Thursday, May 28, 2009

HỒ HỮU TƯỜNG - NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

hồ hữu tường: những ngày cuối đời
Phan Chính
28.05.2009
http://damau.org/archives/6432

“Chân dung Hồ Hữu Tường” –Tạ Tỵ. Theo Bội Trân, “Bức chân dung được thực hiện không lâu sau khi Hồ Hữu Tường được trả tự do từ Côn Đảo. Màu xám phớt chút xanh bao trùm trong bức tranh, gương mặt nhà văn/nhà chính trị Hồ Hữu Tường khắc khổ. Những nét nhăn trên mặt, đã vậy lại còn được nhấn mạnh khiến cho bao nhiêu âu lo dường như bộc lộ hết trên gương mặt, mà bộ quần áo Âu phục cứng nếp không làm phai nổi.”
http://damau.org/wp-content/uploads/bientap/hhutngnhngngycuii_9A05/hohuutuong_thumb.jpg

LTS: Bài viết dưới đây có thể được coi như một tài liệu lịch sử của nhân chứng/ tác giả Phan Chính, một bác sĩ đã chăm lo cho nhà văn/nhà chính trị Hồ Hữu Tường trong những ngày cuối cùng của ông, trước khi ông qua đời vì bệnh xơ gan cổ chướng.
Theo lời tác giả Phan Chính, Hồ Hữu Tường đã được cho phép rời trại giam ở Hàm Tân (Bình Thuận) để về Sàigòn chữa trị, nhưng xe chở ông gần về đến tư gia ở Đa Kao thì ông mất. Bài viết cũng chất vấn những dư luận trước đây (của Thụy Khuê và Đỗ Thái Nhiên) về cái chết của Hồ Hữu Tường. Lời thuật của Phan Chính về cái chết của Hồ Hữu Tường được Nhã Ca xác nhận trong Hồi Ký của Một Người Mất Ngày Tháng (Thương Yêu: 1991), qua lời cùa bà Huệ Minh, vợ Hồ Hữu Tường (”Dạ thưa … nhà tôi sống được từ trại tù, tới đầu con ngõ …tắt thở ngay đầu ngõ …, ” tr. 450-451.)

------------------------------------------------------------------

Hồ Hữu Tường (1910-1980), định nghĩa “việc chính” trên đời của ông là … Sống, và khi mà cái tiểu tiết là viết, là gì gì khác mà không hợp với đại thể là tôi gạt qua bên.” Vào năm 1926 Hồ Hữu Tường sang Pháp du học và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong như Tạ Thu Thâu và Phan văn Hùm. Trong thời gian này ông gia nhập Đệ Tứ Quốc Tế, ủng hộ lập luận của Trotsky về một giai cấp lưu động quốc tế chống đế quốc tư bàn, và cũng chống lại chính sách của Stalin chỉ chú trọng đến đường lối phổ biến xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ một quốc gia.


Vào năm 1939, Hồ Hữu Tường tuyên bố từ bỏ Đệ Tứ Cộng sản và chủ nghĩa Marx. Từ năm 1940-1944 ông bị chính phủ thuộc địa Pháp đày ra Côn Đảo cùng với các nhà cách mạng chống Pháp khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu…. Trong thời gian ở tù, Hồ Hữu Tường đã hình thành một hệ thống tư tưởng mới: chủ nghĩa dân tộc, không lệ thuộc Pháp, Trung Hoa, Nga, hay Hoa Kỳ. Ông tuyên bố: “Tôi trở về con đường dân tộc; tôi cho rằng việc giai cấp vô sản giải phóng nhân loại là một huyền thoại lớn của thế kỷ 19 và tiềm năng cách mạng của giai cấp vô sản ở châu Âu và Bắc Mỹ là một huyền thoại lớn của thế kỷ 20.”

Vào năm 1953, Hồ Hữu Tường đưa ra giải pháp Trung lập chế (Neutrality). Năm sau ông sang dự hội nghị Genève, ra sức vận động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng không thành công.

