơn chúng tôi, kinh nghiệm đấu tranh của Trung Quốc càng có tác dụng làm gương đối với Việt Nam, giúp các đồng chí sẽ thuận tiện hơn.”
[7]
Ngày 14-2-1950, Joseph Stalin và Mao Trạch Đông ký Hiệp ước Hữu nghị, liên minh và hỗ tương Trung-Xô (Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance and mutual Assistance) gồm 6 điều khoản và giá trị trong 30 năm. Ngày 16-2, trong buổi tiệc khoản đãi Mao Trạch Đông trước khi phái đoàn Trung Quốc về nước, nhân lúc Stalin vui chuyện, Hồ Chí Minh đề nghị Stalin ký một hiệp ước với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như đã ký với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Sau đây là cuộc nói chuyện giữa Hồ Chí Minh và Stalin:
“Hồ Chí Minh lại nói: “Các đồng chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một hiệp ước.” Stalin nói: “Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi giải thích như thế nào?” Hồ Chí Minh nói: “Điều đó rất dễ, đồng chí cho chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao?” Stalin cười lớn: “Đó quả là sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh”. Rất nhiều người dư tiệc cũng đều cười vang lên.”
[8]
Ngày 17-2-1950 (mồng 1 Tết canh dần), Hồ Chí Minh cùng Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai rời Moscow, trở về Bắc Kinh. Trên đường đi, một hôm “đi đến toa xe của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh nói ngay bằng tiếng Trung Quốc: “Mao chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay trở về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.”[9]
Tại Bắc Kinh, một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc được ký kết, theo đó hai bên hợp tác để tiễu trừ thổ phỉ (ám chỉ Quốc Dân Đảng Trung Hoa và biệt kích Pháp).[10] Hiệp ước nầy cho thấy rõ chủ đích phòng thủ biên giới của Đảng Cộng sản Trung Quốc khi viện trợ cho Việt Minh. Hồ Chí Minh chỉ định Hoàng Văn Hoan làm đại diện Đảng Cộng sản Đông Dương và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Bắc Kinh.
Như thế là rõ ràng lúc đó Liên Xô phân công việc viện trợ Việt Nam cho Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Hồ Chí Minh chỉ còn trông cậy vào sự giúp đỡ của Trung Quốc.

3. Nghĩa vụ quốc tế hay đầu tư dài hạn?


Từ khi Hồ Chí Minh sang cầu viện, Trung Quốc viện trợ tối đa không điều kiện cho Việt Minh, về tất cả các mặt kinh tế, võ khí, quân nhu, quân dụng, nhân sự (cố vấn) và cả văn hóa Mác-xít. Theo các tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chế độ cộng sản Trung Quốc mới thành lập ngày 1-10-1949, đang còn khó khăn, chưa được các nước Tây phương thừa nhận, nhưng vì tinh thần và nghĩa vụ quốc tế vô sản, Trung Quốc đã hào phóng viện trợ vô điều kiện cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
[11]
Đúng là Trung Quốc chưa được các nước Tây phương thừa nhận, nhưng lại sẵn sàng thừa nhận và viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không điều kiện, không phải là hoàn toàn vô vị lợi, vì các lẽ: 1) Trung Quốc dùng cộng sản Việt Nam để bảo vệ biên giới phía nam của Trung Quốc; 2) Trung Quốc giúp cộng sản Việt Nam chống Pháp nhằm tấn công vào thành trì các nước trong khối tư bản, kẻ thù của khối cộng sản trong thế chiến tranh lạnh lúc bấy giờ; 3) Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng và đầu tư chính trị dài hạn nhằm tạo thế lực quốc tế.

