Hồi kí cố vấn Trung Quốc (3)
Dương Danh Dy
Cập nhật : 01/03/2009 23:17
http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-3/
Vai trò của Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) qua lời kể của viên thư kí
ĐỒNG CHÍ VI QUỐC THANH TRONG VIỆN TRỢ VIỆT NAM ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP
Vu Hoá Thầm
bản dịch của DƯƠNG DANH DY
(PHẦN I)
Cuộc đời binh mã của Vi Quốc Thanh văn võ song toàn trải qua trăm trận, lập nhiều chiến công. Chiến tranh giải phóng thắng lợi chưa được bao lâu đồng chí vâng lệnh dẫn đầu đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống pháp hỗ trợ Quân đội Nhân dân Việt Nam tác chiến và xây dựng và cống hiến quan trọng trong việc giành thắng lợi của chiến tranh chống Pháp. Có một lần tiếp khách nước ngoài, một đồng chí lãnh đạo Trung ương nói, thời kỳ chiến tranh Việt Nam chống Pháp có hai trận đánh lớn, một là chiến dịch Biên Giới, Trần Canh giúp chỉ huy, hai là chiến dịch Điện Biên Phủ, Vi Quốc Thanh giúp chỉ huy. Bài viết này tường thuật, tóm lược chặng đường đặc biệt đó của Vi Quốc Thanh nhất là vai trò quan trọng của đồng chí trong cuộc quyết chiến Điện Biên Phủ.
Tổ chức Đoàn sang Việt Nam
Vi Quốc Thanh
http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-3/weiguoqing.jpeg
Tháng 2/1950, Vi Quốc Thanh đang là chính uỷ binh đoàn số 10 kiêm chủ nhiệm Uỷ ban quân quản thành phố Phúc Châu, nhận được điện của Trung ương gọi đồng chí về Bắc Kinh nhận nhiệm vụ mới. Đồng chí bàn giao xong công tác rất nhanh cùng vợ mới cưới là Hứa Kỳ Thanh vội vàng lên đường. Về đến Bắc Kinh mới biết là cấp trên cần đồng chí chuyển sang công tác ngoại giao. Sau đó, hai người tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngoại giao, nhưng vẫn chưa được giao nhiệm vụ mới. Một ngày thượng tuần tháng 4 vừa xuất viện sau khi mổ ruột thừa, đang ở chiêu đãi sở của Quân uỷ Trung ương, thì Vi Quốc Thanh được Lưu Thiếu Kỳ gọi vào Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương quyết định cử đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam giúp Việt Nam tiến hành chiến tranh chống Pháp. Trưởng đoàn Đoàn cố vấn quân sự này do đồng chí đảm nhiệm ”.
Vi Quốc Thanh lập tức bày tỏ : “ Tôi phục tùng quyết định của Trung ương, có điều là xưa nay tôi chưa làm cố vấn ”. Đồng chí Thiếu Kỳ nói : “ Chúng tôi xem xét thấy đồng chí tương đối thích hợp. Chỉ huy đánh giặc, công tác ở trường quân sự thì khỏi phải nói, tiểu tổ đàm phán đồng chí cũng đã làm rồi, đã giao thiệp với người Mỹ rồi. Đồng chí lại là người Quảng Tây sang Việt Nam công tác có mặt thuận lợi ”. Cuối cùng Lưu Thiếu Kỳ đặc biệt thân thiết dặn dò : “ Đồng chí Quốc Thanh, Mao Chủ tịch rất quan tâm đánh giặc xâm lược Việt Nam, các đồng chí phải làm cho tốt. Có khó khăn gì đồng chí hãy đến tìm chúng tôi, Trung ương phân công tôi phụ trách việc này. Bây giờ phải nhanh chóng tiến hành công tác tổ chức Đoàn cố vấn, điều quan trọng nhất là chọn cán bộ điều động một loạt cán bộ thích hợp với lựa chọn công tác cố vấn. Tôi đã viết cho đồng chí một bức thư, đồng chí cầm thư này đi gặp mấy đồng chí phụ trách Dã chiến quân ở Bắc Kinh, thương lượng trực tiếp với các đồng chí ấy. Cán bộ phải do các đồng chí ấy lựa chọn điều động ”. Lúc này, chiến tranh giải phóng vừa kết thúc, trăm công nghìn việc đang chờ đợi, cán bộ rất thiếu.
Đồng chí Vi Quốc Thanh cầm thư của Lưu Thiếu Kỳ trước tiên tìm gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình lúc đó làm chính uỷ Dã chiến quân số 2 ở Bắc Kinh. Đặng Tiểu Bình là thủ trưởng cũ của Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo dân tộc Choang ở huyện Đông Lan – Quảng Tây. Sau khi tham gia khởi nghĩa Bách Sắc năm 1929 đồng chí được phân công về Đội súng ngắn quân đoàn Hồng Quân công tác, canh gác cho Quân đoàn trưởng Trương Văn Dật, Chính uỷ Đặng Tiểu Bình. Dưới sự lãnh đạo của hai đồng chí, Hồng quân đánh địa chủ cường hào, chia ruộng đất, xây dựng và phát triển căn cứ địa Hữu Giang, về sau quân đoàn 7 chuyển sang chiến đấu ở 5 tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây, trải qua 8 tháng, hành trình hơn 12.000 dặm, đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, đi đến căn cứ địa khu Xô Viết Trung ương. Lần “ trường chinh nhỏ ” này, đấu tranh quyết liệt, gian khổ vô cùng. Chính trong cọ xát chiến đấu khốc liệt này, Vi Quốc Thanh đã trưởng thành là một chiến sĩ Hồng quân kiên cường, trở thành một cán bộ chỉ huy sơ cấp dũng cảm mưu trí của Quân đoàn 7 Hồng quân. Sau này, trong chiến dịch Hoài Hải, Vi Quốc Thanh là người chỉ huy binh đoàn, lại dưới sự lãnh đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch Hoài Hải do Đặng Tiểu Bình làm chính uỷ truy kích chặn viện, rong ruổi khắp nơi, chiến công lừng lẫy.
Gặp Vi Quốc Thanh, Đặng Tiểu Bình hết sức phấn khởi. Sau khi hiểu rõ lý do Vi Quốc Thanh đến tìm, đã nói với Vi Quốc Thanh : “ Nhiệm vụ mà đồng chí nhận vô cùng quan trọng. Cố vấn có thể lựa chọn, điều động từ các Dã chiến quân, nhưng trợ lý của đồng chí và nhân viên công tác của đoàn đều nên do Dã chiến 3 bố trí. Ở trong nước, đoàn trưởng, chính uỷ chúng ta còn có chuyện mất đoàn kết, ở nước ngoài trước trên phải làm tốt đoàn kết nội bộ, nếu không rất bất lợi cho công tác ”. Đặng Tiểu Bình còn nói : “ Để đồng chí chạy khắp nơi, chi bằng mời mấy vị tư lệnh ngồi lại với nhau, đồng chí trình bày trực tiếp tốt hơn ”. Vi Quốc Thanh nghe nói hết sức phấn khởi, đây quả là chuyện gặp may.
Ngày hôm sau, Tiểu Bình trực tiếp mời mấy vị thủ trưởng Dã chiến quân như Bành Đức Hoài ngồi lại với nhau, Vi Quốc Thanh tự tay đưa lá thư của Lưu Thiếu Kỳ và nói rõ việc liên quan đến lựa chọn điều động cố vấn sang Việt Nam. Các đồng chí lãnh đạo đến họp đều nhất trí bày tỏ : “ Chiến tranh trong nước đã kết thúc, hiện nay cử đoàn cố vấn quân sự giúp nước anh em, chống đế quốc xâm lược, thực hành nghĩa vụ quốc tế vô sản nhiệm vụ quan trọng, ý nghĩa to lớn, chúng tôi kiên quyết ủng hộ. Cần cán bộ cấp cán bộ, cần trang bị cấp trang bị, cần gì cấp nấy, cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu ”. Vi Quốc Thanh không ngờ việc tổ chức đoàn cố vấn, một vấn đề cực kỳ quan trong này lại được giải quyết thuận lợi như vậy, tất nhiên rất phấn khởi. Đồng chí kính phục từ đáy lòng tinh thần xuất phát từ toàn cục, nhìn xa trông rộng của các đồng chí lãnh đạo, lập tức báo cáo với Lưu Thiếu Kỳ.
Trung tuần tháng 4, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào yêu cầu số lượng cố vấn ra lệnh cho các Dã chiến quân số 2, 3, 4 về việc lựa chọn điều động cố vấn các cấp và nhân viên công tác của đoàn cố vấn cũng như chuẩn bị vật tư v.v... Quy định mỗi Dã chiến quân nói trên, tuyển chọn điều động đủ số cán bộ làm cố vấn cho đại đoàn (bao gồm ba cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn). Ngoài ra, Dã chiến 3 phụ trách tuyển chọn điều động cố vấn và nhân viên công tác của Ban chỉ huy Đoàn cố vấn.
Đảng uỷ và Thủ trưởng các Dã chiến quân rất coi trọng nhiệm vụ này. Được Túc Dụ đích thân quan tâm, Dã chiến quân 3 xác định lãnh đạo tổng đội số 3 Đại học quân chính Hoa Đông thành lập Ban chỉ huy Đoàn cố vấn. Tổng đội trưởng Mai Gia Sinh đảm nhiệm Tham mưu trưởng Đoàn cố vấn (sau đổi lại là Phó đoàn trưởng). Mai Gia Sinh là một cán bộ có tài văn võ, chiến công xuất sắc, từng giữ chức Tham mưu trưởng lữ đoàn 3 sư 1 Tân Tứ Quân, Phó quân đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng quân đoàn 23 v.v.. Chủ nhiệm Ban chính trị Tổng đội số 3 Lý Văn Nhất làm cố vấn chính trị Ban chỉ huy. Chính uỷ Tổng đội số 3 Đặng Dật Phàm trước định điều về công tác tại Tổng cục Chính trị, đang ở Bắc Kinh chờ lệnh, sau khi Lưu Thiếu Kỳ và La Vinh Hoàn trao đổi, đã tuyển làm chủ nhiệm Ban chính trị Đoàn cố vấn (sau đổi gọi là Phó đoàn trưởng). Đặng Dật Phàm tham gia Hồng quân năm 1930 từng giữ các chức bí thư trưởng Tân Tứ Quân, chủ nhiệm ban chính trị tung đội, Phó chính uỷ quân đoàn v.v.. có kinh nghiệm công tác chính trị phong phú. Trong thời gian ở Việt Nam, Mai, Đặng rất tôn trọng Vi Quốc Thanh ba người đồng tâm hiệp lực, phối hợp chặt chẽ.
