Wednesday, September 2, 2009

CHẤN ĐỘNG TỪ PHƯƠNG BẮC


Chấn động từ Phương Bắc
GS David G. Marr
07:45 ngày Thứ Tư, 02/09/2009
http://bauxitevietnam.info/c/6997.html
Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy việc đối xử với Trung Quốc không phải là một thứ được ăn cả ngã về khôngDavid G. Marr.

Tháng Giêng năm nay, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị anh hùng chín mươi bảy tuổi của các cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã gửi đi một lá thư cho Bộ Chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam) nói rằng đại dự án bauxite ở Tây Nguyên Việt Nam sẽ có tác hại lớn đến môi trường, đến xã hội và đến an ninh quốc phòng. Năm 2007, Bộ Chính trị đã thông qua dự án này mà không xin ý kiến của Quốc hội. Nhờ mạng internet, bức thư của Đại tướng và hai lá thư tiếp theo đã nhanh chóng đến với một khối lượng công chúng đông đảo cả ở trong và ngoài nước. Một Kiến nghị phản đối dự án khai mỏ bauxite đã được ký bởi hơn 2000 nhà trí thức và khoa học gia có tiếng tăm cùng nhiều cá nhân khác quan tâm tới vấn đề này. Trong một thách thức cố ý đối với Công an, mỗi người đều ghi rõ địa chỉ của mình sau chữ ký. Điều hết sức đáng chú ý, ấy là vào tháng Tư, Đảng Cộng sản đã cho phép tổ chức một Hội thảo về dự án khai mỏ bauxite, nhân dịp này các nhà khoa học và các nhà kinh tế đều lên tiếng phản đối mạnh mẽ dự án đó.

Các nhà theo đường lối bảo vệ môi trường đưa ra những bằng chứng về tác động phá hoại của việc khai mỏ lộ thiên tại nước ngoài. Các nhà khoa học xã hội chỉ rõ bao nhiêu cư dân người dân tộc thiểu số sẽ bị tái định cư bắt buộc. Nhưng điều làm xúc động mọi người và biến thành một vấn đề có tính chất quốc gia đại sự lại là việc 2000 nhân công Trung Hoa của Công ty Chinalco sẽ tới thực thi dự án cùng với hoạt động tình báo thế nào mà chẳng có của Trung Hoa tại một vùng nhạy cảm của đất nước. Xa hơn chuyện đó là ý kiến nhiều người cho rằng Việt Nam đã quá lệ thuộc vào nhập khẩu và đầu tư của Trung Quốc mất rồi.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên hết, sau khi đối mặt với bốn cuộc xâm lược của anh khổng lồ láng giềng kể từ khi giành được độc lập vào thế kỷ X, Việt Nam vô cùng nhạy cảm với mọi chấn động từ phương Bắc. Mặc cho có những thời kỳ hòa bình giữa hai bên Hoa-Việt dài hơn nhiều so với thời gian đánh nhau, song nhiều phố tại những thành phố to nhỏ của Việt Nam vẫn được đặt tên bằng những vị tướng đã đánh bại quân Tàu. Theo truyền thống, các nhà cầm quyền Việt Nam khi thừa nhận kinh đô Trung Hoa như là trung tâm của vũ trụ thì vẫn đều đặn triều cống và tìm cách được Bắc Kinh công nhận những thay đổi triều đại ở Việt Nam. Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa sâu đến nỗi các nhà bác học Việt Nam đôi khi vẫn trách móc Trung Nguyên khi họ không hành xử đúng với những lời dạy của Khổng Tử và Mạnh Tử.

Đầu thế kỷ XX, các nhà trí thức của cả hai phía Trung Hoa và Việt Nam đều học lấy các khái niệm Tây phương về chủ nghĩa dân tộc, về độc lập và bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc. Tuy vậy, vẫn có những khoảng cách lớn giữa các đám cư dân và quần chúng. Có những đám người Việt Nam chấp nhận sự bảo hộ của Pháp chống lại Trung Hoa; có những người về sau lại hoan nghênh Hoa Kỳ cũng vì lý do như thế. Nhưng nhiều người khác thì vẫn dựa vào sự giúp đỡ của Trung Hoa và Liên Xô để đánh Mỹ. Chẳng bao lâu sau khi Hà Nội thống nhất được đất nước vào năm 1975 thì Bắc Kinh và Moxkva liền gây sức ép nặng nề lên Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam bắt họ chọn lựa trong cuộc tranh chấp Xô-Trung. Sau khi Hà Nội cố công mãi mà không bình thường hóa được quan hệ với Hoa Kỳ thì họ liền đi theo Moxkva.