Tháng 3 năm 1955, Hồ Hữu Tường bị bắt vì làm cố vấn cho Mặt trận Thống nhất (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm.

Năm 1957, Hồ Hữu Tường bị kết án tử hình, nhưng nhờ Albert Camus viết thư can thiệp nên chỉ bị đày ra Côn Đảo. Vào cuối tháng Giêng năm 1964, Hồ Hữu Tường được trả tự do sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Ra tù, ông viết bài cho tờ Ánh Sáng và đưa ra giải pháp Siêu lập: đề nghị Liên Hiệp Quốc hóa miền Nam Việt Nam.

Năm 1965, ông làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1967, Hồ Hữu Tường trúng cử dân biểu đối lập trong Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa. Thời gian này ông cũng tham gia viết bài cho các tờ báo: Tiếng Nói Dân tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Sài gòn Mới, Điện Tín v.v…

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị bắt đưa đi học tập cải tạo. Ông mất vào ngày 26 tháng 6 năm 1980 tại Sài Gòn.

Hồ Hữu Tường có tư thế của một cây đại thụ trên lĩnh vực báo chí, văn học và còn là một nhà chính trị độc lập nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975. Cuộc đời ông có cái duyên nợ với mảnh đất La Gi- Hàm Tân (Bình Thuận) như một tình cờ nhưng với tôi lại có những điều đáng nhớ. Tập “Kể chuyện” (Huệ Minh xuất bản 1965) gồm 9 câu chuyện kể viết cùng Nguiễn Ngu Í là một nhà văn nhiều giai thoại và cách tân chữ viết, quê ở Hàm Tân. Như một định mệnh, Hồ Hữu Tường có những ngày cuối đời sau 70 năm thăng trầm khổ ải rồi dừng lại ở đây.

Trên một số trang Web từ nước ngoài đều ghi rằng Hồ Hữu Tường sau những năm cải tạo, được trả tự do và mất tại Gia Định. Có trang viết một cách mập mờ là “Hồ Hữu Tường- một người chết u uẩn” có gì đó ám chỉ về chế độ lao tù. Thật sự theo tôi không có chuyện “được trả tự do, ít lâu sau mất” hoặc “cái chết u uẩn” như Thụy Khuê, Đỗ Thái Nhiên kể…Nhưng có chính xác ngày chết của Hồ Hữu Tường là ngày 26.6.1980. Thời gian này tôi đang làm việc tại Bệnh viện huyện Hàm Tân ( tỉnh Thuận Hải- năm 1992 trở lại tên Bình Thuận) phụ trách phòng Y vụ, một bộ phận trực tiếp với Giám đốc về chuyên môn. Đây là cơ sở cũ trước ngày giải phóng 23/4/1975 là Bệnh viện phối hợp Dân Quân y tỉnh Bình Tuy mà tôi cũng từng làm việc ở đây dưới lớp áo Quân y VNCH.