Các Dã chiến quân đều rất nhanh tuyển chọn điều động một loạt cán bộ quân sự chính trị hậu cần có kinh nghiệm chiến đấu thực tế và trình độ chính trị nhất định báo cáo lên Quân uỷ Trung ương, trong đó có 59 cán bộ cấp tiểu đoàn trở lên, tất cả có 281 người kể cả thư ký, nhân viên cơ yếu và cảnh vệ v.v...
Ngày 20/5, quân uỷ Trung ương điện cho các cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên dự tính sang Việt Nam làm cố vấn về Bắc Kinh để nghe chỉ thị trực tiếp của các đồng chí lãnh đạo Trung ương. Thượng tuần tháng 6, cán bộ cấp trung đoàn trở lên lần lượt về Bắc Kinh có Mai Gia Sinh, Chu Hạc Vân, Mã Tây Phu, Vu Bộ Huyết, Đậu Kim Ba, Lâm Quân Tài, Trương Hưng Hoa v.v.. Nhưng cho đến ngày 27 tháng 6, tức hai ngày sau nổ ra chiến tranh Triều Tiên, các lãnh đạo chủ chốt của đảng và nhà nước mới từ trong cảnh vô cùng bận rộn thu xếp được thì giờ tiếp thân mật những người trong đoàn cố vấn về Bắc Kinh và có chỉ thị quan trọng.
Sáng hôm đó, Vi Quốc Thanh và hơn 20 cố vấn, thư ký, cơ yếu lên xe đến Di Niên đường trong Phong Trạch Viên Trung Nam Hải. Mọi người nhìn thấy trong kiến trúc kiểu cung điện mang phong cách truyền thống Trung Quốc này bày biện rất đơn giản. Trong phòng kê hai chiếc bàn dài, mấy chục cái ghế đẩu và ghế dài sắp thành nửa hình cánh cung quay về phía bàn. Mọi người chờ đợi một lát, Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ lần lượt bước vào. Sau khi đồng chí Lưu Thiếu Kỳ lên tiếng mời mọi người ngồi xuống, đã đứng lên nói :
“ Hôm nay mời các đồng chí đến đây là để nói đến vấn đề các đồng chí sang Việt Nam công tác. Lẽ ra, Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng cũng muốn đến gặp mặt các đồng chí. Nhưng Triều Tiên đã đánh nhau, tình hình rất căng thẳng. Điều đó quan hệ đến vận mệnh của Triều Tiên, cũng quan hệ đến an ninh của đất nước chúng ta, cho nên Trung ương rất quan tâm đến tình hình này, bận lắm. Mấy hôm nay Chủ tịch rất vất vả. Chủ tịch làm việc đêm bây giờ đang ngủ, chúng tôi không đánh thức đồng chí. Chu Thủ tướng đang bận họp, cũng không thể đến được ”.
Lưu Thiếu Kỳ quay sang nói với Chu Đức Tổng tư lệnh “ Bác nói trước ! ”. đồng chí Chu Đức nói : “ Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ nói trước đi ! ”.
Lưu Thiếu Kỳ tiếp tục nói : “ Trung ương cử các đồng chí sang Việt Nam là chấp hành một nhiệm vụ vô cùng khó khắn. Trung ương ra quyết định này là có lý do quan trọng. Đi thì có phiền phức, nhưng nếu chúng ta không đi giúp Việt Nam, để bọn xâm lược nằm lì ở đó, thì khó khăn của chúng ta sẽ lớn hơn, phiền phức cũng lớn hơn. Hai ngàn năm trước Mã Viện của Trung Quốc, tức là tướng quân Phục Ba đã chinh phục Việt Nam. Còn ngày nay chúng ta sang Việt Nam, thì ý nghĩa hoàn toàn khác. Chúng ta đi giúp người ta giải phóng, là đi giúp nước anh em. Sau khi sang đó các đồng chí, phải giúp Việt Nam xây dựng quân đội chính quy, tiến hành tác chiến chính quy, và nhất định phải tổ chức đánh thắng trận ”.
Lưu Thiếu Kỳ chỉ rõ : “ Thời gian cách mạng Việt Nam thắng lợi sẽ không quá nhanh, tôi thấy cần ba năm chuẩn bị ”.
Đồng chí còn đặc biệt dặn dò : “ Phải chú ý làm tốt đoàn kết với các đồng chí Việt Nam. Chúng ta không làm chủ quản cho họ, chỉ làm cố vấn. Có thể nêu ra nhiều biện pháp để người ta quyết định. Người ta cũng có thể không nghe ý kiến của anh. Nhưng nếu làm tốt quan hệ, thì lời nói của anh sẽ được áp dụng ”. Tiếp đó Chu Đức nói chuyện trước tiên đồng chí nhấn mạnh : “ Chúng ta là những người theo chủ nghĩa quốc tế, có trách nhiệm giúp đỡ Việt Nam. Đây sẽ là một nhiệm vụ lâu dài, gian khổ và phải bảo đảm bí mật. Cần phải coi đây là nhiệm vụ là nhiệm vụ quốc tế lớn lao, không được tiếc bất cứ thứ gì để giúp Việt Nam đến thắng lợi ”.
Chu Đức chỉ ra : “ Về hành động quân sự chúng ta phải thực sự cầu thị không được nóng vội. Nguyên tắc là có con người thế nào đánh thứ ấy. Cần phải biết đánh trận dũng cảm và lại khôn khéo, quan trọng nhất là khôn khéo ”. Chu Đức lại nêu rõ : “ Tự lực cánh sinh là cái gốc của thắng lợi cách mạng nước ta. Dù thế nào chăng nữa cũng phải giúp Việt Nam xây dựng căn cứ địa vững chắc, kiên trì nguyên tắc tự lực cánh sinh. Các đồng chí sang Việt Nam công tác rất gian khổ, phải chuẩn bị tinh thần đó. Người cộng sản chúng ta, phải chịu đựng gian khổ, phải tính đến phấn đấu gian khổ lâu dài ”.
Chu Đức chưa kết thúc bài nói của mình thì đồng chí Mao Trạch Đông chậm rãi bước vào. Mọi người đều đứng dậy vỗ tay. Lưu Thiếu Kỳ ra đón Mao Trạch Đông nói : “ Mấy hôm nay đồng chí rất mệt, muốn để đồng chí ngủ thêm một lát, nên không đánh thức đồng chí ”.
Mao Trạch Đông nói : “ Chà ! Không ngủ được ”. Sau đó đồng chí bắt tay Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, rồi lại lần lượt bắt tay từng người và thân mật hỏi thăm tình hình tên tuổi, chức vụ, tuổi tác v.v...
Lưu Thiếu Kỳ mời Mao Trạch Đông nói chuyện. Mao Trạch Đông nói : “ Các đồng chí đều nói cả rồi còn gì ? Tôi nói nữa sẽ trùng lặp ”. Mọi người đều muốn Mao Chủ tịch cho chỉ thị. Vì thế Mao Chủ tịch bảo mọi người ngồi xuống, bắt đầu nói. Mao Chủ tịch nói : “ Không phải tôi muốn cử các đồng chí đi Việt Nam, mà là Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tôi. Ai bảo cách mạng chúng ta thắng lợi trước, thì phải giúp đỡ người ta, đó gọi là chủ nghĩa quốc tế. Các đồng chí đến Việt Nam, trước hết phải giúp Việt Nam đánh thắng trận. Mở ra được một địa phương để tập trung quân đội, sau đó trận sẽ càng đánh càng lớn. Việc đầu tiên sau khi các đồng chí đến Việt Nam là phải đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam, đặc biệt là phải đoàn kết tốt với lãnh đạo Việt Nam. Phải chú ý không đoàn kết tốt, thì thà đừng làm việc còn hơn ”.
Sau khi kể chuyện lịch sử “ Mã Viện đánh Giao Chỉ ”, Mao Chủ tịch nói : “ Trong lịch sử từ đời Hán trở đi, Trung Quốc đã từng ức hiếp Việt Nam. 80 năm trước chính phủ Mãn Thanh cắt nhượng Việt Nam cho Pháp. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tốt, bị nước ngoài cai trị và áp bức lâu dài, họ căm thù người Pháp, rất nhạy cảm đối với người nước ngoài. Các đồng chí có thể nói với các đồng chí Việt Nam. Tổ tông xưa của chúng tôi đã từng ức hiếp các đồng chí, chúng tôi tạ tội xin lỗi các đồng chí ”.
Mao Chủ tịch nói tiếp : “ Mấy năm gần đây tình hình cách mạng Việt Nam phát triển rất nhanh, thành tích rất tốt. Không nên coi thường người ta. Tôi biết cử các đồng chí đến một nơi gian khổ đối mặt với những nhiệm vụ rất nặng nề. Nếu mắc bệnh sốt rét có thể nguy hiểm, hy sinh. Phải chuẩn bị khác phục nhiều khó khăn, thực tế không chiều theo ý mình đâu. Bao giờ các đồng chí có thể trở về ? Đừng vội. Vân Nam, Quảng Tây có thể làm hậu phương. Các đồng chí đến Việt Nam, có thể thắng lợi dễ dàng, cũng có thể có khó khăn, nhưng cuối cùng nhất định phải thắng lợi. Chúng ta giúp người ta cần phải giúp cho tốt. Trước mặt quần chúng Việt Nam, không được biểu hiện tư tưởng kiêu ngạo chúng ta là người chiến thắng. Người ta đều biết thắng lợi của chúng ta không cần mình phải nói ra. Đối với những khuyết điểm sai lầm của người ta, có thể nói cho họ biết, chúng tôi cũng có thất bại. Giới thiệu nhiều với họ bài học kinh nghiệm, ít nói “ qua năm ải chém sáu tướng ”. Trong quá trình giúp đỡ người ta, phải thường xuyên kiểm điểm lời nói và hành động của mình ....”.
