Wednesday, July 8, 2009

HỢP TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN và CHỦ QUYỀN LÃNH HẢI TRÊN BIỂN ĐÔNG


“Hợp tác chiến lược toàn diện” và chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông
Lê Hoàng, Vietsciences
07/07/2009
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/hoptacchienluoctoandien.htm

Những bài cùng tác giả

TQ đòi lấy 80% biển Đông
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/images/luoibo.gif

Mấy ngày qua, truyền hình TQ liên tục phát ra những cảnh bắt bớ ngư dân Việt Nam ở vùng biển thuộc vịnh Bắc bộ, chung quanh quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa theo lệnh cấm đánh cá đơn phương của họ ! Lính tuần tra TQ với súng ống, vòi phun nước dùi cui… mặc sức “đàn áp” xua đuổi và bắt bớ các ngư dân Việt Nam, thậm chí đưa họ về các đảo hải quân Trung Quốc đang chiếm đóng ở Hoàng Sa giam giữ, bắt kí biên bản “phạm luật”, “xâm phạm” vùng biển hay đánh cá trái phép và phạt tiền lên đến nửa tỷ đồng… nghĩa là qua hành động này, phía TQ đã công khai tuyên bố Biển Đông thuộc chủ quyền của họ, họ có quyền “hành xử luật pháp” Trung Quốc một cách ngang nhiên ! Ít nhất là qua những hình ảnh này, Hải quân TQ đã “thị uy” được sức mạnh của mình trên biển đông mà phía VN chẳng làm gì được ngoài những tuyên bố mang tính chiếu lệ về chủ quyển như mọi khi. Lệnh cấm của TQ đưa ra vào đầu tháng 5/2009 thế mà sau hơn hai tuần lễ, kể khi một số tàu đánh cá bị vây bắt, đánh chìm vào 20/5/2009, vào ngày 9/6/2009 Hội nghề cá Việt Nam, các hội nghề cá địa phương mới được phép lên tiếng phản đối yếu ớt, ra lời khuyên ngư dân tập trung đi ra khơi thành đoàn để tự bảo vệ mình . Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hiệp hội Hải sản Việt Nam cho rằng phản ứng của Việt Nam với vấn đề này là quá trễ, tuy nhiên là “cần thiết nhằm khuyến khích ngư dân Việt Nam tiếp tục hoạt động đánh bắt cá của họ” (1). Đại tướng Lê Văn Dũng, phụ trách Tổng cục chính trị Quân dội Nhân dân khuyên rằng “không nên vào vùng biển đang có tranh chấp” trong khi các ngư thuyền của các tỉnh miền trung đang vào mùa thu hoạch, đánh bắt tại vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh hải của ta sau khi một số tàu đánh cá bị vây bắt (2). Hơn thế nữa, hành động nầy rõ ràng mang mục đích gây ấn tượng với thế giới rằng biển đông vẫn là của TQ, chủ quyền không thể “tranh cãi’ như lời tuyên bố của Tần Cương, người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ trước sự phản kháng của phía VN. Điều này hoàn toàn bất lợi cho VN mỗi khi vấn đề chủ quyền trên Biển Đông đã trở thành một sự thật đã rồi (fait accompli) cho dù hiện nay hay sau này phía VN có kêu la, trưng bằng chứng thế này thế khác.
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/images/phat-danhca02.jpg
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/images/phat-danhca.jpg

