Friday, September 18, 2009

DƯ LUẬN TIẾP TỤC XOAY QUANH VIỆN IDS


Giải Tán IDS
Ô Sin
September 17 2009
http://www.blogosin.org/?p=1014
Đọc kỹ các văn kiện liên quan đến việc giải thể của viện IDS mới thấy, đó là một quyết định của những người có lòng tự trọng và dũng cảm. Nhìn vào danh sách những người ký tên vào bản tuyên bố, thấy, hầu hết trong số họ là những nhân vật từ lâu đã nhận được sự kính trọng của xã hội. Danh lợi không phải là điều họ hướng tới, vậy thì một khi những ý kiến phản biện tâm huyết của họ không còn được lắng nghe nữa, họ giữ cái viện ấy làm gì. Trước IDS, từ đầu năm 2009, các học giả Harvard và Chương trình Fulbright cũng đã thôi cống hiến cho Chính phủ những bản báo cáo hàng quý hết sức giá trị về tình hình kinh tế.
Những người có quyền lực có thể sẽ thở phào nhẹ nhõm; các bậc trưởng thượng như GS Hoàng Tuỵ, nhà nghiên cứu Trần Đức Nguyên, Việt Phương… có thể sẽ có nhiều thời gian hoàn thành những công việc dở dang. Vấn đề là người dân. Cũng là ruộng đồng Việt Nam, cũng cái cày con trâu, chỉ vì chính sách đúng hay sai mà người dân có khi đói tới mức phải đi ăn xin; có khi làm ra hàng chục triệu tấn gạo xuất đi các nước. Hiện tại cũng như trong quá khứ, những sai lầm đau đớn nhất về mặt chính sách thường do trước khi ban hành, chúng không được đưa ra thảo luận và công khai phản biện.
Những chính sách dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội không chỉ là chuyện lịch sử. Năm 2007, từ quý II, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra những dấu hiệu bất ổn vĩ mô. Một vài thành viên trong Ban Nghiên Cứu của Thủ tướng cũ (bị giải thể ngày 28-7-2006 theo quyết định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) khuyến cáo: “Nếu tiếp tục chạy theo mục tiêu tăng trưởng GDP thì sẽ không tránh khỏi lạm phát”. Ngay lập tức, họ nhận được sự than phiền: “Sao tình hình đang tốt mà có người cứ phá”. Báo chí tạm thời im lặng. Các nhà nghiên cứu chọn con đường phản biện trong “hệ thống”. Không rõ các cảnh báo sớm ấy đã được xem xét thế nào mà nửa cuối 2007, đầu tư vẫn ồ ạt, tăng trưởng tín dụng từ 21,4% trong năm 2006 vọt lên 38,7%. Những chỉ số GDP của 2007 đương nhiên là lấp lánh…
Ngay từ tháng 1-2008, lạm phát đã bộc lộ, “tình hình không tốt” như một số người từng nghĩ nhưng “khối u” chưa phải là “ác tính”. Tuy nhiên, liều thuốc chống lạm phát “bốc” ngay đã gây ra cho nền kinh tế một cú “shock”: dự trữ bắt buộc tăng, trong tháng 1-2008, các ngân hàng thương mại phải thu về hơn 20.000 tỷ đồng; ngày 13-2, các ngân hàng lại phải mua một lượng tín phiếu bắt buộc trị giá 20.300 tỷ đồng… lãi suất qua đêm ở thị trường liên ngân hàng tăng từ 6,52% vọt lên 27%, có lúc lên tới 40%; thanh khoản đột ngột thiếu hụt. Thị trường địa ốc ngay lập tức đóng băng. Chỉ số chứng khoán rơi tự do, VN-index đang trên 1000, tới ngày 26-3-2008 tụt xuống còn 500. Nhưng, những ảnh hưởng gián tiếp mới thực sự làm kiệt quệ nền kinh tế: trong năm 2008, phần lớn các doanh nghiệp cần vốn sản xuất kinh doanh phải vay với lãi suất lên tới 25%, xuất nhập khẩu thì thiếu ngoại tệ, sản xuất thì thiếu vốn…
Cho dù hậu quả không được thảo luận công khai thì người dân cũng biết nền kinh tế Việt Nam “xuống tận đáy” năm 2008 chẳng phải vì các “nguyên nhân quốc tế”. Mãi tới tháng 9-2008, khủng hoảng kinh tế thế giới mới bộc lộ và phải đến cuối quý IV-2008, xuất khẩu mới giảm nhẹ, dấu hiệu cho thấy Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng của khủng hoảng toàn cầu. Đến lúc ấy thì nền kinh tế Việt Nam đã kiệt quệ do phản ứng phụ của “thuốc” chống lạm phát. Ngày 24-2-2009, chứng khoán rơi tự do xuống tới con số xấu kỷ lục: VN-index chỉ còn 235.