Đó là lúc khởi đầu thời kỳ khó khăn cho các mối quan hệ Việt-Hoa. Đáp trả những cuộc tiến công qua biên giới của Khmer Đỏ, Việt Nam xâm lăng Cambodia vào cuối năm 1978, và liền sau đó Trung Hoa xâm lăng Việt Nam. Khi thấy dòng hậu cần của Hồng quân không còn đủ nữa cho Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Việt Nam thế là đã được dạy cho một bài học và bắt đầu rút quân. Cuộc tiến đánh của Trung Hoa tàn phá nhiều hơn là cuộc bao vây kinh tế của khắp nơi đối với Việt Nam, trừ từ phía khối Liên Xô. Cuối cùng, vì phải trả giá cao về người và về tinh thần cho việc duy trì chiếm đóng Cambodia, cùng với việc sa sút viện trợ từ Liên Xô, nên Hà Nội đã phải rút quân khỏi Cambodia vào năm 1989. Hơn một nửa số Hoa kiều ở Việt Nam đã bỏ ra đi hoặc bị buộc phải đi khỏi Việt Nam.

Các mối quan hệ Hoa-Việt được cải thiện đáng kể vào đầu những năm 1990. Sau khi Liên Xô tan vỡ, trong nhiều người Cộng sản Việt Nam có ý nghĩ rằng tương lai chủ nghĩa Marx–Lenin nằm trong tay Bắc Kinh và Hà Nội. Những quan hệ chặt chẽ có thể giúp cả hai Đảng Cộng sản giành độc quyền cai trị đất nước.
Nhưng các cuộc tranh chấp lãnh thổ vẫn chưa được giải quyết. Từ giữa những năm 1950, Trung Hoa đã “tạm thời” kiểm soát nhiều điểm dọc biên giới trên bộ và việc trả lại quyền kiểm soát cho Việt Nam liên tục bị dây dưa vì lý do “hiệu quả kỹ thuật”. Sau cuộc chiến tranh năm 1979, quân đội Trung Hoa tiếp tục chiếm nhiều cao điểm trên đất Việt Nam. Những cuộc thương lượng kiên trì trong những năm 1990 hình như có giải quyết được vấn đề biên giới trên bộ, mặc dù có những người Việt Nam kêu ca là đã nhượng bộ quá nhiều cho phía Trung Hoa.

Những tranh chấp trên biển nghiêm trọng hơn nhiều. Tháng Giêng năm 1974, hải quân Trung Hoa tiến công và nhanh chóng đánh bại các đơn vị Việt Nam cộng hòa được Mỹ trợ giúp trên quần đảo Hoàng Sa cách đảo Hải Nam 300 kilomet về phía Đông Nam. Mặc dù Hà Nội vô cùng bối rối trước việc Trung Hoa chiếm đóng Hoàng Sa, song họ không thể phản đối, và đã phụ thuộc vào việc để cho Bắc Kinh đánh bại quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thế là Bắc Kinh liền tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ thềm lục địa ở biển Nam Hải, khiến cho xung đột có triển vọng loang ra không chỉ với Việt Nam mà cả với Philippines, Malaysia và Brunei. Năm 1988, quân Trung Hoa đánh chìm nhiều tàu hải quân Việt Nam ở vùng quần đảo Trường Sa và chiếm đóng sáu hòn đảo ở đây.

Dầu hỏa là chất xúc tác khiến mọi việc tập trung cao độ vào Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu những năm 1970, một công ty Mỹ đã lập bản đồ hứa hẹn có những mũi khoan ngoài khơi Nam Việt Nam. Sau năm 1975, Việt Nam mời một công ty Liên Xô và cuối cùng cũng đưa được nhiều giếng khoan vào sản xuất. Trong những năm 1990, nhiều công ty phương Tây kéo vào theo. Dầu thô trở thành bộ phận xuất khẩu tỷ trọng cao của Việt Nam.