Năm 1980, bệnh viện này là tuyến huyện với 120 giường, tình trạng trang thiết bị hầu như tận dụng lại những gì đã có, tiếp tục hư hỏng ngày càng nhanh và nhếch nhác. Số bác sĩ cũ không còn, một số có trình độ trung cấp, sơ học được sử dụng lại gọi là lưu dụng nhưng lần lượt bị loại dần do lý lịch… bù vào số cán bộ từ khu về, từ Miền Bắc chi viện. Ngoài 5-6 bác sĩ còn lại rất nhiều chức danh Y sĩ (xếp ngang trình độ trung cấp y tế sau này), được quyền mang ống nghe khám bệnh kê đơn, giữ các chức vụ Bệnh viện phó, trưởng khoa, nhưng các tên thuốc Tây chỉ viết toa thuốc bằng phiên âm theo cách đọc- Trong khi đó Cán sự điều dưỡng học 4 năm chỉ xếp là Y tá trung cấp, làm theo chỉ định của Y sĩ. Có lúc chiếc máy X Quang với chức năng chụp phim chẩn đoán rất hiện đại, đặt trong phòng có vách chì cản tia phóng xạ độc hại cho người lại bị đập bỏ cho rộng và chỉ dùng bộ phận rọi ( gọi là rọi kiếng) tức xem trực tiếp theo kiễu cũ cách đó trên 20 năm. Kết quả thế nào tùy thuộc do nét bút vẽ mô tả của Y sĩ đứng máy thay vì có phim như trước đây. Thuốc men thì cũng rất khó khăn phải phát động phong trào đông tây y kết hợp. Loại thuốc Xuyên-tâm-liên, trị bá bệnh tức bệnh nào cũng uống được, mỗi lần hàng chục viên đắng đến nỗi… hết bệnh. Sốt xuất huyết thì cây cỏ mực chưng cất thành xi rô, sốt rét có lá mãng cầu ta sao vàng sắc uống … Các loại Vitamine tiêm thì cao cấp hơn như B1, B6, B12 được mua hoá chất từng ký về hòa nước cất sản xuất tại chỗ, vào ampule hoặc lọ Pénicillin đã dùng …Dịch truyền loại 5%, 10% cũng vậy. Dây chuyền, kim tiêm phải luộc đi luộc lại nhiều lần để tiết kiệm, được coi là có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Không có băng keo cố định kim tiêm dịch truyền cho bệnh nhân được thay bằng sợi dây nang lá buông.

Tôi nhớ đến Đỗ Hồng Hùng, là dược sĩ đại học Y Sài Gòn, bị động viên mang lon trung úy, gia đình liệt sĩ, đi cải tạo 3 năm về xin làm xã viên HTX Phân hữu cơ, ngày 4 tiếng đồng hồ phải dầm mình xuống Bưng Ngang đĩa bám rát da, anh trân mình ngụp lặn móc từng vốc bùn để trộn tro rơm rạ chế biến phân bón. Mãi sau này nhờ có ông anh con bác ruột làm Phó chủ tịch huyện, bệnh viện nhận vào để “pha chế” thuốc… đông y.

Bệnh dù có nặng mấy đi nữa cũng phải đi theo hệ thống tuyến xã, huyện , tỉnh, trung ương…cơ quan, đơn vị ở địa bàn nào cũng theo con đường đó. Từ Bệnh viện huyện muốn chuyển bệnh nhân lên bệnh viện tỉnh phải có biên bản tập thể Y bác sĩ các khoa hội chẩn, cho nên có trường hợp bệnh sản đẻ khó mà bác sĩ, y sĩ khoa Nhi hoặc Đông y cũng được tham dự và cho “quan điểm”. Có khi phải xin thêm ý kiến Bí thư Chi bộ dù anh ta chỉ là cán bộ chính trị. Có sự ràng buộc đó cũng vì sự khắt khe quái ác của các chỉ tiêu tử vong, chuyển viện…Nhiều quá thì mất điểm thi đua. Như vậy thì không thể nào có bệnh nhân được chuyển thẳng về các Bệnh viện ở Sài Gòn dù biết bệnh tình có ra Phan Thiết cũng chào thua.