Điều này có thể thấy qua việc TQ chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và một số đảo của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988. Trong suốt 35 năm qua quân đội Trung Quốc luôn củng cố và tăng cường lực lượng canh giữ ngày càng hiện đại, trở thành một căn cứ quân sự vững chắc của TQ trên Biển Đông để khống chế và lấn chiếm ! Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào ngày 28/12/2006 trước lãnh đạo hải quân TQ, tuyên bố ”Chúng ta phải cố gắng xây dựng một lực lượng Hải quân Nhân dân hùng mạnh có thể đáp ứng được sứ mạng lịch sử trong một thế kỷ mới và một thời kỳ mới” (3). Sứ mạng lịch sử đó là gì ? Phải chăng là nhu cầu về dầu mỏ, khí đốt… khống chế biển đông để phục vụ chính sách “phú quốc cường binh” và học thuyết “Đại Đông Á” kiểu mới mang màu sắc Trung Quốc, đầy tham vọng của một nước lớn?
Tốc độ phát triển kinh tế với mức tăng trưởng cao, luôn trên 10% GDP trong hơn hai thập niên qua càng làm cho những nhà lãnh đạo TQ nóng lòng trước việc “bỏ trống” Biển Đông hơn bao giờ hết. Việc đảm bảo quyền kiểm soát của mình trong vấn đề giao thông, giữ vững con đường biển chở dầu từ Trung cận đông vượt eo biển Malacca qua Biển Đông là sống còn đối với TQ, vì vậy việc tăng cường hạm đội, lực lượng tuần tra trong những năm qua cũng không nhằm mục đích nào khác (4). GS Hiramatsu Shigeo (Nhật) phân tích: “Cải cách kinh tế và chính sách mở cửa của Đặng Tiểu Bình đã cho phép Trung Quốc đạt được thành quả đáng kể về phát triển kinh tế, nhưng mặt khác sự phát triển này cũng tạo nên nhu cầu năng lượng ghê gớm. Một kết quả cụ thể khi sản xuất không đủ tiêu dùng là Trung Quốc đã biến từ một nước xuất khẩu sang một nước nhập khẩu dầu. Điều này khiến việc phát triển các khu khai thác dầu lửa dưới đáy biển gần quanh lục địa trở nên thiết thân. Trung Quốc cũng tỏ ra rất quan tâm tới dầu lửa miền Cận Đông” (5).
Thực tế Trung Quốc đã là nước nhập khẩu dầu mỏ lớn thứ hai, sau Mỹ, Dự kiến đến năm 2010, lượng nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc mỗi ngày sẽ tăng gấp đôi, đạt 4 triệu thùng/ngày và đến năm 2030 vào khoảng 10 triệu thùng/ngày (6).

Nhìn một cách khách quan, việc đối phó của nhà nước VN đối với những động thái “ra tay trước” của TQ trong vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, quyền khai thác dầu mỏ ở thềm lục địa thuộc lãnh hải được quốc tế công nhận luôn bị TQ quấy nhiễu, nhưng lúc nào Việt Nam cũng dừng lại ở giải pháp tình thế, đuổi theo “kêu gọi” một cách thụ động. Bên cạnh sự vuốt ve VN với “16 chữ vàng” và “quan hệ 4 tốt” trong những cuộc hội đàm cấp cao giữa hai nước Việt-Trung, các nhà lãnh đạo của phía đối tác hết lấn sân trên bộ qua cuộc xác lập đường biên giới mới nay chuyển sang đường biên giới trên biển, phân vùng trên vùng biển thuộc vịnh Bắc bộ và tràn xuống phía nam theo chiếc lưỡi bò mà họ đã vạch sẵn (7). Hành động này mỗi lúc càng gắt gao và mang tính dọa nạt công khai bất chấp những gì đã cam kết song phương Việt – Trung hay đa phương (giữa TQ-Asean năm 2002) về cách ứng xử hòa bình, tôn trọng lợi ích của nhau và không làm việc tranh chấp đến xung đột về chính trị và quân sự. Phải chăng một mặt giao ước như trên với các nước để kiềm chế hành động đối phó trả đũa nhưng mặt khác vẫn ra tay lộng hành áp đặt để tạo ra một trạng thái đã rồi như đã đề cập ở trên?

Nguy cơ TQ trở thành một đế quốc bành trướng mới này không phải chỉ thấy ở Biển Đông mà trên thực tế chính phủ TQ đã tiến hành việc khai thác dầu mỏ và nguồn tài nguyên thiên nhiên ở châu Phi trong một thập kỷ qua. Kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi đã tăng 50 lần hơn trong 25 năm qua (từ 1980-2005), gấp 5 lần nếu tính từ năm 2000-2006, 10 tỷ lên 55 tỷ và sẽ là 100 tỷ euro vào năm 2020. Hiện tại đã có trên 900 công ty TQ có mặt trên lục địa này với 750.000 hoa kiều (8). Đầu tư hay viện trợ không hoàn lại để bóc lột khoáng sản, đưa đạo quân công nhân không có tay nghề ở các địa phương nghèo của TQ sang châu Phi cắm dùi lâu dài với con số không dưới 500.000 người theo công bố của ông Huang Zequan, Phó chủ tịch “Hội hữu nghị nhân dân TQ với các nước” càng làm cho những ai dựa dẫm vào tình “hữu nghị” với TQ cũng phải xem xét lại mối quan hệ hàm chứa nhiều khả năng “thuộc địa hóa” đáng lo ngại (9) biểu hiện qua các phong trào tẩy chay xí nghiệp của TQ khai thác tận thu ở các nước châu Phi. Ở thủ đô Viên Chăn của Lào, một dãy phố người Hoa “mới” gần 50.000 người sang phục vụ các công trình xây dựng cho Seagames 2009, tương đương với 10% nhân khẩu của thành phố này và đi theo là các hợp đồng khai thác bô-xít, khoáng sản, thủy điện và xa lộ nối liền với các tỉnh phía nam TQ càng cho thấy ý đồ lâu dài của họ (10) .