Mao Chủ tịch còn nói : “ Lần này cử đồng chí Vi Quốc Thanh làm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn. Đáng lẽ ra để đồng chí đi công tác ở Liên Hợp Quốc, nhưng Liên Hợp Quốc bị Mỹ thao túng, không cho chúng ta vào. Sau này lại muốn để đồng chí đi làm đại sứ ở Anh, nhưng Anh lúc nào cũng lưỡng lự nước đôi đối với chúng ta, ở đó chỉ có thể hạ cấp. Không cử đại sứ nữa. Thế là để đồng chí đi Việt Nam làm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn. Đồng chí đã đồng ý, như thế rất tốt, người cộng sản ở đâu cần thì đến đó, có thể đến nơi hoàn cảnh thoải mái cũng có thể đến nơi gian khổ… Hễ công việc yêu cầu thì các thứ khác đều không so đo. Điều này, các đồng chí phải học tập đồng chí Vi Quốc Thanh ”.
Cuối cùng, Mao Trạch Đông : “ Chúc các đồng chí thắng lợi, mạnh khoẻ ” để kết thúc cuộc nói chuyện.
Sau buổi tiếp có tính lịch sử ở Di Niên đường Trung Nam Hải, cố vấn các cấp và nhân viên công tác lần lượt trở về các đơn vị cũ, chuẩn bị hành trang hạ tuần tháng 7 tập trung tại Nam Ninh, Quảng Tây.
Vi Quốc Thanh từ Bắc Kinh xuống Quảng Châu rồi đi đường thuỷ về Nam Ninh. Sau khi đến Nam Ninh, đồng chí lập tức đến chào thủ trưởng cũ. Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu Quảng Tây Trương Văn Dật. Hai người gặp nhau vô cùng mừng rỡ. Trương Văn Dật nói với Vi Quốc Thanh, theo điện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đã sắp xếp ổn thoả vấn đề ăn ở, sinh hoạt cho cố vấn, nhân viên tập huấn ở Nam Ninh, tuyệt đối bảo đảm bí mật, hãy yên tâm. Vi Quốc Thanh hết sức cám ơn.
Trước đó, Trung ương đã cử Trần Canh làm đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, và dẫn đầu toàn thể cán bộ của một đại đoàn được Dã chiến quân số 2 tuyển chọn điều động làm cố vấn đã lên đường từ Côn Minh sang Việt Nam. Vì vậy đến Nam Ninh tập huấn chỉ có cán bộ do Dã chiến quân 3, 4 tuyển chọn điều động. Sau nửa tháng tập huấn, Vi Quốc Thanh trước tiên tuyên bố thành lập Đoàn cố vấn, tiếp đó truyền đạt phát biểu quan trọng của lãnh đạo Trung ương cho đoàn thể cố vấn và nhân viên công tác. Qua thảo luận nghiêm túc, đã xây dựng “quy chế công tác của Đoàn cố vấn ở nước ngoài” làm nguyên tắc hành động của toàn thể đồng chí công tác tại Việt Nam. Được Trung ương phê chuẩn, đã thành lập Đảng uỷ Đoàn cố vấn do Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó Bí thư. Cuối cùng mời Hoàng Văn Hoan Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Trung Quốc từ Bắc Kinh xuống Nam Ninh giới thiệu tình hình cơ bản của Việt Nam.
Ngày 9/8, theo sự sắp xếp của Quân khu Quảng Tây, những người trong đoàn cố vấn lên đường từ Nam Ninh bằng ôtô. Trương Vân Dật đích thân tiễn đến ngoại ô, đồng chí nói với mọi người : “ Đáng lẽ tôi phải triệu tập nhân dân Nam Ninh tổ chức lễ tiễn đưa long trọng các đồng chí, gửi lời chào các đồng chí. Nhưng sứ mệnh của các đồng chí là bí mật, không thể tiễn đưa công khai. Chỉ có tôi đại diện cho Đảng, quân dân Quảng Tây đến tiễn đưa các đồng chí, chúc các đồng chí lên đường thuận lợi ”.
Sau khi đi qua Điền Đông, Bách Sắc đến Tịnh Tây, tối 11/8, có Hoàng Văn Hoan cùng đi, trong màn đêm bàng bạc, Đoàn cố vấn vượt qua biên giới Trung – Việt núi sông liền dải, rạng sáng ngày 12 đến Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch biên giới của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Chiến thắng Biên Giới
Huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng nằm sát biên giới huyện Tịnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc, là một trong những căn cứ của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản Đông Dương, sau tháng 2/1951 đổi tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam) ở Việt Bắc. Ở đây non xanh nước biếc, xóm làng trù phú. Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch Biên Giới của Quân đội Nhân dân Việt Nam đóng trong mấy thôn bản dân tộc thiểu số. Rạng sáng ngày 12/8, khi Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đến nơi được phía Việt Nam hoan nghênh nhiệt liệt. Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp thân chinh ra đón tận ngoài làng. Qua Hoàng Văn Hoan giới thiệu, hai người bắt tay thân thiết, Võ Nguyên Giáp liên tiếp nói hoan nghênh và nói “ vất vả quá ” bằng tiếng Trung Quốc khá lưu loát. Vi Quốc Thanh ngắm nghía tỉ mỉ người bạn hợp tác tương lai này : người hơi thấp hơn mình tuổi tác tương đương mình, ngũ quan cân xứng da mặt trắng nõn, ánh mắt ngời sáng long lanh, tỏ rõ uy nghi phong độ, lịch sự nho nhã. Võ Nguyên Giáp đích thân đưa Vi Quốc Thanh đến nơi ở của đồng chí – trong một nhà sàn bằng gỗ, nói chuyện chốc lát rồi từ biệt để Vi Quốc Thanh nghỉ ngơi.
Hành quân suốt đêm, Vi Quốc Thanh cảm thấy hơi mệt, lúc này lại không buồn ngủ. Đồng chí biết rằng, từ bây giờ trở đi, đứng trước hoàn cảnh chiến đấu hoàn toàn mới, bắt đầu chặng đường chiến đấu một mình gánh vác trên chiến trường nước ngoài. Hoàn thành nhiệm vụ lớn lao và khó khăn này thật không phải dễ. Mỗi bước đi đều phải hết sức thận trọng, suy nghĩ chín chắn. Công tác của đoàn cố vấn nên bắt đầu từ đâu?
Đồng chí suy nghĩ rất nhiều lần vấn đề này. Vừa tìm hiểu tình hình, vừa giúp phía Việt Nam công tác chuẩn bị cho chiến dịch biên giới. Đó là phương châm công tác trước mắt mà đồng chí định ra cho mình và Đoàn cố vấn.
Vi Quốc Thanh bắt đầu công việc khẩn trương song nề nếp. Tổ cố vấn quân sự, chính trị, hậu cần của Đoàn cố vấn và tổ cố vấn của các Bộ đội lần lượt đến Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và các bộ đội ở các nơi, triển khai công tác khẩn trương.
Hạ tuần tháng 7 đồng chí Trần Canh đã đến Thái Nguyên, nơi đóng trụ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 14/8 cùng lên chỗ Bộ chỉ huy tiền phương chiến dịch Biên Giới Quân đội Nhân dân Việt Nam và gặp mặt đoàn cố vấn. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giao nhiệm vụ cho Trần Canh là giúp Việt Nam tổ chức chiến dịch Biên Giới và thống nhất xử lý vấn đề Trung Quốc viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã quen biết nhau từ lâu. Trong cuộc trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, khi Trần Canh làm đoàn trưởng đoàn cán bộ Trung ương thì Vi Quốc Thanh là Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Trần Canh. Hai người lâu năm chưa gặp, nay gặp nhau ở nước ngoài, dạt dào xúc động. Vì Đoàn cố vấn công tác dưới sự chỉ đạo của Trần Canh, Vi Quốc Thanh càng đặc biệt vui mừng.
Trần Canh và Vi Quốc Thanh thông qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp và nghe Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam giới thiệu tình hình, đã hiểu được tình hình cơ bản của hai phía địch và bạn, và tình hình chuẩn bị chiến dịch :
1 – Chiến tranh chống Pháp của Việt Nam tuy đã bước vào năm thứ năm, nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam về cơ bản vẫn ở giai đoạn đánh du kích, chưa qua chiến đấu đánh, tiêu diệt một tiểu đoàn địch hoàn chỉnh trở lên. Hiện nay tuy đã thành lập 2 đại đoàn (đại đoàn 304 và 308) và 3 trung đoàn độc lập (trung đoàn 174, 209, 148) nhưng đại đoàn đoàn đều chưa qua tác chiến tập trung, trung đoàn cũng rất ít có kinh nghiệm tác chiến tập trung, về cơ bản vẫn là lấy tiểu đoàn, đại đội làm đơn vị phân tán tiến hành chiến tranh du kích. Dân quân, du kích có khắp cả nước chiếm lĩnh vùng nông thôn rộng lớn, không ngừng phá rối, tiêu hao đánh địch. Đoàn cố vấn đều cử tổ cố vấn đến hai đại đoàn và ba trung đoàn chủ lực nói trên, cả ba cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn đều có cố vấn giúp công tác. Các bộ đội nói trên đều đã được Trung Quốc trang bị, huấn luyện, hoặc đang trang bị huấn luyện. Hiện nay đóng gần Cao Bằng có đại đoàn 308, trung đoàn 174 và trung đoàn 209, ngoài ra có một trung đoàn sơn pháo. Đại đoàn 304 đóng ở vùng Thanh Hoá phía bắc Trung Bộ, trung đoàn 148 hoạt động ở vùng Lào Cai – Tây Bắc như vậy có nghĩa là, toàn bộ binh lực có thể đưa vào chiến dịch Biên Giới là 5 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh và một số bộ đội địa phương.