Sau những biến cố ấy, lẽ ra “phản biện” công khai phải trở thành quy trình bắt buộc khi ban hành chính sách thì Quyết định 97 lại ra đời. Quyết định 97 không những giới hạn “lĩnh vực” các viện nghiên cứu tư nhân được hoạt động mà “nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách” thì phải “gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền”; cấm “công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức”. Trong một bài phỏng vấn trên Vietnamnet, Thứ trưởng Bộ Khoa học Nguyễn Quân giải thích: “Trong bối cảnh xã hội phức tạp hiện nay, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế đầy khó khăn thử thách, chúng ta đang cần có sự đồng thuận cao của xã hội đối với các quyết sách… nên công bố các kết quả nghiên cứu phản biện… phải hết sức thận trọng”.

Hiểu về đồng thuận như ông thứ trưởng Nguyễn Quân rõ ràng là phi khoa học. Một chính sách không thể nào tìm được sự đồng thuận nếu những khác biệt không được đưa ra tranh luận công khai. Kể cả việc tranh luận có thể chỉ ra những sai lầm của Chính phủ. Người dân không bao giờ hy vọng có một chính phủ không phạm sai lầm; nhưng người dân có quyền đòi hỏi chính phủ của họ phải biết lắng nghe để khắc phục những sai lầm ấy. công khai bàn luận còn để đảm bảo một chính sách khi được đưa ra là nhằm phục vụ lợi ích quốc gia thay vì chỉ phục vụ những nhóm đặc quyền, đặc lợi (tôi không dùng “nhóm lợi ích” vì ở Việt Nam, lobby không giống như các nước). Chưa kể, Quyết định 97 nếu tồn tại sẽ để lại hậu quả lâu dài thay vì chỉ nhắm tới IDS hay chỉ phục vụ cho “bối cảnh xã hội” mà hiện thời ông thứ trưởng cho là “phức tạp”.
Quyết định 97 là một ví dụ đắt giá cho thấy, một khi quy trình ban hành không được phản biện công khai thì chính sách đưa ra không những bất ổn về mặt pháp lý mà còn chứa đựng không ít rủi ro. Có thể nói là những người tham mưu Quyết định này đã không tiên liệu được những tổn thất về uy tín chính trị có thể xảy ra cho người ký.
Trí thức là một tầng lớp có tiếng nói độc lập trong xã hội thay vì là những người giúp việc có bằng cao học hay tiến sỹ. Khoa học và chính trị là hai lĩnh vực khác nhau. Một chính khách tự tin sẽ nhận thấy, không phải những lời xưng tụng mà chính là các chỉ trích mới làm cho mình đúng hơn và lớn lên. Thực ra, những đóng góp của IDS và những bản báo cáo của nhóm học giả Harvard và Chương trình Fulbright chỉ là những công việc khởi đầu, đem lại cho dân chúng hy vọng, phản biện xã hội có thể có vai trò và trí tuệ có thể tiếp cận được các nhà ban hành chính sách.
Tuyên bố tự giải tán IDS là một việc làm mới mẻ của những người trí thức. Từ nay sẽ không còn tiếng nói nhân danh IDS; nhưng, đôi khi, im lặng tưởng “đóng” thực ra lại là sự bắt đầu. Nhất là khi, “lên tiếng” trở thành nỗi khát khao của người dân, của những người không thờ ơ với nội tình đất nước.

Phản ứng của trí thức hải ngoại về việc giải thể IDS (RFA).



