Wednesday, January 27, 2010

HÀ NỘI VỚI SÓNG GIÓ HOÀNG-TRƯỜNG SA

Viết cho ngày Hoàng Sa: Hà Nội với sóng gió Hoàng-Trường Sa
Phan Văn Song
Tháng Một 26, 2010
http://ledienduc.wordpress.com/2010/01/26/vi%e1%ba%bft-cho-ngay-hoang-sa-ha-n%e1%bb%99i-hom-nay-va-song-gio-hoang-tr%c6%b0%e1%bb%9dng-sa/
Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, trong lúc phải chiến tranh tự vệ chống xâm lược Cộng sản Quốc tế, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và toàn thể công dân, cán chánh của phần đất Việt Nam Tự Do lại phải đương đầu với hiểm họa ngoại xâm. Kẻ thù truyền kiếp lại một lần nữa, thừa nước đục thả câu, đánh chiếm và tấn công mảnh đất của Việt Nam muôn thuở: quần đảo Hoàng Sa.
Mặc dù thân cô thế yếu - từ tháng hai 1973, quân đội đồng minh chiến đấu giúp đỡ nhân dân miền Nam Việt Nam làm tiến đồn chống Nạn Cộng sản quốc tế đang mưu đồ nhuộm đỏ Đông dương và Đông Nam Á đã, một cách hèn hạ, bỏ rơi Việt Nam Tự Do, vì món lợi kinh tế Thị trường Trung Cộng – Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã không ngần ngại đưa Hải quân của mình ra chống trả.
Với truyền thống oai hùng của Đức Trần Hưng Đạo, hai lần dùng hải quân đánh bại quân Nguyên, các thủy thủ của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa hiên ngang đọ sức chống Hạm đội Trung Cộng xâm lược. Thật là châu chấu đá xe, bên ta một, bên kia mười. Hải quân Việt Nam Cộng Hòa vẫn đánh một trận để đời đi vào lịch sử với sự hy sinh của 74 thủy thủ.
Đây là một chiến công hiển hách. Chúng ta, những công dân Việt Nam Tự Do đời đời nhớ ơn 74 vị anh hùng của trận Hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974, đã bỏ mình giữ đảo giữ biển, giữ biên cương, tài sản của tổ tiên, quê cha đất tổ.

Ngày nay trong cuộc xâm chiếm mỗi ngày mỗi trắng trợn của Trung Cộng vào chủ quyền các quần đảo Việt Nam Hoàng Sa và Trường Sa, nhà đương quyền Cộng sản Hà Nội đang lúng túng gỡ gạc bằng những lời tuyên bố vu vơ.
Chắc họ cũng phải than thầm trách lén là sao lúc xưa, vào năm 1958, toàn Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu bằng Hồ Chí Minh đã quá ngu xuẩn sai Thủ tướng bù nhìn Phạm Văn Đồng ký công hàm xác nhận ủng hộ tuyên bố của Đảng Cộng Sản Tàu về chủ quyền ăn cướp lãnh thổ.
Tại sao, vào ngay những ngày đầu năm 1974 khi Hải quân Tàu đang xâm chiếm Hoàng Sa, đã quá ngu xuẩn và hèn nhát không dám trả lời lời kêu gọi của quân dân miền Nam Việt Nam, là hãy quên hận đi thù ý thức thức hệ, đã cùng là người Việt, đã cùng là dân tộc Việt, thì cùng nhau hợp lực chống Hán tộc xâm lược, chống Trung Cộng khi chúng đang xâm chiếm hải phận Việt Nam Cộng Hòa?
Thế nhưng, Việt Cộng lúc ấy thấy Việt Nam Cộng Hòa thân cô, sức yếu – Kissinger đã nghéo tay với Trung Cộng bán Việt Nam Cộng Hòa cho Cộng sản quốc tế rồi, và trước sau gì Hà Nội cũng được trả công là sẽ chiếm được miền Nam!
Hải quân Tàu đánh Hoàng Sa chiếm đất, là chiếm giùm đất của “ngụy”, “thà để Tàu chiếm còn hơn để ngụy giữ”. Cái ngu, cái dốt, làm mờ đi lòng yêu nước. Nhưng chỉ vì “Yêu Chủ nghĩa Cộng sản hơn yêu Tổ quốc”, “Đỏ hơn Việt” nên đã đưa đất nước ta đến bi kịch ngày nay.
Nhưng dân tộc Việt chúng ta có chính nghĩa. Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc đất nước bất phân ly của cha ông chúng ta để lại. Gia tài ấy bổn phận con cháu Việt Nam phải giữ. Chúng ta phải tranh đấu đủ mọi mặt, chứng minh chánh nghĩa của chúng ta để lấy lại chủ quyền của Hải đảo và Hải phận của chúng ta: pháp lý, lịch sử, quốc tế, v.v…