2 – Quân Pháp tổ thành rất phức tạp. Có binh đoàn người da trắng, cũng gọi là binh đoàn quốc tịch nước ngoài 1, chủ yếu do tù binh Đức, tù binh Liên Xô và một số nước Đông Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, và số ít phạm nhân người Pháp tổ thành, sĩ quan chỉ huy đều là người Pháp. Có binh đoàn da đen, chủ yếu do binh lính người da đen 2 thuộc các nước Maroc, Tunisie và Algérie thuộc địa của Pháp tổ thành, sĩ quan chỉ huy cũng đều là người Pháp. Quân Pháp tác chiến chủ yếu dựa vào hoả pháo và công sự, thiếu ý thức tấn công, sức chiến đấu không mạnh. Ngoài ra còn có một bộ phận nguỵ quân, sức chiến đấu càng yếu, chủ yếu đóng giữ cứ điểm. Ở Bắc Bộ, quân Pháp khống chế đường giao thông thành phố thị trấn vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực Tây Bắc, giữ ưu thế và chủ động về chiến lược. Đầu năm 1950, quân Pháp và quân nguỵ trên toàn Đông Dương có tất cả 230.000 người. Do Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, chiến tranh du kích khắp các nơi trong nước, buộc quân Pháp chia quân ra phòng thủ, ngày càng bộc lộ nhược điểm chí mạng là thiếu lính, binh lực phân tán.
Ảnh chụp tại An Toàn Khu, từ người thứ nhì (bên trái sang) : Hoàng Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Lý Hàm Trân (vợ La Quý Ba), Hồ Chí Minh, x, La Quý Ba, Trường Chinh, x...
http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-3/hinhhcmlqb.jpg
3 – Trước khi đoàn cố vấn vào Việt Nam, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cử La Quý Ba 3 làm đại diện liên lạc, trung tuần tháng 3 đã đến trụ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thảo luận nhiều lần với Việt Nam về vấn đề phát động chiến dịch biên giới, quyết định vùng Cao Bằng biên giới đông bắc Việt Nam giáp Quảng Tây làm hướng tấn công chính của chiến dịch. Trên quốc lộ số 4 từ Cao Bằng đi Tiên Yên (Quảng Ninh) theo hướng đông nam, quân Pháp xây dựng một loạt cứ điểm kiên cố để phong toả biên giới Trung – Việt, bao vây và uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc. Mở một chiến dịch thắng lợi ở vùng này, có thể phá vỡ sự phong toả của địch, khai thông tuyến giao thông Trung – Việt, có lợi cho viện trợ của Trung Quốc đối với Việt Nam, và loại bỏ mối đe doạ đối với căn cứ địa Việt Bắc, có ý nghĩa rất quan trọng. Phía Việt Nam đã làm rất nhiều việc chuẩn bị cho chiến dịch, nhưng chưa thống nhất ý kiến đối với cách đánh trong chiến dịch, càng chưa hình thành phương án tác chiến. Lúc này, không ít tư tưởng chỉ đạo trong Quân đội Nhân dân vẫn câu nệ ở chỗ được mất một thành phố này một địa phương kia, mà không chú trọng vào tiêu diệt sinh lực địch. Vì vậy họ chủ trương đánh Cao Bằng trước cho rằng Cao Bằng là tỉnh lỵ là cứ điểm phòng ngự hạt nhân của hệ thống phòng ngự trọng điểm trên tuyến phong toả biên giới mà quân Pháp ra công tính toán bao năm, đánh lấy Cao Bằng không chỉ có ý nghĩa quân sự to lớn, mà còn có ảnh hưởng chính trị rất lớn.
Căn cứ vào tình hình trên, Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã nghiên cứu tỉ mỉ phòng tuyến quốc lộ 4 của Pháp. Hai người cảm thấy, quân địch đóng giữ Cao Bằng có 3 tiểu đoàn, hơn 1000 tên, địa thế hiểm trở, công sự kiên cố, dễ phòng thủ khó tấn công, theo khả năng công kiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trước mắt, rất khó gặm cục xương cứng này. Họ phát hiện trên phòng tuyến từ Cao Bằng đến Lạng Sơn dài hơn 100 km, ở giữa có hai cứ điểm Đông Khê và Thất Khê. Đông Khê cách Cao Bằng hơn 40 km về phía bắc, cách Thất Khê hơn 20 km về phía nam, cách Lạng Sơn, sáu bảy mươi kilômét, hơn 1 tiểu đoàn, bảy tám trăm quân địch đóng giữ. Đột phá từ đây có thể cô lập quân địch ở Cao Bằng, tạo cơ hội diệt viện. Kiến giải của anh hùng đại thể giống nhau, hai người không hẹn mà gặp, nhất trí đồng ý coi Thất Khê là điểm đột phá của chiến dịch. Họ lại thảo luận cao khả năng phát hiện của chiến dịch, đều đi đến nhất trí ý kiến.
Tại một cuộc họp của lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu Việt Nam, Trần Canh phân tích biện chứng vấn đề chọn đột phá khẩu của chiến dịch và khả năng phát triển của chiến dịch như thế nào, đưa ra kiến nghị toàn diện. Nêu rõ địa thế Cao Bằng hiểm trở, ba mặt là sông, sau lưng là núi cao, công sự kiên cố, dễ phòng thủ khó tấn công, là cục xương cứng. Điều đó đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm công kiên mà nói, là khó khăn rất nhiều, dễ trở thành đánh tiêu hao, lợi bất cập hại. Nếu trận đầu không thắng, nhất định sẽ ảnh hưởng rất bất lợi đối với toàn bộ chiến dịch. Vì vậy tốt nhất không đánh Cao Bằng trước, mà đánh cứ điểm Đông Khê nằm giữa Cao Bằng và Thất Khê. Quân địch đóng giữ Đông Khê chỉ có một tiểu đoàn, bố phòng không kiên cố lắm vả lại rất cô lập, địa hình cũng có lợi cho ta tấn công, nằm chắc phần thắng tương đối lớn. Đánh lấy Đông Khê, chặt đứt sống lưng quốc lộ 4, cô lập Cao Bằng. Như vậy buộc địch ở Thất Khê, Lạng Sơn có thể đưa quân chi viện, sẽ tạo cơ hội có lợi tiêu diệt càng nhiều quân địch trong vận động.
Nếu địch ở Thất Khê không đưa quân chi viện thì sau khi giải quyết Đông Khê thừa thắng đánh lấy Thất Khê, cuối cùng tập trung toàn bộ binh lực tấn công Cao Bằng và ra sức tiêu diệt địch trong vận động. Tiến công Đông Khê, tương đối nắm chắc thắng lợi. Mà trận đầu thắng lợi sẽ cổ vũ mạnh mẽ sĩ khí, gây ảnh hưởng có lợi cho toàn bộ chiến dịch. Tiêu diệt quân địch đóng giữ Đông Khê và Thất Khê sẽ làm cho lòng quân đóng giữ Cao Bằng lâm cô lập dao động. Còn Quân đội Nhân dân Việt Nam trải qua nhiều lần chiến đấu, kinh nghiệm nhiều lên, niềm tin thắng lợi càng đầy đủ lúc đó lại đánh Cao Bằng tương đối dễ giành thắng lợi.
Sự phân tích có hệ thống, thấu đáo đó của Trần Canh thuyết phục người lãnh đạo phía Việt Nam. Qua thảo luận, lãnh đạo Việt Nam nhất trí, đồng ý ý kiến của Trần Canh. Căn cứ vào đó, Đoàn cố vấn quân sự giúp cụ thể Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam vạch kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới.
Lúc ấy, Hồ Chí Minh đã từ hậu phương lên tiền tuyến. Người đã phê chuẩn kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới và chỉ rõ : “ Chiến dịch này chỉ được thắng, không được thua ”. Người vô cùng tín nhiệm yêu cầu Trần Canh bảo đảm thắng lợi của chiến dịch này. Trần Canh nói : “ Tôi nhất định dốc sức giúp đánh tốt trận này, nhưng đánh trận chủ yếu còn dựa vào cán bộ chỉ huy bộ đội và quần chúng nhân dân Việt Nam ”. Để quán triệt thực thi kế hoạch tác chiến nói trên, Vi Quốc Thanh khẩn trương bận rộn tiến hành các công việc. Đồng chí luôn luôn liên hệ với các tổ cố vấn bộ đội tham chiến, tìm hiểu tình hình, giải đáp vấn đề, bố trí công tác; kịp thời bàn bạc với Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và cố vấn hậu cần Mã Tây Phu, giúp cơ quan các Tổng cục quân đội nhân dân Việt Nam làm tốt các công tác chuẩn bị chiến dịch. Dưới sự giúp đỡ hết mình của các tổ cố vấn, các công tác chuẩn bị cho cuộc vận động chiến quy mô lớn đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào thượng tuần tháng 9 đã cơ bản hoàn tất. Ngày 16/9, chiến dịch Biên Giới bắt đầu. Đêm 16/9, Trung đoàn 174 bộ đội chủ công được pháo binh phối hợp, mở cuộc tấn công quân địch ở Đông Khê. Dưới sự yểm trợ của các loại hoả lực, Quân đội Nhân dân Việt Nam lần lượt chiếm lĩnh một số cứ điểm ngoại vi Đông Khê, nhưng triến triển chậm chạp sau khi tiến gần tới trung tâm phòng ngự của địch. Sáng sớm ngày 17, địch phản kích dưới sự yểm trợ của máy bay. Do Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm, chỉ huy không kịp thời, nên rút lui khỏi trận địa đã chiếm lĩnh.
Sau khi Trần Canh và Vi Quốc Thanh biết được tình hình này hết sức lo lắng, lập tức đến bộ chỉ huy tiền tuyến Quân đội Nhân dân, gặp Võ Nguyên Giáp, cùng nghiên cứu nguyên nhân tấn công bị thất bại, ra lệnh cho bộ đội điều chỉnh sự bố trí, bao vây chặt, đề phòng địch phá vây, đến tối sẽ tấn công lại.