Trước hết, trong một cuộc họp trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 11-1950, Mao Trạch Đông công khai xác nhận: “Còn Việt Nam đánh bại bọn xâm lược thực dân Pháp, đuổi chúng ra khỏi Việt Nam, biên cương phía Nam của Trung Quốc cũng giải tỏa khỏi mối đe dọa của bọn xâm lược thực dân Pháp, đó lại là Việt Nam giúp Trung Quốc. Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc là sự giúp đỡ lẫn nhau.”
[12]
Thứ đến, các loại võ khí mà Đảng Cộng sản Trung Quốc viện trợ cho Việt Minh là những võ khí Đảng Cộng sản Trung Quốc tịch thu được của quân đội Tưởng Giới Thạch khi đạo quân nầy rã ngũ, bỏ chạy ra Đài Loan. Đạo quân của Tưởng Giới Thạch được Hoa Kỳ trang bị và là một đạo quân khá lớn, nên võ khí dư để trang bị lại cho bộ đội Việt Minh, Đảng Cộng sản Trung Quốc không tốn gì nhiều.
Sau chuyến đi cầu viện của Hồ Chí Minh vào đầu năm 1950, từ tháng 4 đến tháng 9-1950, Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc gởi qua viện trợ cho Việt Minh như sau: 14,000 súng lục và súng trường, 1,700 súng liên thanh và súng không giựt, 150 súng cối, 60 đại pháo, 300 ba-dô-ka (bazooka), cùng với trang thiết bị quân sự, thuốc men, dụng cụ truyền tin, áo quần và 2,800 tấn thực phẩm. (Qiang Zhai, sđd. tr. 20.) Một thống kê khác cho thấy từ năm 1951, trung bình Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc gởi giúp Việt Minh từ 10 đến 20 tấn vũ khí và trang thiết bị quân sự. Số lượng nầy tăng lên khoảng 500 đến 600 tấn từ cuối năm 1953.
[13]
Ngoài những viện trợ vật chất như viện trợ kinh tế, quân nhu, võ khí, nhằm giúp Việt Minh chiến thắng Quốc gia Việt Nam và Pháp, Trung Quốc còn viện trợ cố vấn, viện trợ lý thuyết, đưa đến những tác động đặc biệt ảnh hưởng lâu dài đến Việt Nam.
Trong số cố vấn do Trung Quốc gởi sang Việt Nam, ba nhân vật đặc biệt là La Quý Ba, Trần Canh (Chen Geng) và Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing). La Quý Ba có mặt trong chiến khu của Việt Minh từ đầu năm 1950. Trần Canh và Vi Quốc Thanh đến Việt Nam gần như đồng thời vào tháng 7 và tháng 8-1950.
Đại tướng Trần Canh, do Hồ Chí Minh yêu cầu đích danh với Mao Trạch Đông mời sang làm cố vấn quân sự cho trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, chuẩn bị chiến dịch biên giới. Trần Canh là người đề nghị cải tổ quân đội Việt Minh, vận dụng thêm phụ nữ vào công việc chiến đấu. [Từ sau ý kiến của Trần Canh, xuất hiện nữ dân công trên các chiến trường Việt Nam.] Trần Canh là người chỉ huy trận Đồng Khê, ở phía đông nam Cao Bằng, phía bắc Thất Khê, một chiến thắng lớn của Việt Minh ngày 18-9-1950. Cũng nhờ Trần Canh thi hành kế hoạch “công đồn đả viện”, Việt Minh phục kích và bắt được 4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan, trong đó có hai sĩ quan cấp trung tá trong các ngày 8 và 10-10-1950 ở hai địa điểm gần Cao Bằng.