IDS: Khi trí thức…từ chức

Hiệu Minh
http://hieuminh.wordpress.com/2009/09/17/ids-khi-tri-thuc-tu-chuc/
September, 18, 2009

Các thành viên IDS lần gặp cuối
http://hieuminh.files.wordpress.com/2009/09/ids-picture.jpeg?w=450&h=337

Xem ảnh các thành viên IDS, Blog HM nhận ra một người quen, rất kính trọng. Những năm 1977-1993, người viết bài từng là quân của Giáo sư Phan Đình Diệu (đứng thứ 2 từ trái), vị đầu ngành của Tin học Việt nam, từng là viện trưởng Viện Tin học, viện phó Viện KH Việt nam, một chí sỹ nhưng không phải đảng viên.
HM đã chứng kiến vài lần từ chức của ông. Lần ở IDS này là lần thứ 3, dù ông không tuyên bố. Mỗi lần là một khoảng lặng của số phận.

Lần thứ nhất
Lần đầu vào năm 1985, do cơ chế Đảng lãnh đạo, Viện trưởng chấp hành, việc đưa ra những chiến lược phát triển công nghệ thông tin của Giáo sư với tầm nhìn xa trông rộng bị chặn lại. Chi bộ và đảng ủy có thể quyết định về tư tưởng nhưng không thể biểu quyết về tầm nhìn tương lai Tin học Việt nam. Thấy không thể “vùng vẫy” trong một hệ thống như thế nên Giáo sư đã từ chức, dù rất nhiều các vị lãnh đạo cao cấp đã yêu cầu ông tại vị. Tuy thế, ông vẫn là Viện phó VKHVN.Vị viện trưởng kế vị, tuy không là bí thư chi bộ như trước, nhưng lại có cơ chế mới “một thủ trưởng”, chi bộ chỉ để…tham khảo. Ông tha hồ áp dụng “tư duy” lãnh đạo mới.

Lần thứ 2
Tới năm 1993, có chuyện bầu bán lại ở Viện Tin học (được đổi tên là Viện CNTT). Đề cương thành lập viện cũng do Giáo sư Diệu và vài đồng nghiệp chấp bút. Vì tâm huyết với ngành CNTT non trẻ và mong đất nước thoát nghèo bằng tin học, Giáo sư Diệu quay về tham gia ứng cử Viện trưởng. Ông hiểu, ở vị trí nhất định mới mong thay đổi được diện mạo một ngành.
Tổ chức phiếu thăm dò sau bao nhiêu “bàn tán hành lang” (sau này có dịp tôi sẽ kể vào lúc cần thiết), ông vẫn được 58 phiếu, người về thứ 2, kém chục phiếu gì đó. Không hiểu vì lý do gì mà Viện sỹ Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện KHVN) lại quyết định người về “nhì”(đương kim Viện trưởng VTH) được làm Viện trưởng Viện CNTT.
Nhớ lúc đó, Giáo sư Diệu phát biểu đại loại rằng, đây là một quyết định phi dân chủ, và người ra quyết định đã lật lọng, phá hoại khoa học. Ông tuyên bố từ chức luôn cả Viện Phó VKHVN và về vườn từ lúc hơn 50 tuổi.
Đương nhiên, tôi không hiểu hết thế sự bên trong. Phía sau quyết định của Viện sỹ Hiệu là gì, không ai biết được. Có thể Viện sỹ đã hứa gì đó nhưng sau đó “lật lọng”, hoặc người khác có lý “gấp đôi”.
Dù là con kiến nhưng tôi đã không ngần ngại nói “Lớp cán bộ khoa học trẻ vào Viện với tình yêu khoa học và tin vào các bậc đàn anh. Nhưng hôm nay, chứng kiến sự mất dân chủ và quyết định bất ngờ, tôi hiểu rằng, lòng tin của trí thức đã bị đặt nhầm chỗ”.

Di sản khoa học…
Nếu ai làm việc ở đâu đó thời gian dài, thường được hỏi về legacy (di sản) của người đó. Giáo sư Phan Đình Diệu cùng với đồng sự đã để lại nền vi tính non trẻ cho Việt nam (kể cả châu Á khi đó!) và thương hiệu Viện Tin học trước năm 1985.
Hôm nay, có dịp qua Viện CNTT (Viện TH cũ) bạn sẽ thấy Viện này đã an bài như định mệnh của chính Viện KH Việt nam (nay đổi là Viện KH Công nghệ Quốc gia). Xuống dốc Bưởi nhìn thấy toà nhà bậc thang piramid, mốc meo với những điều hoà đủ kiểu và kiến trúc pha trộn Đông Tây trong Viện KHVN, như mối tình Chí Phèo-Thị Nở, khi tàn bạo trong vườn chuối, lúc lãng mạn dưới ánh trăng bên sông.