Trước đó không lâu, tôi là một trong những người trực tiếp với trường hợp đại sứ Đinh Bá Thi, là đại sứ đại diện Chính phủ CHXHCNVN ở Liên Hợp quốc (tại Mỹ) về nước công tác tại Bộ Ngoại giao. Chuyến xe đi mua hàng thực phẩm mỗi sáng sớm của Trại giam Z30C chở 4 nạn nhân và 1 trẻ em đến bệnh viện. Ông Thi bị vết thương đầu lột cả mảng da tóc khá rộng, còn người vợ bị nhiều chấn thương đã hôn mê. Người chị vợ, anh lái xe và đứa cháu ngoại 7 tuổi của ông Thi chỉ xay xát nhẹ. Lúc vào viện Ông Thi còn tỉnh táo và bảo cố gắng chăm sóc người khác, ông không tự giới thiệu mình là ai! May mà anh Lái xe còn tỉnh táo mới cho biết đó là ông Đinh Bá Thi trên đường công tác sau đêm ngủ tại nhà khách Uỷ ban tỉnh ở Phan Thiết, sáng đi Thành phố Hồ Chí Minh đến căn cứ 8 thì bị một chiếc xe tải cùng chiều ép làm cho chiếc Comancar lật nhào mấy vòng. Tôi nhận ra đây là một yếu nhân, biết tiếng ông từng là người cùng bà Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam tại bàn hoà đàm Paris. Sau này biết thêm, ông trên đường đi truyền đạt chỉ thị quan trọng trước sự đe dọa can thiệp của Trung Quốc với chiêu bài cứu nạn kiều Sài Gòn khi chiến tranh biên giới vừa nổ ra. Sau mấy giờ cấp cứu chờ xe 05 của Bệnh viện Tỉnh đưa đội phẩu thuật vào thì ông Đinh Bá Thi tắt thở, xác quàng tạm ngay trong phòng mỗ chờ ý kiến của Tỉnh. Huyện giao cho Xí nghiệp cơ khí gấp rút làm chiếc hòm kẽm có thêm một lớp chứa được đá lạnh để giữ tươi thi hài đem đặt tại hội trường Ủy ban huyện. Khuya đêm đó xe của Văn phòng đại diện Bộ Ngoại giao phía Nam ra và chuyển vào áo quan đem về Sài gòn. Nhắc đến sự kiện này để thấy tình trạng nghèo nàn của hệ thống y tế dù đã gần 6 năm giải phóng. Nhiều người so sánh nếu có máy bay cấp thời chở ông Thi về Chợ Rẩy có khả năng qua khỏi.
Cách bệnh viện chừng 300 mét, phía sau nhà Bưu điện bây giờ trước giải phóng có một sân bay trực thăng, bất cứ đêm ngày có bệnh nặng cần chuyển cấp cứu đều đáp xuống chở ra Hạm đội 7 hoặc bệnh viện dã chiến Long Bình.

Trở lại trường hợp Hồ Hữu Tường, khoảng đầu tháng 6 năm 1980, xe của Trại giam Z30C chở đến với yêu cầu điều trị. Trên địa bàn Hàm Tân, xã Tân Minh lúc này có 2 trại giam Z30C và Z30D nằm liền kề, còn gọi là trại Thủ Đức, rộng hàng ngàn hec- ta đất rừng tiếp giáp Núi Bể và cặp đường quốc lộ I, giáp ranh đất tỉnh Đồng Nai. Tù nhân cải tạo hầu hết là thành phần quan chức, sĩ quan tướng tá chế độ cũ và mắc tội chính trị chống đối sau này. Nay nhập một gọi là Trại Z30D thuộc Cục quản lý Trại giam (V26) Bộ Công An, xe chạy bắc-nam ngang qua thấy trạm xăng Đức Khải rất đồ sộ với màu sắc đỏ mà chủ nhân là người có tên Anh Lâm, trước đây bị án chung thân về tội buôn lậu, cũng là tù nhân “siêu đặc biệt” của trại này.
Trước khi đến Trại giam Z30C, từ năm 1977 Hồ Hữu Tường đã vào tù từng qua các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hoà và Long Bình…Theo cán bộ canh giữ, ông được giao chăm sóc vườn thuốc nam Bệnh xá của Trại. Hồ Hữu Tường cao lớn, cặp vành tai của tướng mạo trường thọ, tóc đậm sắc muối tiêu còn đi đứng được. Trong hồ sơ có ghi đến chức vụ của ông tham gia tổ chức phản động là Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa trung lập phục quốc Việt Nam gì đó, tôi nhớ chưa đầy đủ lắm! Chẩn đoán là Xơ gan cổ chướng, bụng ông to độn lên áo trông thấy rõ. Nhập vào khoa Nội 2, bác sĩ Nguyễn Văn Thảo phụ trách.