Các trận nầy là thất bại nặng nề đầu tiên của Pháp kể từ khi chiến tranh bắt đầu năm 1946. Ngoài số thương vong và thất thoát võ khí trên đất, lần đầu tiên 15 chiến đấu cơ của Pháp bị súng cao xạ của Việt Minh do cộng sản Trung Quốc viện trợ, bắn hạ. Đây cũng là các trận thắng lớn đầu tiên của Việt Minh, cô lập Cao Bằng, cắt đứt tỉnh lộ số 4, nối Cao Bằng với Lạng Sơn. Nhờ thế tinh thần bộ đội Việt Minh lên rất cao.
Sau trận nầy, quân ủy trung ương Trung Quốc rút Trần Canh về Bắc Kinh tháng 11-1950 để đưa Trần Canh sang Bắc Cao Ly (Bắc Hàn) cầm quân từ tháng 6-1951. Nhân vật thứ ba đáng chú ý là đại tướng Vi Quốc Thanh, trưởng phái bộ cố vấn quân sự Trung Quốc. Phái bộ nầy được thành lập từ cuối tháng 7-1950, lúc đầu gồm 281 người (trong đó có 79 cố vấn và 202 tùy viên). Vi Quốc Thanh có hai phụ tá là Mai Gia Sinh (Mei Jiasheng) và Đặng Dật Phàm (Deng Yifan). Trong thời gian làm cố vấn quân sự, chắc chắn các tướng lãnh và sĩ quan Trung Quốc trong phái bộ cố vấn quân sự Trung Quốc còn nghiên cứu địa hình, địa vật khắp các nơi để báo cho quân ủy trung ương Trung Quốc làm tài liệu khi cần đến.
Theo lệnh của Stalin, ngày 11-2-1951 Hồ Chí Minh tổ chức Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 2, tái công khai đảng cộng sản dưới một tên mới là Đảng Lao động do Stalin đặt. Nhân dịp nầy, Hồ Chí Minh phát biểu: “Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin… lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.”
[14]
Theo cách của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tăng cường chức vụ chính ủy trong quân đội. Chính ủy nắm quyền quyết định trong tất cả các đơn vị quân sự, khẳng định vai trò điều khiển của đảng cộng sản trong quân đội. Ngoài việc huấn luyện về kỹ năng chiến đấu, Việt Minh thường xuyên tổ chức học tập chính trị cho binh sĩ. Đảng Lao động và hệ thống chính ủy gìn giữ bộ đội Việt Minh thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới. Tất cả các chương trình, kế hoạch, mệnh lệnh hành quân ở tất cả các cấp bậc đều được học tập kỹ càng và thi hành nghiêm chỉnh.
Cũng học tập từ Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Lao động Việt Nam liên tục tổ chức kiểm điểm, thanh lọc hàng ngũ, loại bỏ những thành phần trí thức, phú thương, địa chủ, hào lý (trí, phú, địa, hào), kể cả những người theo Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1945. Những ai bị nghi ngờ thiếu trung kiên với đảng và những kẻ phản đảng liền bị thanh trừng. Nếu đảng viên lệch đường sẽ bị guồng máy nghiền nát. Một khi đã tuyên thệ vào đảng, đảng viên rất khó thoát ra. Tất cả những quyết định, tranh luận, tranh chấp chỉ diễn ra trong nội bộ lãnh đạo Đảng Lao động, tuyệt đối bí mật, không tiết lộ ra ngoài. Nếu ai vi phạm sẽ bị trừng phạt. Hệ thống Đảng Lao động biến đảng viên thành công cụ của một guồng máy vận hành theo đúng quy luật đảng, chỉ biết vâng lời mà không biết suy nghĩ, không còn tự do cá nhân.