Ngay trung tâm cao nguyên giữa ba nước VN-Lào-Cămpuchia (Tây nguyên-Attopeu-Boloven) hình thành một vùng công nghiệp khai thác khoáng sản do TQ chi phối (11) với hàng chục vạn người Hoa mới sinh sống và định cư lâu dài thì không chỉ vấn đề khai thác tài nguyên khoáng sản mà còn đi xa hơn trong chiến lược đặt ba nước này nằm dưới tầm kiểm soát về quân sự, là điều có thể hình dung một cách dễ dàng vì từ đây có thể sử dụng đường bộ, đường sắt do TQ xây dựng để thoát ra biển đông ở miền trung Việt Nam và vịnh Thái Lan qua ngõ Shihanouk Ville gần nhất. Phải chăng đây cũng là điều mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan ngại và đã viết trong thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 5/1/2009 (12).

Ngày 30/5/2008 TBT Nông Đức Mạnh và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã hội đàm tại thủ đô Bắc Kinh, nhất trí phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước lên tầm cao mới, trở thành đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (13) và gần đây nhất trong chuyên đi thăm Việt Nam vào đầu tháng 6/2009, ông Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, cũng đã “đánh giá cao sự phát triển của quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước và khẳng định Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc rất coi trọng và làm hết sức mình để phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Việt Nam theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt mà lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đã thỏa thuận”.
Ông Lý Nguyên Triều khẳng định “Trung Quốc coi Việt Nam vừa là láng giềng tốt, vừa là người bạn trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa” (14). Những điều này cho thấy quan hệ hai nước mỗi khi được nâng lên tầm “đối tác chiến lược toàn diện” có nghĩa là Việt Nam ủng hộ và hợp tác mọi sách lược của TQ, không thể phản bác hay cưỡng lại được chủ trương giành lại chủ quyền toàn diện trên Biển Đông mà họ đã vạch ra từ lâu. Nói một cách khác, như xã luận của tờ The Straits Times (Singapore) ngày 4/7/2009, rằng Việt Nam đã “chui đầu vô quỹ đạo của Trung Quốc” (15). Do đó, việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên mặc dù gặp nhiều sự phản đối của hàng trăm trí thức, chuyên gia kinh tế, khai khoáng… các vị cách mạng lão thành, tướng lĩnh từng chỉ huy ở Tây Nguyên, nhà ngoại giao… trong nhiều tháng qua vẫn không làm thay đổi được kết luận của Bộ Chính trị (16) cho phép tiếp tục xúc tiến dự án trị giá hơn 15 tỷ đô la vì trong tuyên bố chung giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản VN-TQ, dự án khai thác bô-xít này đã được nhắc lại như một lời cam kết trong sự nhất trí hợp tác chiến lược nêu trên.

Dù nhìn cảnh ngư dân giơ cao tay lên đầu trước họng súng tuần tra của hải quân TQ chúng ta không thể nén giận và cảm thấy tủi nhục khi đồng bào mình bị chúng bắt ngay trên lãnh hải Việt Nam, xâm phạm chủ quyền trắng trợn nhưng chúng ta phải đành thúc thủ, rưng rưng và ngậm ngùi. Phải chăng đây là “biểu hiện sinh động của việc xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam -Trung Quốc” như TBT Nông Đức Mạnh đã phát biểu với ông Lý Nguyên Triều trong buổi gặp gỡ tại Hà Nội ngày 12/6/2009?
Liệu “độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ (có) được giữ vững” như lời của Tổng Bí Thư đã phát biểu hôm bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào ngày 4/7/2009?