Với tên tuổi của ông làm khuấy động sân khấu chính trị miền Nam từ thời Diệm đến Thiệu….Mới đó, Hồ Hữu Tường với danh nghĩa dân biểu Hạ nghị viện đã cùng báo giới làm cuộc biểu tình “Ngày ký giả ăn mày” (10/1974) đòi tự do báo chí. Rất sớm, năm 1926 Hồ Hữu Tường sang Pháp học đại học Marseille, đỗ thạc sĩ toán đại học Lyon…rồi làm chính trị, làm báo, viết văn…rồi thời Pháp thuộc, đến lúc Mỹ sang và sau cùng là Thiệu tù tội với ông đều nếm trải, Diệm từng kêu án tử hình và có văn hào Pháp Albert Camus viết thư can thiệp. Trong hàng chục tác phẩm của Hồ Hữu Tường tôi chỉ nhớ được một ít tựa sách và chỉ đọc đôi quyển như Phi lạc sang Tàu, Phi lạc đại náo Hoa Kỳ, Kể chuyện, Luận Lâm, Người Mỹ ưu tư…Trong bài tựa của tập kể chuyện, ông viết :”…Mục đích của tôi là lập một cuộc tạ ơn những vị giáo sư đã dạy tôi viết văn nhà quê, hoang đường, trào lộng và châm biến, đặc biệt của nông dân miền Tây nam bộ vào đầu thế kỷ XX này”…

Ông sinh ra ở Cái Răng, Cần Thơ đã thấm đậm cái chân chất Nam bộ nhưng ông là con người có tư tưởng xuất chúng hiếm hoi. Ông thật lòng nói, “thầy dạy là những người bạn có lúc đồng chí hướng như Phan Văn Hùm “ khuyến khích và chịu khó năn nỉ dạy không công cho tôi viết văn, tôi lại lười biếng”.! Nhiều chính khách nhận xét về Hồ Hữu Tường là con người của chủ nghĩa dân tộc, người đề xướng giải pháp trung lập chế v.v…Với những điều đó tôi hiểu rất lờ mờ, đơn giản chỉ thấy lay động trước tên tuổi một Hồ Hữu Tường.

Ngay chiều ấy tôi ghé nhà cậu ĐĐC- Châu Anh báo tin này vì Châu Anh là bạn Nguiễn Ngu Í biết Hồ Hữu Tường khi làm báo ở Sài Gòn nhưng cậu ngại không đến thăm. Là tù nhân chính trị nên Trại cử một anh Công an theo canh giữ nên không ai dám đến gần bắt chuyện dù là nhân viên y tá trong khoa. Tôi có lợi thế làm công tác y vụ tức bộ phận quản lý điều hành chuyên môn ở Bệnh viện nên có lý do tiếp xúc với ông công khai không bị ai dòm ngó. Ông than với tôi chiếc mùng vải xô của bệnh viện phát bị thủng rách nhiều chỗ quá, muỗi chui vào cắn không ngủ được. Thêm nữa, tôi hỏi ông thèm ăn gì ? Ông nói cá, cá…Nhà tôi ở xóm Phò Trì cách bệnh viện 2 cây số, đi làm bằng chiếc xe đạp cọc cạch thường tuột xên, nhà chỉ có một chiếc xe này may là vợ tôi đi dạy học ở một trường nhỏ gần nhà. Vợ tôi mua mấy lát cá thu, chỉ tẩm một ít gia vị, chút nước mắm nhạt vì bệnh ông không được ăn mặn. Hai lát cá thu vừa đủ trong một hộp nhựa để mang đi kín đáo. Ông ăn một cách ngon lành và trông ông hiền từ như ông Phật. Tôi gói mấy đoạn chỉ và kim may để ông vá lại các lỗ thủng chiếc mùng. Ông cứ loay hoay vá, lại vá, tôi hỏi bác làm gì nhọc vậy. Ông cười, quen rồi đời tôi cũng thế, phải vá mãi! Trong cái túi đồ dùng của ông có nhiều thuốc Tây ngoại và ma-gi (xì dầu) cũng ngoại, ông nói nhờ các con ở nước ngoài gởi về.