Mới đầu Trung Hoa chỉ tìm cách gây khó dễ cho công việc khai thác do Việt Nam bảo trợ ở vùng biển giữa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển Bắc Trung Bộ Việt Nam thôi. Bắc Kinh và Hà Nội thuận tình vạch một đường biên ở giữa để khai thác dầu chứ không coi đó là biên giới lãnh thổ. Nhưng rất gần đây, Trung Hoa bắt đầu gây khó khăn cho mọi công việc liên quan đến khai thác dầu của Việt nam trên thềm lục địa. Chiến thuật hữu hiệu hơn cả của Bắc Kinh là cảnh báo các công ty nước ngoài hãy rút lui đừng ký kết hợp đồng với các đối tác Việt Nam. Tháng Ba năm nay, Công ty BP (của Anh) chỉ chịu rút lui việc khai thác tám mươi cây số cách xa bờ biển Trung Bộ Việt Nam. Tháng Bảy, các phái viên của Trung Hoa cảnh báo Hãng Exxon Mobil, Công ty dầu lửa lớn nhất thế giới, rằng tương lai kinh doanh của họ trên lục địa Trung Hoa có thể bị phá hoại nếu họ không chịu rút khỏi công việc làm ăn với Việt Nam.

Đầu năm nay, Trung Hoa cũng gửi tàu chiến đi kiểm soát công việc đánh cá trên biển Nam Hải sát xuống mãi tận vĩ tuyến thứ mười hai. Tháng Năm, nhiều tàu đánh cá của Việt Nam bị bắt giữ, đoàn thủy thủ bị giam giữ, và tàu bị phá hỏng. Các trang mạng của Việt Nam ví hành vi của Trung Hoa như quân cướp biển Somali. Song, những lời phản đối của Việt Nam với Bắc Kinh có ít tác dụng. Hà Nội không có đủ tàu tuần tra để bảo vệ ngư dân Việt Nam đánh bắt ở vùng kinh tế ngoài khơi xa tới 200 hải lý, chỉ có thể ở dưới mức đó rất nhiều.

Một khối lượng rất lớn tàu thuyền lấy con đường biển Nam Hải để giao thương giữa eo biển Malacca và Đông Á. Hoa Kỳ, Nhật Bản và nhiều nước khác coi Biển Nam Hải như là vùng nước quốc tế. Tháng Ba, tàu chiến của Trung Hoa quấy rối một tàu tuần thám Mỹ ở ngoài khơi cách đảo Hải Nam 125 kilomet, gây ra vụ Washington phản đối coi đó là hành vi cố ý, nguy hiểm, và vi phạm luật pháp quốc tế. Bắc Kinh cãi lại rằng tàu của Hoa Kỳ đã đi vào kinh tế ngoài khơi của Trung Hoa không có phép và tiến hành các hoạt động bất hợp pháp ở đó.

Trong quá khứ, đã có những lời kêu gọi mở Hội nghị quốc tế hoặc Hội nghị đa phương để bàn về tương lai biển Nam Hải. Nếu mở được một hội nghị như thế, Việt Nam có thể từ bỏ đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa để đổi lại sự thừa nhận một phần quần đảo Trường Sa họ đang chiếm giữ. Nhưng Trung Hoa phản đối bất kỳ việc đưa vấn đề thành ra quốc tế hóa và không có dấu hiệu gì tỏ ra là họ từ bỏ các đòi hỏi về thềm lục địa. Còn với Hà Nội thì, nếu chấp nhận chủ quyền của Trung Hoa trên thềm lục địa cũng có nghĩa là toàn bộ bờ biển của mình bị “đóng cửa” và mất mọi quyền khai thác dầu ngoài khơi.