Lịch sử và Pháp lý chứng minh Chủ Quyền của Việt Nam
Từ thế kỷ 17, năm 1686, chúa Nguyễn Đàng Trong đã tổ chức một Hải Đội Hoàng Sa để thường xuyên tuần tiểu đảo Bãi Cát Vàng, tức Hoàng Sa, và triều đình nhà Nguyễn cũng đã vẽ bản đồ vùng đảo này để xác định vùng lãnh thổ của Việt Nam.
Sau khi thực dân Pháp đặt xong nền cai trị ở Việt Nam, năm 1885, nhà cầm quyền Pháp ký kết với nhà Mãn Thanh Hiệp Ước Thiên Tân, phân định biên giới bằng cột mốc. Hai năm sau, Pháp ký tiếp Hiệp Ước Brévié, phân ranh lãnh hải vùng vịnh Bắc Việt.
Từ đó, mọi tranh chấp vùng biển được Liên Hiệp Quốc (LHQ) giải quyết theo công ước về luật biển.
Đến thời Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, Hoàng Sa và Trường Sa vẫn thuộc lãnh thổ của Việt Nam.
Như vậy, từ thế kỷ 17, Hoàng Sa và Trường Sa liên tục thuộc chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam.
Về mặt pháp lý, chính quyền Việt Nam, và sau đó, chính quyền thuộc địa ở Việt Nam, luân phiên nhau hiện diện thường trực, với những tấm bia minh xác chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa này. Ngược lại, Bắc Kinh chỉ lên tiếng đòi chủ quyền chớ không có bằng cớ về sự có mặt trên hai đảo này.
Ngày 06/12/ 2007, Bắc Kinh, ngang nhiên phê chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm Hoàng Sa với Trường Sa, là đơn vị hành chánh cấp Huyện trực thuộc Tỉnh Hải Nam. Trước đây, năm 1988, Bắc Kinh đã từng ban hành nghị quyết cho đảo Hải Nam trở thành Tỉnh bao gồm luôn hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Hải Nam.
Trước hành động ngang ngược và trịch thượng này của Bắc Kinh, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Hà Nội dám có thái độ thích nghi không? Nếu có, thì phản ứng như thế nào?