Sau 30-40 năm hoạt động, “nhà trẻ trung ương” VKHVN với 5-6 nghìn cán bộ khoa học đã làm gì cho đất nước? Danh tiếng Viện CNTT đang ở đâu trên đất nước này. Có ai còn nghe tới họ, hay chỉ là những gì làm 25 năm trước mới đáng kể. Mà số tiền tiêu vào đó là bao nhiêu tỷ của dân nghèo.
Mới đây, Viện sỹ Nguyễn Văn Hiệu được tặng Huân chương Nhà nước do cống hiến cho khoa học. GS Phan Đình Diệu lại “từ chức”…tiếp dù ông đã về hưu.

Và lần thứ 3 ở…IDS
Lần từ chức thứ nhất chỉ liên quan đến một viện và sự đi xuống của nó sau đó.
Lần thứ hai tương đương với một bộ. Hình ảnh Viện “Hàn lâm” trên Nghĩa Đô hôm nay đủ nói lên những trí thức không được dùng đúng mục đích bị ảnh hưởng như thế nào tới vị thế của nền khoa học.
Lần thứ 3 này phải chờ xem sau vụ tự giải thể của IDS. Ảnh hưởng của sự kiện là tầm quốc gia nếu không nói là quốc tế. Những người như bà Phạm Chi Lan, Giáo sư Hoàng Tụy, TS Lê Đăng Doanh, TS Nguyễn Quang A và các vị khác, … cả thế giới biết tên tuổi.
Sự giải nghệ của họ và Quyết định 97 giúp tinh hoa dân tộc “yên lòng” hơn với tuổi hưu nhàn hạ. Họ khá đầy đủ về vật chất, nếu chỉ muốn yên ổn thì vào IDS làm gì. Vì nặng lòng với đất nước và dân nghèo, hy vọng IDS là nơi giúp chuyển tải những phản biện hay cố vấn của một tập thể trí thức tinh túy nhất nước tới Đảng và Nhà nước. Ai nghi ngờ lòng yêu nước của họ hãy xem lại bản thân.Không hiểu sao lại nghĩ vẩn vơ. Dù ở xa Tổ quốc, tôi luôn dự cảm rằng, đất nước rồi sẽ tiến lên, đi đâu sẽ ngẩng cao đầu, rằng, ta đến từ nơi dân giầu nước mạnh. Mong thì vẫn hằng mong.

Lời kết
Nhớ về câu chuyện của đất nước mình, từng là hình mẫu cho đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều người đã nhìn vào để noi gương. Tuy nhiên, ánh hào quang quá khứ không giúp được nhiều cho hội nhập hôm nay.
Nơi tôi công tác trước đây cũng không nằm ngoài qui luật đó. Lật vài trang sử của Viện cũng đủ hiểu số phận một đất nước, một dân tộc hay một đời người.
Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ thế giới, ai sẽ là bạn khi ta gặp khó khăn, chìa tay giúp đỡ, kẻ nào đợi thời cơ để hãm hại. Có nhiều trí thức giỏi, có tâm và tầm, sẽ giúp tìm ra được lời giải.
Nhớ khi cụ Hồ sang Pháp thời kháng chiến, lúc quay về đã mang theo Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa và bao thanh niên hiểu biết. Chính giới tinh hoa đó đã đưa Việt Nam sang một vị thế khác.
Ngày nay, nhiều trí thức rất giỏi nằm ngay ở trong nước. Để họ “từ chức” nghĩa là mất “nội lực”, và vì thế khó mong “ngoại lực” quay về, dù có trải thảm đỏ.
IDS đã ra đi, không còn nghe được tiếng tơ lòng của họ. Người ta bảo, tiếng quát của kẻ thất phu không đáng sợ, đáng sợ hơn là sự im lặng của những nhà hiền triết.
Hiệu Minh