Kết luận


Đại nạn Trung Quốc lần nầy do một người Việt theo chủ nghĩa cộng sản Quốc tế rước về, chống lại thực dân Pháp, nói là giải phóng dân tộc. Đó là Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc… Khi được tin Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) dự tính qua Nga, theo Đệ tam Quốc tế, Phan Châu Trinh viết thư gởi Nguyễn Ái Quốc đề ngày 12-2-1922, cho rằng việc Nguyễn Ái Quốc theo Đệ tam Quốc tế để chống Pháp, “thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người cỡi mà thôi ”
[15] nghĩa là chẳng thay đổi gì cho dân tộc, mà chỉ thay thực dân Pháp bằng Đệ tam Quốc tế.
Trước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu đã từng qua Nhật năm 1906 để kiếm cách nhờ sự giúp đỡ của Nhật chống Pháp. Tuy nhiên, theo câu châm ngôn mà người cộng sản ưa nói: “Cùng đích biện minh cho phương tiện”. Cùng đích của Phan Bội Châu là phục vụ dân tộc, phục vụ đất nước. Trong khi cùng đích của Hồ Chí Minh là phục vụ đảng cộng sản và Đệ tam Quốc tế. Phan Bội Châu theo chủ nghĩa dân tộc, chứ không theo lý thuyết ngoại lai; Phan Bội Châu không lãnh tiền ngoại bang để hoạt động như Hồ Chí Minh; Phan Bội Châu không chấp nhận những điều kiện đi ngược lại quyền lợi dân tộc.
Trong hồi ký của mình, Phan Bội Châu kể rằng năm 1920, tại Bắc Kinh (Trung Hoa), ông muốn nhờ người Nga giúp đỡ, thì đại diện của Nga đưa ra điều kiện cho ông là phải chấp nhận “…tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông… ra sức làm những sự nghiệp cách mạng.” Phan Bội Châu đã kín đáo từ chối.
[16]
Hồ Chí Minh là một nhân viên tình báo do Liên Xô đào tạo, lãnh tiền của Đảng Cộng sản Liên Xô để hoạt động. Tệ hại hơn nữa, khi sinh sống tại Liên Xô, Hồ Chí Minh tận mắt mục kích hai trận đói khủng khiếp của dân chúng Liên Xô, giết hại hàng triệu người, do chính sách của cộng sản Liên Xô đưa đến. Biết được như thế, Hồ Chí Minh vẫn chấp nhận hoạt động tình báo cho Liên Xô. Theo lệnh của Đệ tam Quốc tế cộng sản do Liên Xô lãnh đạo, Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 6-1-1930 tại Hương Cảng.
Năm 1939, hoạt động ở Trung Hoa, Hồ Chí Minh cũng đã đọc tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông soạn thảo, theo đó Mao Trạch Đông cho rằng Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung Hoa. Thế mà năm 1950, Hồ Chí Minh năn nỉ Mao Trạch Đông viện trợ. “Cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay trở về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.” (dẫn ở trên). Nhờ Đảng Cộng sản Trung Quốc để đánh Pháp không khác gì nhờ kẻ cướp đuổi tên trộm. Kẻ cướp nầy ở ngay trước cửa sân. Tên trộm bỏ chạy thì kẻ cướp vào nhà dễ dàng.

Thế là Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thực hiện được giấc mộng mà các triều đại Trung Hoa xưa kia không làm được. Chiếm ải, lấn núi, giành biển, tràn xuống Tây nguyên. Người Việt Nam không mau tự cứu lấy mình, thì một hôm nào đó, buổi sáng thức giấc, thấy nước Việt bỗng nhiên trở thành một tỉnh của Trung Quốc…

© Trần Gia Phụng
© 2010 talawas

[1] Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam đe 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143. Điều 4 Hiến pháp 1992 theo đúng quyết định nầy.
[2] Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam [sách song ngữ Việt-Anh], Hà Nội: Nxb.Thông Tấn, 2005, tr. 26.
[3] Chính Đạo, Việt Nam niên biểu: 1939-1975 (Tập A: 1939-1946), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 370.
[4] Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.
[5] Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 12.
[6] -nt-, tt. 13, 15.
[7] Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, đăng trong Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính, bản in của tạp chí Truyền Thông, Montreal, số 32& 33, tr. 45.
[8] -nt-, tr. 46.
[9] -nt-, tr. 47.
[10] Bernard Fall, Le Viet-Minh, Paris: Max Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.
[11] La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, đăng trong Hồi ký những người trong cuộc…, sđd. tt. 21-22.
[12] -nt-, tr.27.
[13] Robert Manning chủ biên, The Vietnam Experience: Passing the Torch. Boston: Boston Publishing Company, 1981, tr. 47.
[14] Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, California: Nxb. Văn Nghệ [tái bản], 1995, tr. 151.
[15] Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, Amarillo TX: Nxb. Chuông Rè, 2000, tt. 39-40.
[16] Phan Bội Châu, Tự phán, hay Phan Bội Châu niên biểu, trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 6 của Chương Thâu. Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 272.




No comments:

Post a Comment