Trên đỉnh của mâu thuẫn xung đột là dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, cũng còn một vấn đề rắc rối bắt đầu được quan tâm ở Việt Nam là tác động của các đập thủy điện đang được Trung Hoa xây dựng trên thượng nguồn Sông Mekong. Tháng Mười vừa rồi, các Kỹ sư Trung Hoa ở Vân Nam đã hoàn thành việc xây dựng đập Xiaowan, con đập cao nhất thế giới, cao ngang với Tháp Eiffel. Khi bảy con đập nữa được xây thêm, tổng khả năng trữ nước sẽ bằng một nửa lượng nước dòng Mekong khi nó ra khỏi đất Trung Hoa và đi xuôi xuống Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam. Một báo cáo của Chương trình Môi trường LHQ cảnh báo rằng các đập nước này làm thành cả “một mối đe dọa đối với tương lai của con sông và khả năng sinh sôi của nó.” Hồ Tonle Sap của Cambodia cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng, nhưng nhịp độ nuôi và đánh bắt cá ở hạ lưu sông Mekong đoạn chảy qua Việt Nam cũng bị ảnh hưởng xấu theo. Bắc Kinh cũng có quyền lựa chọn làm giảm dòng chảy để phục vụ cho những mục tiêu chiến lược của họ.

Năm ngoái, giữa khi những điều đó đang diễn ra, một trang mạng của Trung Hoa, sina.com, cho đăng những chi tiết về một kế hoạch có chủ đích tiến công Việt Nam. Theo kế hoạch đó, sau năm ngày bắn phá trên không xuống và từ biển vào, 310.000 quân Giải phóng [Trung Quốc] sẽ theo ba hướng để chiếm Hà Nội và xa hơn nữa. Thông thường thì một sự kiện trên internet như vậy phải được coi như của những tay chơi ghêm không chuyên nghiệp nghĩ ra, trừ trong trường hợp này, “kế hoạch” lại được đăng lại trên các trang mạng khác của Trung Hoa, và Bắc Kinh thì im re. Chính phủ Việt Nam, sau hai lần triệu tập quan chức ngoại giao cấp cao Trung Hoa để phản đối, đã quyết định ra công khai để tuyên bố rằng cách hành xử như vậy là phá hoại các mối quan hệ song phương.

Việc Bắc Kinh thúc đẩy đất nước đạt tới thể chế đại cường quốc thế nào cũng tác động tới tất cả các nước lân bang của nó. Những con đường đi được trong mọi thời tiết từ Trung Hoa sang Lào chẳng hạn đã thu hẹp ghê gớm trình độ phụ thuộc của Lào vào Thái Lan hoặc Việt Nam. Những khẳng định như đinh đóng cột của Trung Hoa với vùng biển Nam Hải tập trung không chỉ cho Hà Nội và Manila cùng với Kuala Lumpur mà cho cả Tokyo, Seoul và Đài Bắc nữa. Nhưng cho đến nay vẫn còn có ít dấu hiệu cho thấy có những trao đổi ý kiến giữa các nước trong vùng ngoại vi Trung Hoa, lại càng có ít những đáp ứng có tính phối hợp giữa họ với nhau.

Theo ông Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, các nhà lãnh đạo Trung Hoa “không bao giờ chơi cờ từng nước một cả, họ không bao giờ đeo đuổi chỉ một mục tiêu trong cùng một thời gian, và họ bao giờ cũng có những bước đi và những con bài dự trữ”. Ông Dy nói thêm rằng các nhà lãnh đạo của Việt Nam không thể giả định việc làm sống lại mối tình hữu nghị của những năm 1950 và đầu 1960, hoặc giả định rằng các vấn đề nội bộ của Trung Hoa sẽ giúp cho Hà Nội dễ thở một chút. Giống như nhiều nhà phân tích Việt Nam khác, ông Dy hy vọng Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò quyết đoán hơn đối với Trung Hoa, nhưng ông Dy vẫn thừa nhận rằng các áp đặt về kinh tế sẽ ngăn cản Washington hành động như vậy. Trong khi đó, Trung Hoa vẫn tiếp tục nâng cấp khả năng trên biển và trên không của họ.