Tối 17, do bộ đội tuyến trước không hành động theo bố trí đã định trước, chỉ tấn công từ một phía, làm cho địch tập trung được hoả lực ngoan cố chống cự. Đến nửa đêm, tấn công vẫn chưa đạt hiệu quả, bộ đội thương vong khá lớn, lại chuẩn bị rút khỏi cuộc lui chiến đấu. Sau khi Trần Canh và Vi Quốc Thanh chăm chú theo dõi phát triển của trận đánh biết được tình hình này đã lập tức khẩn cấp kiến nghị với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp : “ Ra lệnh cho bộ đội tiếp tục kiên trì không tiếc bất cứ giá nào, đồng thời điều chỉnh lại bố trí, đổi thành tiến công cả bốn phía, trọng điểm nhằm vào phía Bắc và phía Nam ”. Phía Việt Nam chấp nhận kiến nghị này. Vi Quốc Thanh lập tức điện thoại cho Trương Chí Thiện cố vấn trung đoàn 174 biết ý đồ này ; ra lệnh cho Trương giúp người chỉ huy trung đoàn này nhanh chóng điều chỉnh bố trí, chuẩn bị tốt cho việc đánh tiếp. Trước khi trời hừng sáng, tấn công lại lần nữa, kịch chiến đến 8g ngày 18, cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Sau khi cuộc chiến đấu kết thúc điều tra ra, quân địch đóng giữ Đông Khê chỉ có hơn 2 đại đội, không đến 400 tên, quân đội Việt Nam với binh lực 7000 người, tấn công hai đêm, thương vong 500 người mới thắng. Mặc dù cái giá rất lớn, nhưng mục tiêu bước đầu của chiến dịch đã đạt được, tức là một thắng lợi không nhỏ. Quân đội Việt Nam đánh được Đông Khê làm cho Vi Quốc Thanh mấy ngày qua căng thẳng tinh thần cao độ thở phào. Nhưng súc khoẻ của đồng chí không trụ nổi. Trong hoàn cảnh chiến tranh lâu dài, đồng chí mắc bệnh viêm dạ dày mãn tính và thần kinh suy nhược. Sau này ở Bắc Kinh lại viêm ruột thừa, chuyển sang viêm màng ổ bụng, sau khi ra viện bận việc tổ chức Đoàn cố vấn, sức khoẻ chưa được phục hồi tốt. Sau khi vào Việt Nam chưa được mấy ngày, đồng chí lại mắc bệnh dạ dày, đau bụng đi lỏng, liên tục uống thuốc không khỏi. Đồng chí nổi nóng cáu gắt với quân y đi theo cũng chẳng được gì. Sức khoẻ đồng chí ngày càng gầy yếu, vẫn kiên trì công tác khẩn trương.
Sau tấn công Đông Khê, Trần Canh và Mai Gia Sinh, Đặc Dật Phàm khuyên bảo, đồng chí mới về điều trị ở bệnh viện lục quân tại Long Châu, Quảng Tây. Theo kế hoạch chiến dịch dự định, sau khi lấy được Đông Khê, nếu địch ở Thất Khê không ra chi viện, thì thừa thắng tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê. Nhưng lúc này Trần Canh biết được, lính địch đóng giữ ở Thất Khê tăng lên 4 tiểu đoàn. Theo kinh nghiệm của trận Đông Khê, nếu với lực lượng hiện có của quân đội Việt Nam tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê là rất khó khăn. Sau khi Trần Canh cùng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp nghiên cứu, thay đổi kế hoạch ra lệnh cho đại đoàn 308 tiếp tục mai phục ở nam Đông Khê, chờ thời cơ tiêu diệt địch.
Trong 10 ngày sau đó, quân địch ở Thất Khê vẫn không động tĩnh. Lúc này một số cán bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam nảy sinh tư tưởng nôn nóng và oán trách. Có người nói, đánh Đông Khê là sai lầm, tiêu hao lực lượng của mình, lại không có viện binh để đánh, cũng tiêu mất thời cơ có lợi đánh Cao Băng. Có người nói địch ở Thất Khê không xuất quân chi viện, chi bằng đưa quân lên phía bắc đánh Cao Bằng. Có người chủ trương rút quân về bảo vệ Thái Nguyên. Bởi vì lúc này quân Pháp đã tập trung binh lực mấy tiểu đoàn, đang tấn công vào vùng Thái Nguyên trụ sở cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, quân đội Việt Nam.
Trần Canh không dao động trước những lời bàn tán đó. Đồng chí tin chắc bộ chỉ huy quân Pháp sẽ không bỏ mặc hơn 1000 quân ở Cao Bằng. Theo phán đoán bố trí của quân Pháp đã làm, nhất định còn chuyện tiếp. Đồng chí kiến nghị với Võ Nguyên Giáp, thuyết phục cán bộ, nhẫn nại kiên trì, bình tĩnh chờ đợi hành động tới của quân địch, nắm bắt thời cơ tiêu diệt địch. Trần Canh còn cho rằng địch tấn công Thái Nguyên là kế điệu hổ ly sơn. Để đánh lừa quân địch, đề nghị bộ chỉ huy tiền tuyến Quân đội Nhân dân cho trung đoàn 174 vờ di chuyển về phía nam Thất Khê. Hành động này quả nhiên có hiệu quả. Bọn địch nhầm tưởng chủ lực quân đội nhân dân Việt Nam quay xuống phía nam bảo vệ Thái Nguyên, vẫn thực hiện kế hoạch chi viện dự định của họ, rơi vào thòng lọng do Trần Canh dăng sẵn.
Đêm 30/9, binh đoàn Lepage của Pháp tiến vào bắc Thất Khê, hòng chiếm lại Đông Khê, để tiếp ứng cho binh đoàn Charton sẽ rút khỏi nam Cao Bằng. Sau khi bị trung đoàn 209 quân đội Việt Nam chặn đánh, quân Pháp buộc phải triển khai bộ đội chiếm đóng một số điểm cao nam Đông Khê, không vào được Đông Khê. Biết được tình hình này, Trần Canh rất phấn khởi, cho rằng thời cơ tiêu diệt địch đã đến. Nhưng lúc này vì bộ đội thiếu lương thực, đại đoàn 308 có trên một nửa chiến sĩ lên hướng Thuỷ Khẩu Trung Quốc vác gạo. Điều đó làm cho Trần Canh rất lo lắng. Đồng chí một mặt kiến nghị khẩn cấp với Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội nhanh chóng tập trung đón địch, mặt khác điện thoại cho Vương Thạc Tuyền cố vấn đại đoàn 308, yêu cầu đồng chí đôn đốc phía Việt Nam cấp tốc tập trung bộ đội để bao vây, tấn công địch, được một tiểu đoàn xuất phát một tiểu đoàn, được một đại đội xuất phát một đại đội, không chậm trễ một phút.
Dưới sự chỉ huy quyết đoán của Trần Canh, nói chung là tóm được kẻ địch. Nhưng do tổ chức không chặt, hiệp đồng cũng không tốt, dẫn đến phần lớn cuộc tấn công chưa đạt hiệu quả. Ngày 3/10, binh đoàn Charton Cao Bằng bỏ chạy xuống phía nam, nhưng bị bộ đội địa phương Việt Nam chặn đánh, nên tiến quân chậm chạp. Đêm hôm đó, binh đoàn Lepage lợi dụng thời cơ ban đêm quân đội Việt Nam ngừng tấn công, lén lút luồn qua núi Cốc Xá, ở tây quốc lộ 4, tây nam Đông Khê 7 km, chiếm lĩnh địa hình có lợi, chờ Charton tiếp ứng binh đoàn cùng chạy về phía nam. Ngày hôm sau, binh đoàn Charton được biết binh đoàn Lepage chưa chiếm được Đông Khê, mà chỉ vào núi Cốc Xá, nên không dám tiến theo quốc lộ 4 nữa, phá ôtô, đại bác và quân nhu, đi lối tắt đến điểm cao 477 gần núi Cốc Xá, hòng gặp binh đoàn Lepage, rồi cướp đường chạy về Thất Khê.
Trần Canh cho rằng, tình thế địch ta hiện nay rất có lợi cho ta, cơ hội tiêu diệt địch khó có, cần phải trước hết cần kiên quyết, nhanh chóng tiêu diệt binh đoàn Lepage sau đó di chuyển binh lực tiêu diệt binh đoàn Charton, quyết không cho chúng tập họp chạy về phía nam.
Ngày 4, quân đội Việt Nam truy đuổi về hướng vùng núi Cốc Xá, và liên tục triển khai tấn công quân địch chiếm núi Cốc Xá. Cuộc chiến đấu khá quyết liệt, tuy giết chiết làm bị thương một số quân địch, nhưng chưa có tiến triển rất lớn, bộ đội ta cũng có không ít thương vong, có một số cán bộ bắt đầu kêu khổ.
Tối ngày 4, Bộ chỉ huy Tiền phương Quân đội Việt Nam ra lệnh cho bộ đội tạm ngừng tấn công để nghỉ ngơi chỉnh đốn. Đồng thời Võ Nguyên Giáp gọi điện thoại cho Trần Canh nói : “ Căn cứ phán đoán tình hình địch, hai cánh quân địch sẽ có thể nhanh chóng gặp nhau, lực lượng sẽ được tăng cường. Bộ đội đã đánh liên tiếp 3 ngày liền, tương đối mệt nên chăng rút về nghỉ ngơi chỉnh đốn ? ” Trần Canh nghe thế vội nói ngay : “ Một trận như thế này mà không đánh nữa thì không có trận nào nữa đâu ”. Võ Nguyên Giáp vẫn kiên trì ý kiến của mình : “ Bộ đội quá mệt tôi thấy rất khó tiến công...” Nhìn thấy thời cơ rất tốt sắp bỏ qua, Trần Canh cũng không nhẫn nhịn được nữa, nói to trước ống nghe : “ Nếu trận này không đánh nữa thì tôi xin cuốn gói chuồn ”. Ngừng một lát, Trần Canh lại nói : “ Vào giờ phút then chốt này, bộ chỉ huy mà dao động thì chôn vùi thời cơ rất tốt để chiến dịch thắng lợi ”. Trần Canh dập máy xuống.