Thư gửi IDS, một tổ chức khoa học ưu tú vừa tự giải thể
V. Quốc Uy
00:30 ngày Thứ Bảy, 19/09/2009
http://bauxitevietnam.info/c/9676.html
Việc IDS vừa tuyên bố tự giải thể đã là lời phản biện mạnh nhất trong những phản biện của tổ chức khoa học ưu tú này. Trước sự kiện này, lời khen rất nhiều, nhưng không phải không có những ý kiến “bàn lại”.
Đã có lời bình luận chua chát: cung cách của IDS, định dùng tiếng nói khoa học để tác động vào Đảng và Nhà nước như nước ta thì chỉ là ẢO TƯỞNG!
Với một người, như tôi chẳng hạn, vốn có thiện cảm với các trí thức hàng đầu, cấp tiến (nhưng vẫn thuộc đội ngũ chính thống), thì khi nghe lời bình này thường không hài lòng, cho đây là lời chê bai, tiêu cực.
Nhưng nghĩ lại, thấy lời “chê bai” chua chát ấy không sai. Quyết định 97 đã cho thấy: dù cố gắng đứng trong quỹ đạo của Đảng chăng nữa mà nói những điều khác với điều Đảng đang nói (đang cần nói, lúc ấy), thì dù là “điều hay lẽ phải” đúng 100% cũng sẽ bị cấm, mà còn đáng bị cấm hơn những kẻ khác.
Nói cách khác: Con đường Cải lương nhu mì, tự nó không thể thành công! Và nhờ thất bại ấy, những người đi đầu trong IDS sẽ từ bỏ con đường cải lương, để tìm sang một con đường mạnh mẽ hơn, bộc trực hơn, đỡ “cải lương” hơn. Và cứ thế, rất có thể (có thể thôi) các nhà trí thức ưu tú của IDS sẽ trở thành những nhà cải cách, dân chủ, tiên phong thật sự. Đó là ý nghĩa tích cực của “bài học mang mã số 97”. Từ mong ước, tôi cứ mạo muội “hình dung” ra như vậy.


Nhưng dù cho những “nhà Cải lương” cũ có chuyển sang phương pháp mới, thì trong lớp người đi sau cũng lại sẽ có những người phải dẫm lại dấu chân người trước. Giống như các lớp kế tiếp nhau trong trường học vậy, lớp nào cũng cần, coi thường lớp 8 thì làm gì có lớp 9 phải không ạ?
Mấy lời, tự cảm thấy rất mạo muội, xin cứ chân thành bộc bạch. Chắc có sơ xuất xin miễn thứ.
Ngày 17-9-09
VQU
HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập



VietNamNet đưa tin lửng lơ về việc Viện IDS tự giải thể

talawas blog
18/09/2009 1:57 sáng
http://www.talawas.org/?p=10340
Có lẽ VietNamNet là tờ báo mạng chính thống duy nhất cho đến nay
đưa tin về việc Viện IDS tự giải thể.
Phần lớn các thành viên IDS đồng thời là những tác giả, cộng tác viên, khách mời trong những tọa đàm đặc biệt của tờ báo này. Tuy nhiên, bản tin trên VietNamNet về sự kiện này cho thấy tờ báo buộc phải giữ một khoảng cách đáng kể với hành động tập thể của những người từng góp phần quan trọng đem lại uy tín cho nó, trong khi
trang Tuần Việt Nam đăng bài viết của cá nhân TS. Nguyễn Quang A.
Nếu chỉ đọc bản tin của VietNamNet, độc giả hoàn toàn không biết lý do của hành động tự giải thể của Viện IDS. Đưa tin lửng lơ còn hơn không đưa tin, hay ngược lại?

PHẢN HỒI :

Nguyễn Phú Thịnh nói:
18/09/2009 lúc 8:15 sáng
Tin này của talawas không chính xác. Ngoài VietNamNet còn có tờ Sài Gòn Tiếp thị đăng tin Viện IDS tự giải thể. Trong tin của SGTT.COM.VN có câu: “Mười sáu thành viên của hội đồng viện ký trong tuyên bố của mình giải thích việc giải thể này biểu thị không đồng tình với Quyết định 97 của Thủ tướng Chính phủ…”
Chi tiết:
http://www.baomoi.com/Home/ThoiSu/www.sgtt.com.vn/Vien-nghien-cuu-phat-trien-IDS-tu-giai-the/3214502.epi



No comments:

Post a Comment