Khi Bắc Kinh trịch thượng xác định chủ quyền
Qua ngày 09/12/2007, trước phản ứng tự phát, đồng loạt và quyết liệt của nhân dân Việt Nam, khởi đầu với giới thanh niên, sinh viên, chống lại hành động bá quyền của Bắc kinh xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam, thì nhà cầm quyền Trung Quốc thêm lần nữa, lên tiếng xác định “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung quốc đối với các quần đảo và vùng biển lân cận ở khu vực biển Nam Trung hoa”. Bắc Kinh còn ra lệnh cho Hà Nội phải có “biện pháp hiệu quả, ngăn chận những sự việc (tức các cuộc biểu tình của nhân dân Việt Nam) làm tổn hại đến quan hệ song phương”.
Tại sao Bắc Kinh dám ngang nhiên và trịch thượng xác định chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa, và cả vùng lãnh hải? Dám như vậy là bởi Hà Nội đã chính thức thừa nhận chủ quyền của họ. Năm 1958, Bắc Kinh vẽ bản đồ mới, tự quy định lãnh hải là 12 hải lý, thay vì 3 hải lý như trước đây, chắc chắn phải có sự chấp thuận của Chủ tịch đảng Hồ Chí Minh thì Phạm Văn Đồng mới dám gởi công hàm xác nhận chủ quyền của Bắc Kinh về lãnh hải, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngoài ra, trước đó, Ung văn Khiêm, một cán bộ cao cấp Đảng Cộng sản Việt Nam được Đảng bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng thừa nhận chủ quyền. Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW của Đảng CSVN cũng đã trâng tráo nói: “Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý ”!
Ôi đau thương! Ôi tủi nhục làm sao! Người Việt vỗ tay reo hò ngoại xâm dầy xéo đất nước!
Năm 1988, Trường Sa bất ngờ bị Tàu tấn công, chiếm giữ một vài đảo. Báo Sài Gòn Giải Phóng cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam ở miền Nam viết: “Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc chủ quyền Trung Quốc không có nghĩa là chủ quyền về lãnh thổ của ta bị mất, mà chỉ tạm thời do Trung Quốc cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em quản lý. Một ngày nào đó, chúng ta cần lấy lại, Trung Quốc sẽ hoàn trả cho ta”!
Ngu muội đến thế là cùng! Con đà điểu khi bị nguy hiểm chỉ biết cúi đầu núp dưới đống cát, che mắt, tụt cổ và tự bảo là vẫn an toàn.
Từ thời Hồ Chí Minh, khi tự nguyện thừa nhận chủ quyền của Tàu trên lãnh thổ và lãnh hải, đến cuối thế kỷ qua, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Hà Nội, lén lút và độc đoán ký giấy nhượng đất và trao biển cho Tàu. Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Hà Nội không hề ý thức về sự mất còn gia sản của tổ tiên đã được gây dựng bằng máu, bằng xương, để lại cho các thế hệ sau!
Thiết nghĩ trong nếp suy nghĩ của người Cộng sản Việt Nam khi Tổ Quốc Việt Nam là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thì Việt Nam có bị một nước xã hội chủ nghĩa khác đô hộ, thì có lẽ không gì khác hơn là sự thay đổi người cầm quyền mà thôi!
Theo bản đồ mới của Bắc Kinh về lãnh hải, thì Đà Nẵng không còn biển. Nên năm 2000, Giang Trạch Dân đến Hội An tắm biển, nằm phơi bụng phệ, không cần cận vệ, để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng chủ quyền của Bắc Kinh được bảo đảm an ninh tuyệt đối.
Xưa nay, trong lịch sử, mất nước do quân giặc hùng mạnh xảy ra rất ít, mà mất nước vì lòng người không muốn giữ nước lại rất thường .
Nhưng mất nước vì lòng người không muốn hoặc không biết giữ nước, còn có cơ hội lấy lại nước, khi mọi người phản tỉnh về ý thức trách nhiệm, cảm thấy dân tộc bị ô nhục, sự nghiệp xương máu của tổ tiên bị tiêu tan…
Chớ mất nước “vì phe xã hội chủ nghĩa anh em” thì không phải mất ở lãnh thổ bị chiếm đoạt, mà mất ở tâm hồn không còn Việt Nam, con tim không còn luân lưu dòng máu kiêu hùng của tiên tổ nữa .
Đất nước Việt Nam đối với người Cộng sản Hà Nội chỉ là nơi họ sinh sống tạm, như người ở trọ, trong thời gian họ cầm quyền, để mai này, khi rời khỏi chính quyền, họ sẽ về theo “cụ Mác cụ Lê” như Hồ Chí Minh, nơi đó mới là tổ quốc thật sự của họ!