L.H.
7/2009
_______________

Chú giải:
(1) Việt Nam đề nghị TQ ngưng cản trở ngư dân (08/06/2009)
http://www.voanews.com/vietnamese/2009-06-08-voa12.cfm
(2) Đại Tướng Lê Văn Dũng “động viên bà con chú ý đánh bắt trong vùng ngư trường đã xác định chủ quyền, không nên sang các vùng còn tranh chấp căng thẳng và vùng biển của người ta”. Trả lời phỏng vấn ngày 11/6/2009
http://www.phapluattp.vn/news/chinh-tri/view.aspx?news_id=257390
(3) Theo Ngô Vĩnh Long, trích trong David Lague, “China airs ambitions to beef up naval power,” International Herald Tribune, ngày 28 tháng 12 năm 2006.
http://www.iht.com/bin/print?id=4038159.
(4) Theo ước tính của Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vùng quần đảo Trường Sa có chứa trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỷ tấn (1,60 × 1010 kg), so với 13 tỷ tấn (1,17 × 1010 kg) của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới.
(5) Theo Thời Đại Mới, số 4 – tháng 3/2005 Shigeo Hiramatsu
“China’s Advances in the South China Sea: Strategies and Objectives”. Asia Pacific Review, Vol. 8, No. 1, May 2001, tr. 40-50
“Trung Quốc tiến công trên Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông]: Chiến lược và mục tiêu”. Tạp chí Asia-Pacific Review, bộ 8, số 1, 2001
(6) ”Vài suy ngẫm về Trung Quốc” của Dương Danh Dy“Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng sự tăng trưởng lớn mạnh về kinh tế của mình có thể giữ được tốc độ cao và tương đối cao liên tục trong 40 năm (từ năm 1980 đến năm 2020) để đến lúc đó, Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu về kinh tế trên thế giới (Theo tính toán của Ngân Hàng Thế Giới năm 1997 thì đến năm 2020 GDP của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ, còn theo tính toán của Hồ An Cương – một nhà kinh tế học nổi tiếng Trung Quốc thì đến năm 2020, Trung Quốc sẽ trở thành một thực thể kinh tế lớn nhất thế giới, chiếm 22% GDP thế giới – của Mỹ lúc đó chỉ là 20%, còn nếu tính theo sức mạnh tổng hợp đất nước (tức năng lực tổng hợp của một quốc gia thông qua những hành động có mục đích nhằm theo đuổi mục tiêu chiến lược của mình)) năm 1998 của Mỹ là 22,7% của thế giới”. Thời Đại Mới, số 8 – tháng 7/2006
(7) Đường chữ U (đứt khúc) của Trung Quốc [Việt Nam gọi là đường lưỡi bò] trên biển Nam Trung Hoa: Các điểm, đường và khu vực. Peter Kien-Hong Yu
“The Chinese (Broken) U-shaped Line in the South China Sea: Points, Lines, and Zones”. Contemporary Southeast Asia, bộ 25, số 3 (2003), tr. 405-30. Tạp chí Thời Đại Mới, số 15 – tháng 3/2009(8) Xem thêm La Chinafrique—“Pékin à la conquête du continent noir”. Serge Michel, Michel Beuret. Hachette, 2/2009.
(9) Sakurai Yoshiko(NB), “Trung quốc xâm thực vào Lào bằng ngoại giao ”viện trợ”. Tạp chí Shukanshicho 18/9/2008
(10) ”La montée en puissance de l’impérialisme chinois ” và “La montée en puissance maritime de la Chine : une ambition au service d’une grandeur retrouvée”
http://bauvinal.info.free.fr/
(11) Xem xét việc đầu tư khai thác tài nguyên thiên nhiên: Vai trò ngày càng quan trọng của Trung Quốc trong khu vực sông Mê kông. Viện quốc tế vì Phát triển bền vững
http://bauxitevietnam.free.fr/
(12) Ba bức thư của ĐT Võ Nguyên Giáp
http://bauvinal.info.free.fr/
(13)
http://www.baovietnam.vn/xa-hoi/6778/12/Viet-Nam--Trung-Quoc-xay-dung-quan-he-doi-tac-chien-luoc-toan-dien
(14)
http://vovnews.vn/Home/Coi-trong-quan-he-doi-tac-hop-tac-chien-luoc-toan-dien-voi-Viet-Nam/20096/114096.vov

Ông Lý Nguyên Triều gặp TBT Nông Đức Mạnh ngày 12/6/2009
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/images/thanthien.jpg

Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh nhiệt liệt chào mừng Ðoàn thăm Việt Nam; nhấn mạnh, chuyến thăm Việt Nam lần này của Ðoàn thể hiện sự quan tâm và coi trọng của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ giữa hai Ðảng, hai nước, là biểu hiện sinh động của việc xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam -Trung Quốc; đánh giá cao việc hai nước hợp tác có hiệu quả ở các cấp, các ngành, các tổ chức nhân dân, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc lên một tầm cao mới.
http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?article=149821&sub=130&top=37
(15)
http://bauxitevietnam.free.fr/(16) Ngày 24.4.2009, Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang đã thay mặt Bộ Chính trị ký Thông báo số 245-TB/TW
Xem trên
http://irv.moit.gov.vn/.

No comments:

Post a Comment