Khi ông có chút tin tôi, ông mới nhờ tôi nhắn tin cho gia đình. Lúc ấy chỉ có viết thư điện tín ở Bưu điện, chuyển bằng moọc tít tít te te. Hai ngày sau vợ ông - bà Nguyễn Huệ Minh đi xe than từ Sài gòn ra đến Bệnh viện gần cuối chiều. Hai ông bà ôm chầm lấy nhau một cách tự nhiên ở ngay hiên khoa nội, làm ai cũng thấy lạ nhưng thật bùi ngùi. Tôi lén lút đưa bà về nhà tôi để tắm rửa và bàn chuyện bệnh tình của ông vì sau mấy ngày nhập viện bệnh ông có triệu chứng nặng hơn, theo chuyên môn phải chuyển viện, mỗi ngày phải dùng bơm tiêm lớn chọc dò rút ra cả lít dịch axit từ màng bụng ông mới dễ thở. Chỉ báo lại trại Z30C họ sẽ mang ông ra bệnh viện Phan Thiết thôi, là xong. Nhưng ra đó là chết và coi như chết trong tù, chôn cất theo tù… Tôi nghĩ đến điều đó phải xảy ra.

Tôi không có một xu hướng chính trị nào, trước đây cũng vậy dù Cộng sản hay Quốc gia, chỉ mong đợi hoà bình, bên nào cũng được…Hồi năm 1974, Thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang, Tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu QLVNCH ký lệnh thuyên chuyển số 11075 đẩy tôi về Bệnh viện Tiểu Khu An Xuyên (Cà Mau) với lý do ghi rõ: Có tư tưởng hành động chống chánh phủ cũng như chánh quyền địa phương” cho đến sau ngày giải phóng tuy còn tiếp tục làm việc với ngành y nhưng không phải yên ổn gì, mỗi năm không ít 3-4 lần khai lại lý lịch. Những câu hỏi của cơ quan an ninh từ một hồ sơ nào đó trong tàng thư của cơ quan Cảnh sát VNCH để lại (sau này tôi biết có Phiếu điều tra lý lịch của Ty CSQG Bình Tuy lập 5/5/1974) ghi về mối quan hệ anh em với Dân biểu Trần Ngọc Châu và Điệp báo Cộng sản Trần Ngọc Hiền ( Trần Ngọc Hiền vào Nam hoạt động lúc Trần Ngọc Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hoà tức Bến Tre và Hiền bị bắt lúc Châu là dân biểu Tổng thư ký Hạ viện). Sự thực Trần Ngọc Châu với tôi là anh em cùng mẹ khác cha, còn Trần Ngọc Hiền với Châu là anh em cùng cha khác mẹ. Nhưng lúc này Trần Ngọc Châu đã bị Tổng thống Thiệu bỏ tù không liên quan gì.

Với Hồ Hữu Tường, tôi ngưỡng mộ ông ở văn tài, con người minh triết chứ tôi không mê ông ở phương pháp hành động. Đọc truyện “Con thằn lằn chọn nghiệp” trong tập“Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta” (NXB Sóng-Sg 1974) cũng theo lời bà Huệ Minh là ông tâm đắc nhất. Phải chăng kiếp con thằn lằn có gì đó là hình ảnh của kiếp người ông đang cưu mang? Suốt đời lầm lũi tìm đủ phương kế ngăn chặn kẻ cuồng tín, u mê, tự hủy hoại, giết hại nhau… vì một mục đích hão huyền, lại cho đó là thiên đường! Chuyện kể trong tù, một hôm có người tù trẻ cùng phòng hỏi Hồ Hữu Tường : Bác Tường ơi, bác biết tại sao từ thời Pháp đến Mỹ, rồi cả bây giờ bác cứ ở tù dài dài không? – Ông nói, mày trả lời giùm tao đi! Anh ta nhanh nhẩu:- Dễ quá, Bác có tên là Hữu Tường nên bác “hưởng tù” dài dài thôi! Ông trầm ngâm, có thể thằng này nói đúng!