Thái độ Hà nội, cái lợi, hại của sự phản ứng
Vấn đề tiên khởi là Hà Nội có dám phản ứng để bảo vệ đất nưóc đã mất vào tay ngoại bang không?
Không dám phản ứng vì Bắc Kinh mạnh ư?
Không đúng. Năm 1979, Hà Nội đã dám phản ứng bằng võ lực khi Đặng Tiểu Bình “dạy cho Viêt Nam một bài học”. Và tôn sư đã bị môn sinh đánh nặng đòn.
Trước đó, Hà Nội đã từng mở chiến dịch rầm rộ chống bá quyền phương Bắc, không cần giữ quan hệ truyền thống “môi liền môi, răng liền răng”.
Sở dĩ lúc ấy, Hà Nội dám phản ứng vì ỷ có chỗ dựa là người anh em xã hội chủ nghĩa vĩ đại Liên Xô. Nhưng phản ứng này chỉ có tính cách nhằm xác định lập trường phe cánh.
Ngày nay, nếu phản ứng với Bắc kinh là để bảo vệ đất nước vẹn toàn bờ cõi, Hà Nội sẽ có được sự yểm trợ quan trọng và hùng hậu hơn trước rất nhiều, đó là quan hệ quốc tế, hậu thuẫn của toàn dân trong nước và người Việt hải ngọai.
Từ năm 1995, Hà Nội đã lần lượt tranh thủ tạo cho mình một vị trí mạnh trong cộng đồng thế giới. Hà Nội ngày nay đã được bầu làm Hội viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An LHQ. Với vị thế ngày nay, nhà cầm quyền Hà Nội có thể công khai lớn tiếng phản kháng Bắc Kinh để bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam. Đó là chính nghĩa quốc gia và lẽ phải pháp lý quốc tế. Hà Nội không có lý do gì khiếp sợ sức mạnh của Tàu.
Thế mà Hà Nội không làm, đôi khi tuyến bố lấy lệ, cực kỳ sáo mòn, nhưng lại tìm cách can thiệp để ngăn chặn phong trào dân chúng biểu tình chống Bắc Kinh. Phải chăng vì bị áp lực của 16 chữ vàng đè nặng đến mức ngóc đầu lên không nổi? Hay là chống Bắc Kinh đồng nghĩa với sự đánh mất thế lực yểm trợ, và do đó, vị thế cũng như quyền lực sẽ mất về phe cánh khác, tuy cũng cùng đồng chí trong đảng cộng sản với nhau?
Sự kiện Bắc Kinh thể hiện chính sách xâm lược ngày nay tuy là một bất hạnh cho đất nước, một sỉ nhục cho hồn thiêng sông núi, sự tức tưởi của bao nhiêu chiến sĩ vị quốc vong thân. Nhưng đây lại là một cơ hội tốt cho những người cầm quyền ở Hà Nội, nếu họ thật sự yêu nước, yêu giang sơn tổ quốc, biết nắm bắt, thực hiện thật sự toàn dân đoàn kết, trên cơ sở cùng chung lòng bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam lâm nguy. Hà Nội không cần nghị quyết 36 hay bất kỳ một thứ nghị quyết nào khác. Hà Nội cũng không cần một Đại hội Việt kiều hay những chiến dịch “Duyên dáng Việt Nam” để kiêu dụ người Việt Hải ngoại về giúp nước.
Công an nên chỉ lo nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự xã hội, không đàn áp biểu tình ôn hòa và chính đáng. Báo chí có đầy đủ đệ tứ quyền để thông tin trung thực về chủ quyền quốc gia bị Tàu vi phạm, để vận động lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân làm hậu thuẫn cho chánh quyền. Nhà cầm quyền Hà Nội cần thay đổi thứ bậc ưu tiên trong chính sách đối ngoại để cân bằng quan hệ giữa Việt Nam và thế giới. Quân đội hãy trở về đúng vị trí bảo vệ tổ quốc, anh dũng chống ngoại xâm.
Đừng hù dọa những người phản kháng, đấu tranh ôn hòa đang nói tiếng nói dân chủ, đang nói tiếng nói yêu nước, chống bá quyền phương Bắc. Hãy thả ngay những Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Trần Anh Kim, Nguyễn Văn Lý, vân vân …
Lòng yêu nước sẵn có của người dân Việt Nam chỉ sôi động, khi nào người dân thấy rõ họ thực sự là thành viên chủ động của cộng đồng dân tộc, với đầy đủ trách nhiêm và quyền lợi.
Để bắt đầu, những người lãnh đạo ở Hà Nội ngay bây giờ, hãy suy nghĩ với cái đầu Việt Nam, hãy nhìn đất nước bằng con tim Việt Nam, tức tách rời hẳn cái chủ nghĩa xã hội thảm hại kia, và hãy mạnh dạn thật lòng cùng với toàn dân trong và ngoài nước, chung nhau thảo luận tìm một phương sách bảo vệ bờ cõi, phục hồi lãnh thổ và lãnh hải .
Chúng ta đừng quên rằng Bắc Kinh không bao giờ từ bỏ mộng bá quyền tiến xuống phía nam, khi nội tình của họ ổn định. Vì thế ngay ngày hôm nay, Hà nội, để giải quyết nạn xâm lăng của Bắc Kinh, trong tình hình quốc tế toàn cầu hóa và đa cực của thế giới nên mở quan hệ liên lập đa phương: phía Tây với Mỹ, với khối Liên hiệp châu Âu, với Nga, với Ấn Độ; phía Đông với Bắc Á: Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan – dĩ nhiên. Ngay ở khu vực mình nên chặt chẽ với các nước Nam Thái Bình Dương, gần là khối ASEAN, xa hơn đặc biệt với Australia và New Zealand, để kêu gọi cùng nhau thành lập một tổ chức mở rộng, có khả năng quân sự cao, đủ sức mạnh tự bảo vệ an ninh vùng Đông Nam Á, theo mô hình Hiệp ước Liên Phòng Đông Nam Á trước kia (SEATO) .
Sự kiện Bắc kinh càng ngày càng xâm lấn dần xuống phía Nam, chắc chắn sẽ là động cơ thúc đẩy các quốc gia trong vùng, luôn cả Hoa Kỳ, Liên hiệp châu Âu (EU), kể cả Nga, sẳn sàng hợp tác, yểm trợ vai trò phòng thủ an ninh chung cho khu vực trọng yếu này.
Trước sức mạnh và ý chí liên đới vì an ninh chung của toàn vùng, Bắc Kinh sẽ phải chấp nhận sống hài hòa, tôn trọng chủ quyền quốc gia lẫn nhau, để cùng phát triển giao thương.