Trần Canh suy nghĩ một lát để bình tâm trở lại rồi lập tức cầm bút viết thư cho Hồ Chí Minh kiến nghị Người mệnh lệnh và cổ vũ bộ đội tiền tuyến không sợ hy sinh, anh dũng chiến đấu, nhanh chóng tiêu diệt binh đoàn Lepage, sau thắng lợi lập tức di chuyển binh lực tiêu diệt binh đoàn Charton. Đồng chí Trần Canh cũng điện báo kế hoạch này cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị của Trần Canh, lập tức ra chỉ thị cho bộ đội tiền tuyến.
Ngày 6/10, Mao Trạch Đông điện trả lời Trần Canh, nêu rõ : “ Các đồng chí phải nhanh chóng, kiên quyết, triệt để tiêu diệt quân địch ở tây nam Đông Khê, cho dù thương vong tương đối lớn cũng không nên quá lo, không nên dao động (phải tính đến trong cán bộ có thể có tình hình đó), ngoài ra, phải bám chặt bọn địch trốn khỏi Cao Bằng, không để chúng chạy thoát. Và phải có bố trí trước việc quân địch ở Lạng Sơn có thể đưa quân chi viện. Chỉ cần ba việc trên được xử lý xác đáng thì thắng lợi thuộc về các đồng chí ”.
Trần Canh xem điện trả lời của Mao Trạch Đông rất phấn khởi, lập tức báo cáo với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cũng rất phấn khởi. Quân đội Việt Nam được Hồ Chí Minh cổ vũ tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trải qua chiến đấu quyết liệt, binh đoàn Lepage đã không chống cự nổi. Chiều ngày 6, Lepage dẫn tàn binh bại tướng lùi về trong hang Dơi cố thủ. Sáng ngày 7, tiểu đoàn 130 quân đội Việt Nam bao vây hang này, người phó của Lepage vừa ra cửa hang, bị một tràng đạn của quân đội Việt Nam bắn chết. Lepage và nhân viên tham mưu đành phải nộp súng đầu hàng quân đội Việt Nam.
Thắng lợi tiêu diệt toàn bộ binh đoàn Lepage cổ vũ rất lớn tinh thần binh lính quân đội Việt Nam, làm lung lay dữ dội lòng quân của binh đoàn Charton. Đại đoàn 308 lập tức chuyển quân tấn công tiêu diệt binh đoàn Charton. Chiều cùng ngày binh đoàn Charton cũng bị tiêu diệt hoàn toàn. Đại tá Charton và tỉnh trưởng nguỵ quyền Cao Bằng đều bị bắt sống. Hai binh đoàn Lepage và Charton bị tiêu diệt làm cho quân Pháp trên phòng tuyến quốc lộ 4 hết sức kinh hoàng, lũ lượt tháo chạy, từ Thất Khê, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập cho đến vùng phụ cận Tiên Yên ven biển. Phòng tuyến quốc lộ 4 mà quân Pháp ra công xây dựng ba năm bị sụp đổ hoàn toàn. Đến đây kết thúc thắng lợi chiến dịch Biên Giới.
Chiến dịch này tiêu diệt tất cả 8 tiểu đoàn hoàn chỉnh, hơn 8000 tên địch bị chết, bị thương, bị bắt làm tù binh, thu được rất nhiều vũ khí đạn được, giải phóng 18 thành phố, thị trấn và và khu vực có 350.000 dân, khai thông tuyến giao thông biên giới Trung – Việt, làm cho vùng giải phóng Việt Bắc mở rộng và củng cố, thay đổi rất lớn tình thế chiến lược địch ta trên chiến trường Bắc Bộ. Vi Quốc Thanh điều trị tại bệnh viện lục quân Long Châu, thân tại bệnh viện, tâm tại tiền tuyến, luôn luôn quan tâm theo dõi cuộc chiến phát triển. Bệnh tình có chuyển biến tốt, đồng chí vội ra viện, cùng với Trần Canh, có Võ Nguyên Giáp cùng đi, thị sát Lạng Sơn mà mới lấy lại. Sau đó về đến chỗ ở Nam Sơn. Ngày 10/10, Vi Quốc Thanh đưa ra kiến nghị bằng văn bản với Võ Nguyên Giáp về làm tốt công tác tổng kết chiến dịch, và đích thân chỉ đạo các tổ cố vấn giúp Việt Nam làm công tác tổng kết chiến dịch.
Sau khi nhận lời phát biểu tổng kết chiến dịch suốt 4 ngày ròng tràn đầy nhiệt tình với cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở lên của bộ đội tham gia chiến dịch, ngày 29/10 Trần Canh gửi điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ công tác ở Việt Nam, năng lực đoàn cố vấn rất mạnh, không cần thiết lưu lại ở đây, xin về Bắc Kinh báo cáo công tác ”.
Ngày 30, Trung ương phúc đáp điện đồng ý Trần Canh về nước. Vì thế ngày 1/11 Trần Canh rời Nam Sơn, Việt Bắc trở về tổ quốc, Vi Quốc Thanh cử thư ký Nghiêm Dục Sinh đi tiễn.
Tác chiến đồng bằng
Sau chiến thắng lớn biên giới, phát triển thắng lợi như thế nào là vấn đề Vi Quốc Thanh suy nghĩ trước tiên. Ở Bắc Bộ Việt Nam, có hai chiến trường có thể lựa chọn. Một là vùng đồng bằng sông Hồng, ở đây dân cư đông đúc của cải dồi dào, giao thông thuận tiện, là khu vực phòng thủ trọng điểm của quân Pháp. Một là vùng Tây Bắc, núi cao rừng rậm, dân cư thưa thớt, giao thông bất tiện quân Pháp phòng ngự tương đối yếu. Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm đều cho rằng : mở chiến trường Tây Bắc, đánh mấy chiến dịch, giành lấy vùng Tây Bắc làm cho nó liền một dải với căn cứ địa Việt Bắc, tiến có thể công thoái có thể thủ, tương đối có lợi. Nhưng kiến nghị này không được phía Việt Nam chấp nhận.
Lúc này, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới đều nhằm vào vùng đồng bằng sông Hồng. Kiên trì muốn tác chiến ở đồng bằng, trực tiếp uy hiếp Hà Nội, thực hiện tổng phản công. Vi Quốc Thanh qua phân tích cho rằng cứ điểm quân Pháp ở vùng đồng bằng dày đặc, địa hình thoáng rộng, giao thông thuận tiện có lợi cho quân địch nhanh chóng tăng viện, cũng tiện cho việc phát huy hoả lực của pháo và không quân, điều đó rất bất lợi cho quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng cũng có điều kiện có lợi, cư dân phần lớn là dân tộc Kinh, cơ sở quần chúng khá tốt, có sự phối hợp của đội du kích. Địch hậu lại là vùng lương thực có thể cung cấp tại chỗ. Vi Quốc Thanh cảm thấy phía Việt Nam kiên trì tác chiến vùng đồng bằng cũng có đạo lý nhất định. Nhất là đồng chí nhớ tới lời dặn của các đồng chí lãnh đạo Trung ương luôn luôn nhấn mạnh đoàn kết tốt với đồng chí Việt Nam, nên đồng ý với ý kiến của Việt Nam. Vì thế trong thời gian nửa năm từ tháng 12/1950 đến tháng 6/1951, quân đội Việt Nam liên tiếp mở ba chiến dịch ở vùng ven đồng bằng sông Hồng.
Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp nghiên cứu, trước tiên chĩa mũi tấn công vào vùng trung du sông Hồng. Phương án tác chiến Vi Quốc Thanh đưa ra được phía Việt Nam tiếp nhận là : sử dụng sư 308 và hai trung đoàn của sư 312 vừa thành lập, áp dụng cách đánh bôn tập đường xa, bao vây cứ điểm, đánh chặn chi viện, lấy tiêu diệt 3-5 tiểu đoàn giành lấy một phần vùng sản xuất lương thực làm mục tiêu chiến dịch. Thời gian bắt đầu chiến dịch dự định vào hạ tuần tháng 12. Kế hoạch tác chiến này được Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phê chuẩn sau khi thảo luận. Đồng thời Vi Quốc Thanh báo cáo Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, được đồng ý.
Chiến trường của chiến dịch trung du ở vùng Vĩnh Phú cách Hà Nội vài chục kilomét về phía tây bắc, là vùng ven tây bắc của đồng bằng sông Hồng. Trung tuần tháng 12, Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam đóng trên núi Tam Đảo, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở miền bắc Việt Nam. Núi này cao 1590 mét, từ trên núi có thể nhìn xuống đồng bằng sông Hồng. Phía nam núi có đường ôtô chạy thẳng lên núi, nơi đó là vùng địch chiếm. Phía bắc núi sát vùng giải phóng Việt Bắc có đường mòn dốc đứng lên thẳng đỉnh núi. Vi Quốc Thanh năm đó 37 tuổi bỏ ngựa đi bộ, bước chân chắc nịch, sau hai ba giờ leo núi là cùng nhân viên Ban chỉ huy lên tới đinh. Trên núi rải rác bảy tám ngôi nhà tây kiểu biệt thự, cửa hư hỏng, trong nhà trống trơn. Những nôi nhà này thành chỗ ở của Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam và Đoàn cố vấn.
Chiến dịch trung du nổ súng vào ngày 25/12, đại đoàn 308 đầu tiên tấn công cụm phòng tuyến lô cốt ngầm của địch ở giáp ranh hai tỉnh Vĩnh Phú và Bắc Ninh, cách Hà Nội hơn 30 km về phía bắc, đột kích bất ngờ, tốc chiến tốc thắng, một lúc công phá 5 cứ điểm địch, tiêu diệt khoảng 5 đại đội địch. Trung đoàn 209, sư 312 ngày 27 chạm trán với một tiểu đoàn nước ngoài của quân Pháp, qua hai giờ chiến đấu quyết liệt, cơ bản tiêu diệt tiểu đoàn này. Kết thúc thắng lợi tác chiến đợt 1.
Trận đầu thắng lợi, sở chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam tràn ngập không khí vui mừng. Năm mới đến Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái (Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân) mang rượu sâm banh Pháp lấy được của địch đến chỗ ở của Đoàn cố vấn thăm hỏi và liên hoan. Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái dẫn đầu mời Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh và đồng chí Trung Quốc khác cùng nhảy điệu múa Sạp.