Như có cùng một suy nghĩ, Bác sĩ Thảo làm rất đầy đủ bệnh án của một bệnh nhân bị đe dọa tử vong bất cứ lúc nào. Bác sĩ Thảo học y khoa Huế trước giải phóng và sau giải phóng mới tốt nghiệp rồi xin về Hàm Tân. Sau này lấy vợ cùng ngành rồi đi theo đường bảo lãnh qua Mỹ. Tôi nhanh chóng hoàn tất hồ sơ cho Giám đốc bệnh viện Vương Xuân Long ký với yêu cầu Z30C sớm đưa về chữa trị ở Sài gòn, đây là một ngoại lệ. Có sự bàn bạc thế nào ở Trại giam và họ báo với bà Huệ Minh phải làm đơn bảo lãnh xin đưa về Sài gòn. Sau đó bà Minh quay về Sài Gòn và thay bà là người em gái của ông. Mấy ngày sau, Z30C có văn bản của Bộ Công An quyết định tạm tha Hồ Hữu Tường để đi điều trị. Có lẽ ai cũng tiên lượng được tình trạng bệnh tật của ông đã liền kề cái chết và cũng tránh dư luận xấu về cách đối xử với một nhân vật nổi tiếng nên dễ dàng có một quyết định như thế.

Được biết trước khi ông chuyển về trại Z30C, có phái đoàn Ân Xá Quốc Tế đến thăm hỏi và can thiệp. Có được giấy tạm tha, nhưng người em gái của ông với tuổi ngoài 60 chân quê, không tính toán được gì và tôi phải làm một cái gì giúp ông. Tôi gặp người bạn Nguyễn Phát Minh, anh có chiếc xe tải Daihatsu chở cá ướp đá chạy đường Quốc lộ 46 – La Gi, giá xăng xe 200 đồng để gấp rút chở ông về Sài Gòn. Xe ghé nhà tôi lấy chiếc nệm giường cá nhân, lót lên sàn xe và lên Bệnh viện nhận bệnh. Lúc ấy bác sĩ Nguyễn văn Khánh, chuyên khoa răng - muốn về thăm nhà, tôi can thiệp để bác sĩ Khánh nhận làm y tá chuyển bệnh. Tôi báo lại cơ quan có việc nhà xin nghỉ phép, lánh mặt về nhà dắt con gái Bảo Vy 6 tuổi lên đầu dốc Tân An đón xe chở ông lên.

Xe đến Tân Minh thì trời mưa tầm tả. phải dừng lại để kiểm tra khi qua mấy trạm quản lý thị trường vì đây là loại xe thường chở hàng hải sản. Chai dịch chuyền đong đưa dưới mui xe cạn dần và tôi phải tiêm cho ông mấy mũi campho…Xe đến Gia Định khoảng 5 giờ chiều, hướng về nhà ông ở Đa-kao vì trước đây bà Huệ Minh nói nếu đưa được ông về Sài gòn thì có người bạn thân là bác sĩ Lương Phán, bác sĩ Nguyễn Thị Lợi chăm lo.

Theo giấy chuyển viện chỉ được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẩy thôi nhưng tôi chuẩn bị thêm một giấy chuyển viện ký khống để dự phòng. Với ý định ghé nhà để hỏi ý kiến vợ ông quyết định. Chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang Khải là đến nhà, Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe. Lúc này cảnh nhà trống vắng không có ai, mới biết bà Huệ Minh vừa ra Hàm Tân hồi sáng nay. Người em gái ông loay hoay cùng tôi và Minh khiêng xác ông vào nhà. Tôi chỉ kịp thấy căn nhà lầu bề thế, phòng khách có một bức tranh rất rộng treo trên tường. Chuyện tiền xe lúc này tôi không dám hỏi để trả cho Minh đổ xăng vòng về, nhưng có hỏi thì biết ai. Chúng tôi về Phú Thọ ngủ lại đêm nhà em tôi và sáng ghé qua nhà ông, bà Huệ Minh chưa thể về kịp, người em gái ông gởi lại tiền xăng cho Phát Minh….