Lời kết
Nhớ lại lúc xưa khi Hà Nội đưa chiến tranh vào Miền Nam, Hồ Chí Minh hạ quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn” để tiến chiếm Miền Nam, hay “nếu phải đốt hết cả dãy Trường Sơn để giải phóng Miền Nam, ta sẵn sàng làm”, chỉ vì Hồ Chí Minh muốn chiếm lấy miền Nam về tay phe xã hội chủ nghĩa, làm “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa”. Do vậy, chủ trương thực hiện chiến tranh giải phóng của Hồ Chí Minh rõ ràng không đứng trên lòng yêu nước nên sự hy sinh của nhân dân hoàn toàn vô nghĩa, lòng yêu nước, đánh ngoại xâm đã bị lợi dụng. Hàng triệu người Việt đã chết oan chết uổng cho tham vọng phe xã hội chủ nghĩa và ý thức hệ cộng sản của Hồ Chí Minh.
Ngày nay, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Hà Nội không chống lại Bắc Kinh để đòi lại lãnh thổ và lãnh hải, thì những ngưởi Cộng sản Việt Nam sẽ bị lịch sử Việt Nam xem là những người phản quốc.

Viết cho ngày Hoàng Sa 19/1/2010

Nguồn: Bài nhận được từ tác giả. Ledienduc’s Blog minh hoạ hình ảnh.



No comments:

Post a Comment