Trong buổi liên hoan, khách chủ liên tục nâng cốc chúc mừng thắng lợi, chúc mừng xuân mới.
Quân đội Việt Nam sau khi nghỉ ngơi, chỉnh đốn và chuẩn bị, ngày 13/1 bắt đầu tác chiến đợt 2 chiến dịch Trung Du. Một bộ phận sư 308 và sư 312 lần lượt tấn công hai cứ điểm Bảo Trác và Ba Huyên phía bắc Kim Anh. Chủ lực của hai sư mai phục ở hương bắc và đông bắc Kim Anh, chuẩn bị đánh chặn viện. Ngày 13 và ngày đêm 14, quân đội Việt Nam liên tiếp tấn công hai cứ điểm trên, diệt hàng trăm quân địch.
Quân Pháp đóng giữ Kim Anh đưa quân chi viện bị quân đội nhân dân phục kích, tiêu diệt một tiểu đoàn địch gốc Phi. Số còn lại rút lui, Quân đội Nhân dân truy kích, triển khai cuộc chiến đấu giành giật điểm cao với quân Pháp tiếp tục tăng viện ở vùng Hữu Thủ. Quân đội Nhân dân có lúc ở vào tình thế có lợi, nhưng quân địch tiếp viện từ Hà Nội đến nhanh, tổng binh lực của địch tăng lên hơn 10.000 tên. Ngày 16 và 17, quân Pháp lợi dụng địa hình trống trải, cho máy bay và đại bác ném bom bắn phá điên cuồng, quân đội Việt Nam thương vong tương đối lớn. Do thiếu lực lượng hậu bị, quân đội Việt Nam rút lui chiến đấu, kết thúc chiến dịch. Chiến dịch này tiêu diệt tất cả hơn 2000 tên địch, quân đội Việt Nam cũng trả giá gần 1000 người thương vong.
Sau chiến dịch Trung Du, Vi Quốc Thanh đề xuất với Việt Nam, kết quả của chiến dịch Trung Du cho thấy, tác chiến với quân Pháp ở vùng đồng bằng có rất nhiều điều bất lợi, không dễ đánh tiêu diệt chiến, chi bằng chuyển sang vùng Tây Bắc, mở chiến trường Tây Bắc. Ý kiến của Vi Quốc Thanh vẫn không được phía Việt Nam chấp nhận. Sau hai tháng nghỉ ngơi chỉnh đốn, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Đông Bắc vào hạ tuần tháng 3. Lựa chọn chiến trường chính của chiến dịch Đông Bắc là vùng phụ cận Uông Bí trên quốc lộ 18 cách Hải Phòng hơn 30 km về phía bắc. Sau khi nghiên cứu hệ thống phòng ngự trên tuyến quốc lộ 18 của quân Pháp, Vi Quốc Thanh cảm thấy binh lực của địch ở vùng gần Uông Bí quả là tương đối mỏng yếu, cùng phía Việt Nam nghiên cứu và xác định bố trí tác chiến : sử dụng mỗi sư 2 trung đoàn của ba sư 308, 312, 316, tất cả binh lực là 7 trung đoàn, vẫn áp dụng cách đánh tấn công các cứ điểm, đánh chặn viện, lấy tiêu tiêu diệt một số tiểu đoàn địch và giải phóng một số vùng làm mục tiêu tác chiến.
Trung tuần tháng 3, Vi Quốc Thanh cùng Mai Gia Sinh và Đặng Dật Phàm dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Bắt đầu từ ngày 23/3 quân đội Việt Nam tấn công kiên tiếp vào bốn cứ điểm lan tháp v.v.. dụ quân Pháp tăng viện. Nhưng quân Pháp sau khi bị động trong chiến dịch Trung Du, trở nên thận trọng, không đưa quân chi viện. Sau ba ngày quân đội Việt Nam lại đánh lấy hai cứ điểm là Bí Tắc, Trường Bạch, quân Pháp vẫn không chi viện. Quân Pháp tăng cường binh lực ở vùng chúng bị đe doạ, dựa vào công sự cố thủ, đồng thời dùng đại bác ở căn cứ lân cận sát thương quân đội Việt Nam. Đêm 29 đến ngày 30, quân đội Việt Nam tấn công hai cứ điểm ở thị trấn Mạo Khê và và mỏ than Mạo Khê đều không thuận lợi, bộ đội thương vong tương đối lớn. Đêm mồng 4 và ngày 5/4, quân đội Việt Nam liên tục tấn công các cứ điểm Tân Đáp. Bãi, Thảo Hoàng chiếm vu lại không thành công. Do thời gian kéo dài đã lâu, quân đội Việt Nam không còn lương thực không thể chiến đấu nữa nữa nên lui quân. Chiến dịch này tiêu diệt hơn 1100 tên đich, còn quân đội Việt Nam thương vong hơn 1700 người, không đạt mục đích chiến dịch.
Trên đường trở về đại đoàn Vương Thạc Tuyên cố vấn đại đoàn 308 khi gặp Vi Quốc Thanh nói : “ Chúng tôi đã đánh hai trận ở đồng bằng đều không lý tưởng, sau này không nên đánh như thế nữa ”. Vi Quốc Thanh giải thích : “ Trung ương cử chúng ta đến đây là để hết sức giúp đỡ quân đội Việt Nam. Hai bên có ý kiến khác nhau đối với kế hoạch chiến dịch sẽ thường xuyên xảy ra. Chúng ta nên nhẫn nại, không nên sốt ruột đối với vấn đề này. Chúng ta sẽ rút kinh nghiệm, tin rằng Việt Nam cũng sẽ rút kinh nghiệm trong thực tiễn chiến đấu ”.
Trước khi mùa mưa đến, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Ninh Bình. Vùng Ninh Bình ở góc tây nam của châu thổ sông Hồng. Ở hướng chủ công, quân đội Việt Nam sử dụng đại đoàn 308 và 304 đóng ở tỉnh Thanh Hoá, tất cả binh lực có 6 trung đoàn. Ý đồ tác chiến là trước tiên tấn công một số cứ điểm của quân Pháp, phục kích bộ đội tăng viện của quân Pháp, nếu địch không xuất quân chi viện thì mở rộng chiếm đóng một số vùng dân cư đông đúc, thu thập nhanh lương thực. Vi Quốc Thanh lại dẫn Ban chỉ huy theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến giúp chỉ huy chiến dịch.
Ngày 28-5, chiến dịch Ninh Bình mở màn, tác chiến đợt 1, quân đội Việt Nam luồn sâu tập kích Ninh Bình và cứ điểm địch dọc tuyến quốc lộ 1. Qua hai đêm chiến đấu, quân đội Việt Nam tấn công tỉnh lỵ Ninh Bình và hơn 10 cứ điểm ở nam, đông nam Ninh Bình, tiêu diệt hơn 600 tên đich. Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny, con trai Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, chỉ huy ở cứ điểm Âu Ni cũng bị quân đội Việt Nam bắn chết. Chiến dịch mở đầu tương đối thuận lợi.
Tác chiến đợt 2 do địch tăng cường lực lượng phòng thủ, Quân đội Nhân dân tuy hạ được một số cứ điểm tiêu diệt một số địch nhưng có những cứ điểm không công phá nổi, đánh chặn viện cũng không được thuận lợi, bộ đội thương vong tương đối lớn, phải rút khỏi chiến đấu. Ngày 20/6 kết thúc chiến dịch. Chiến dịch này công phá được 22 cứ điểm, tiêu diệt hơn 3.100 địch.
Ba lần tác chiến ở vùng Trung Du, Đông Bắc, Ninh Bình là ba chiến dịch quân đội Việt Nam tấn công phòng tuyến kiên cố của địch trong đó quy mô vùng ven đồng bằng Bắc Bộ. Đều là mở đầu tương đối tốt, đột kích bất ngờ, công phá một số cứ điểm, tiêu diệt một số địch. Sau đó, địch hoặc lợi dụng hoả lực của các cứ điểm chi viện cho nhau để cố thủ, hoặc lợi dụng điều kiện giao thông thuận tiện v.v. nhanh chóng điều động binh lực, phát huy ưu thế không quân đại bác, sát thương nặng Quân đội Nhân dân, làm cho Quân đội Nhân dân rơi vào bị động, đành phải kết thúc chiến dịch. Điều đó làm cho Vi Quốc Thanh tỉnh táo nhận thức rằng, quân đội Việt Nam tiến hành tác chiến quy mô tương đối lớn ở vùng đồng bằng và kẻ địch có quân mạnh phòng thủ, thì thời cơ chưa chín muồi. Xem xét từ tình thế địch ta trên toàn Bắc Bộ, cần phải giúp phía Việt Nam có sự chỉ đạo chiến lược sát thực tế hơn để giành thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, cần phải trình bày trực tiếp tình hình với Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, xin Trung ương đưa ra quyết đoán.
Lúc này, Vi Quốc Thanh sang Việt Nam đã gần một năm. Tình hình sức khoẻ của đồng chí rất xấu, ngoài bệnh dạ dày đường ruột thỉnh thoảng lên cơn đau, lại mắc bệnh chóng mặt, đau đầu. Đó là trước lúc chiến dịch Đông Bắc, đồng chí ngày đêm suy nghĩ để đánh tốt trận này. Bỗng một hôm, tự nhiên cảm thấy trời đất quay cuồng, đầu đau như búa bổ, toàn thân chao đảo, cảm thấy còn khó chịu hơn bị thương nặng trước đấy nhiều năm, nằm trên giường tre chốc chốc lại rên. Bác sĩ quân y theo đoàn không thể chẩn đoán chính xác, không dám cho thuốc. Võ Nguyên Giáp biết tin, cử tiến sĩ y học ở Pháp, bác sĩ riêng của đồng chí đến khám, xem xong nói là bị sốt rét. Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm chưa cho đồng chí uống thuốc, điện khẩn cho Lâm Quân Tài cố vấn quân y ở rất xa đến gấp để chẩn đoán bệnh. Sau khi Lâm hỏi rõ bệnh tình, chẩn đoán chính xác là lớp vỏ đại não mất cân đối vì động não quá mức gây ra. Sau khi cho thuốc an thần ngủ một đêm, bệnh tình mới khỏi. Nhưng sau đó, thỉnh thoảng nổi cơn chóng mặt, đau đầu.