Từ ngày đó tôi không còn liên lạc gì dù nhiều lần về Sài Gòn vì không muốn vương víu đến chuyện nghĩa ơn. Sau này bà Huệ Minh cho tôi biết, khi bà từ Hàm Tân về nhà thì tin dữ đến với gia đình. Hồ Xích Tú người trai đầu của ông bà bị bắt tại Bến Tre do vượt biên. Trước giải phóng Tú là giám đốc Nha nhân viên hàng không nhưng trong những ngày cuối cùng Sài Gòn sụp đỗ, Tú chần chờ để cùng với cha ra đi nhưng Hồ Hữu Tường tin rằng mình là người yêu nước, quyết định ở lại. Sau này nghe nhà văn Lê Phương Chi nói đám ma Hồ Hữu Tường đông lắm, có nhiều người không dám nhập vào đoàn đưa tang mà âm thầm đi trên lề đường đưa tiễn. Anh còn gợi ý tôi viết lại chi tiết những ngày cuối của Hồ Hữu Tường, đó là một nhân vật đặc biệt kỳ tài.

Khoảng tháng sau tôi nhận được dòng thư ngắn của bà Huệ Minh “Chú Chính, không biết lời nào để nói hết được lòng biết ơn của gia đình tôi đối với chú” kèm theo 30 đồng. Tôi mới nhớ lại hôm bà ra chăm sóc ông, đến ngày phải về Sài Gòn bà lúng túng bảo rằng không còn tiền và tôi vét được 30 đồng đưa cho bà. Lương tôi lúc đó là 47 đồng, tiêu chuẩn gạo tháng 13 kg nhưng trên 60% là độn bột mì hoặc bo bo…

Nói đến chuyện cơm áo thời đó có khi kể lại thế hệ trẻ bây giờ cho là cổ tích, hoang đường. Không đâu, có một gia đình, anh chồng đang làm nhân viên đưa thư, vợ nấu bếp cho cửa hàng Thương nghiệp mà phải nuôi 6 đứa con. Tiêu chuẩn mỗi gia đình chỉ được 2 nhân khẩu lương thực ăn theo. Hai vợ chồng phải đưa nhau ra tòa ly dị (tất nhiên là giả) để có thêm tiêu chuẩn lương thực ăn theo!

Thời ấy còn khổ lắm, những người trước đây sống bằng đồng lương công chức, làm lính chế độ cũ đối mặt với sự thay đổi, bị hụt hẫng nên rất sợ lao động ruộng rẫy và không có việc làm nào để sống, chập chờn viễn cảnh vùng kinh tế mới âm u. Mà bám vào một tập thể cỡ Hợp tác xã hay cơ quan nhà nước là coi như có chiếc phao cứu sinh.
Hồi ấy thường thấy trong bản lý lịch cá nhân luôn có phần kê khai 2-3 người bạn thân nhất, bóp bụng và dẹp sĩ diện lục tìm trong trí nhớ cho được người bạn nào đó có thành tích cách mạng, nếu đương chức quyền uy thì càng hay.
Nói đến điều này, tôi lại tự hỏi mình khi có những quan hệ với Hồ Hữu Tường trong tình cảnh đó có phải là “liều” lắm không?
Trong lòng tôi khi ấy không có gì lưỡng lự và thật sự thấy rất nhẹ nhàng. Khi ghi lại những dòng này thì câu chuyện tưởng mới đây mà đã trôi qua 28 năm rồi, nghe đâu bà Nguyễn Huệ Minh cũng đã chết. Đời người sao ngắn ngủi quá!

*PHAN CHÍNH
La Gi 10/2008

No comments:

Post a Comment