Cho tới rất gần đây, các nhà khoa học và nhà báo Việt Nam không thể nào công bố điều gì có tính phê phán nước Trung Hoa đương đại. Vào tháng Tư, một tờ báo bị đóng cửa vì đăng các bài về tranh chấp lãnh hải với Trung Hoa. Điều tốt nhất các biên tập viên có thể công bố là những câu chuyện về giúp đỡ ngư dân ngay tại Trường Sa, một vùng đảo san hô mà các tài liệu ngay từ thế kỷ XVIII đã chứng minh mối quan hệ của Việt Nam với các đảo ở đây. Nhưng bây giờ, vấn đề khai thác bauxite lại đang được tranh biện mạnh mẽ và rộng rãi. Quốc hội đã thảo luận về những hệ quả và xem xét các phương án. Các quan chức chính quyền nói rằng dự án toàn bộ có thể bị cắt một nửa. Mặt khác, Việt Nam từ lâu vẫn quen với việc Đảng Cộng sản tỏ ra nhượng bộ chiến thuật để tránh bị phê phán, sau đó thì họ sẽ làm câm miệng những tiếng nói phê bình và cứ tiến hành, ban đầu định thế nào bây giờ cứ làm như thế. Một quan chức cấp cao hé lộ một chút về việc ông cảm thấy mất kiên nhẫn, và ông thừa nhận sự kính trọng tướng Giáp như một vị anh hùng cao niên, nhưng ông lại nói thêm ngay lập tức, “Bây giờ chúng tôi nằm dưới sự lãnh đạo của Chính phủ đương thời và của Đảng Cộng sản”.

Ở chỗ riêng tư, người dân gọi một số vị lãnh đạo Đảng Cộng sản là “quá gần gũi với Trung Hoa”. Những người khác lại được nói là người ta vẫn đang tìm cách lôi Washington làm đối trọng với Bắc Kinh. Ngay cả các quan chức Việt Nam đương nhiệm cũng nói với người nước ngoài về “vấn đề Trung Hoa” theo cung cách không thể có nổi chỉ vài ba năm trước đây. Một thời gian dài, các cơ quan tình báo của cả Việt Nam và Trung Hoa đều đã tích lũy được vô số hiểu biết về giới tinh hoa chính trị đôi bên, và giả định là hai bên đang tìm cách khai thác những bất đồng về quyền lợi, về quan điểm và về cách lựa chọn chính sách của nhau.

Tại nước Úc, mọi người đang thảo luận đánh giá Trung Hoa được khơi mào từ cuốn Sách trắng Quốc phòng 2009. Tôi cảm thấy đang xuất hiện một song đề lệch lạc, đó là chuyện sức mạnh quân sự gia tăng của Trung Hoa nên được coi là một mối de dọa hay coi đó là hệ quả tự nhiên của một cường quốc kinh tế đang lên. Kinh nghiệm của Việt Nam chứng tỏ rằng các mối quan hệ với Trung Hoa không phải là chuyện được ăn cả ngã về không, ở đây thường có vô số ảnh hưởng và khả năng cùng tham gia tác động. Đối với vấn đề biển Nam Hải, Việt Nam sẽ tìm cách giảm nhẹ sự thỏa hiệp trong thương lượng dựa trên quyền lợi cùng chia nhau, đồng thời chuẩn bị cho khả năng Trung Hoa sẽ lựa chọn đối đầu. Khoảng cách xa giữa Australia với Trung Hoa không có nghĩa là nước Úc không bao giờ có thể gặp những hoàn cảnh tương tự như của Việt Nam.
D. M.
PT dịch
HC Mạng Bauxite Việt Nam biên tập.

David G. Marr là Giáo sư ưu tú Đại học Quốc gia Australia, với gần nửa thế kỷ kinh nghiệm nghiên cứu Việt Nam. Ông mới hoàn thành cuốn sách tiêu đề Việt Nam 1945–50: Nhà nước, Chiến tranh và Cách mạng.

Nguồn: In ngày 31 tháng Tám, 2009 trên trang mạng Inside Story (thuộc Viện nghiên cứu Xã hội của Đại học Công nghệ Swinburne kết hợp với Đại học Quốc gia Australia; nhiều bài của mạng này được chọn đăng trên mục Diễn đàn báo Canberra Times).



No comments:

Post a Comment