Chiến dịch Ninh Bình kết thúc, mùa mưa đã đến, hai bên Việt – Pháp đều không có chiến sự lớn. Vi Quốc Thanh lại điện báo cáo cho Quân uỷ Trung ương, xin về nước để báo cáo tình hình và chữa bệnh. Trung ương trả lời đồng ý, thượng tuần tháng 7/1951, đồng chí rời nơi ở Việt Bắc trở về Bắc Kinh. Sau khi Vi Quốc Thanh về nước, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Hoà Bình đập tan phản công của quân Pháp ở vùng đồng bằng. Sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại ở chiến dịch biên giới, Chính phủ Pháp bổ nhiệm Jean de Lattre de Tassigny, nguyên tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu, làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương. De Lattre sau khi đón nhận nhiệm vụ, một mặt tích cực xây đắp công sự phòng ngự bằng bê tông cốt sắt xung quanh châu thổ sông Hồng, ra sức tạo ra vùng trống không có người để cắt đứt liên hệ với vùng giải phóng ; mặt khác ra sức phát triển nguỵ quân, tập trung bộ đội tinh nhuệ xây dựng binh đoàn cơ động, để đối phó tấn công của Quân đội Nhân dân và tăng cường “càn quét” vùng du kích. Trong thời gian một năm, quân Pháp đã phá huỷ 90% căn cứ địa du kích sau lưng địch của quân đội Việt Nam, từ đó đứng chắc chân. De Lattre cho rằng, thời cơ lấy lại quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ đã đến. Thượng trung tuần tháng 11/1951, quân Pháp huy động 6 binh đoàn cơ động, có không quân, lính thiết giáp và hạm đội trên sông phối hợp dọc sông Đà và quốc lộ số 6, chia làm hai ngả tiến vào vùng giải phóng tây nam Hà Nội, chiếm đóng vùng Hoà Bình.
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ QĐNDVN quyết định mở chiến dịch Hoà Bình. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị của La Quý Ba, Đoàn trưởng Đoàn cố vấn chính trị ; đưa bộ phận chủ lực vòng sau lưng địch, tấn công quân địch, phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch. Bố trí cụ thể là, dùng hai đại đoàn chủ lực tấn công quân địch ở Hoà Bình, đem ba đại đoàn chủ lực lần lượt đi sâu vào sau lưng địch. Ở mặt trận Hoà Bình, quân đội Việt Nam công phá mấy cứ điểm, tiêu diệt 2 tiểu đoàn và một đội thuyền trên sông. Nhưng khi tấn công cứ điểm Phiêu không được, bộ đội thương vong tương đối lớn đã chuyển sang bao vây lâu dài quân địch ở Hoà Bình. Bộ đội chủ lực vào sau lưng địch phân tán xuất kích, đạp tan nguỵ quyền, phát triển chiến tranh du kích, không những khôi phục toàn bộ căn cứ địa du kích trước đây mà còn mở ra một vùng rộng lớn mới, trực tiếp đe doạ Hà Nội, làm cho quân Pháp bị bao vây bốn phía, khó bề xoay xở, đành phải rút khỏi vùng Hoà Bình vào hạ tuần tháng 2/1952, chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi.
Xây dựng bộ đội
Chiến dịch Biên Giới tuy giành được thắng lợi quan trọng, nhưng cũng bộc lộ Quân đội Nhân dân Việt Nam còn có không ít nhược điểm là về số lượng hay chất lượng, đều không thích ứng với yêu cầu tác chiến vận động quy mô lớn. Vi Quốc Thanh cảm thấy sâu sắc rằng, đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến, cần phải giúp họ tăng cường xây dựng bộ đội. Đó cũng là một trong hai nhiệm vụ quan trọng mà các đồng chí lãnh đạo Trung ương giao cho Đoàn cố vấn. Vì vậy, trong thời gian sang Việt Nam gần một năm, Vi Quốc Thanh chú trọng giúp Việt Nam nắm mấy việc sau đây :
1. Mở rộng bộ đội chủ lực, thống nhất biên chế trong trang bị. Chiến dịch Biên Giới vừa kết thúc, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức đưa ra chỉ tiêu cho đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam xây dựng quân chính quy khoảng 50.000 người. Theo đó, Vi Quốc Thanh nêu ra kiến nghị tương ứng với Võ Nguyên Giáp. Tất nhiên Võ Nguyên Giáp rất phấn khởi
Thế là Đoàn cố vấn giúp Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam vạch ra “phương án xây dựng bộ đội chủ lực” và kế hoạch biên chế trang bị, sau khi được Trung ương đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn trên cơ sở các đạị đoàn 304, 308, 312 đã xây dựng, lại được Trung Quốc viện trợ trang bị, thành lập thêm đại đoàn bộ binh 316, 320, và đại đoàn công pháo 351 do 3 trung đoàn pháo binh và một trung đoàn công binh tổ thành. Sau đó thành lập đại đoàn bộ binh 325. Đến cuối năm 1951, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có một lực lượng vũ trang chính quy gồm 6 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo được thay đổi trang bị, biên chế thống nhất.
2. Tăng cường huấn luyện quân sự, nâng cao tố chất quân sự. Vi Quốc Thanh cho rằng, nâng cao tố chất quân sự của quân đội Việt Nam, một là phải dựa vào rèn luyện trong chiến đấu thực tế, hai là phải dựa vào huấn luyện quân sự. Vì thế, đồng chí triệu tập các cố vấn quân sự họp hội nghị bàn về công tác huấn luyện bộ đội. Đồng chí nói với các cố vấn đến dự hội nghị : “ Quân đội Nhân dân Việt Nam trước đây không đánh tiêu diệt chiến, khi đánh trận dàn hàng ngang mà tiến, pháo bắn thì phân tán tránh, như thế không được. Ở trong nước (tức ở Trung Quốc) chúng ta đánh thắng trận, dựa vào cái gì ? Dựa vào 10 nguyên tắc quân sự lớn của Mao Chủ tịch. Hạt nhân của 10 nguyên tắc quân sự lớn là cái gì ? Là đánh tiêu diệt chiến. Không đánh tiêu diệt chiến 9 nguyên tắc khác đều rỗng không. Chỉ cần đánh tốt tiêu diệt chiến thì đạt được mục đích tác chiến.
“ Các đồng chí trở về, phải lợi dụng thời gian nghỉ giữa hai chiến dịch, áp dụng biện pháp mở lớp huấn luyện luân phiên để chấn chỉnh rèn luyện bộ đội, tiến hành giáo dục quân sự cho bộ đội, làm cho mọi người đều nắm chắc tư tưởng đánh tiêu diệt chiến. Và phải dạy họ biết được các chiến thuật và động tác kỹ thuật cần thiết khi đánh tiêu diệt chiến. Làm không tốt việc này, thì chúng ta không thể nào đánh thắng trận được, cũng không thể nào ăn nói với Trung ương được ”.
Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Vi Quốc Thanh, tổ cố vấn quân sự Bộ Tổng Tham mưu và tổ cố vấn của mấy đại đoàn chủ lực giúp phía Việt Nam tổ chức nhiều lớp tập trung huấn luyện cho cán bộ, giúp bộ đội tiến hành nhiều đợt chỉnh huấn quân sự. Quân đội nhân dân lần lượt triển khai huấn luyện quân sự cho 11 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn pháo binh và 1 tiểu đoàn trinh sát. Thời gian mỗi lần chỉnh huấn khoảng một tháng. Đề cương và giáo tài huấn luyện đều do tổ cố vấn giúp biên soạn. Tổ cố vấn ở các đại đoàn giúp đào tạo cán bộ và tổ chức thực thi huấn luyện.
Trong huấn luyện quân sự, cố vấn cấp tiểu đoàn của các đơn vị đã phát huy tác dụng rất lớn. Các đồng chí ấy suốt ngày lăn lê bò toài với cán bộ chiến sĩ cơ sở, dạy họ động tác chiến thuật lợi dụng địa hình, ẩn nấp tiếp cận địch v.v... dạy họ năm kỹ thuật lớn là ném lựu đạn, nhất là tổ chức thực thi đánh bộc phá liên tục. Họ giảng đi giảng lại, làm mẫu nhiều lần, không sợ khổ, không sợ mệt, hết lòng hết sức làm tốt việc huấn luyện, đã thu được hiệu quả tương đối tốt.
3. Tăng cường xây dựng chính quy hoá, khắc phục thói quen du kích. Quân đội nhân dân ở trong môi trường chiến tranh du kích lâu dài, có thói quen du kích khá nặng. Đồng thời bộ máy của các Tổng cục quá cồng kềnh, nặng nề, chức trách của các ban ngành không rõ, tồn tại chủ nghĩa giấy tờ phiền phức. Từ cơ quan đến đơn vị chưa có điều lệ, điều lệnh chính quy và chế độ nội quy thống nhất. Nếu tình hình đó không thay đổi thì không thể thích ứng với yêu cầu của vận động chiến, công kiên chiến. Vì vậy, Vi Quốc Thanh kiến nghị với Võ Nguyên Giáp tiến hành giáo dục chính quy hoá xây dựng các chế độ nội quy đối với cơ quan, bộ đội. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị này. Vì thế, dưới sự chủ trì của Mai Gia Sinh, tổ cố vấn quân sự giúp phía Việt Nam khởi thảo “ Điều lệnh chiến đấu ”, “ Điều lệnh kỷ luật ” và “ Điều lệnh nội vụ ”. Những điều lệnh này sau khi được Tổng Quân uỷ Quân độI nhân dân Việt Nam thảo luận sửa đổi, thông qua, ban bố trong toàn quân chấp hành, làm cho việc xây dựng chính quy hoá của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến một bước dài. Các cố vấn còn giúp quân đội Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện cán bộ tham mưu, bồi dưỡng cán bộ tham mưu của Bộ Tổng Tham mưu và của các đại đoàn chủ lực tăng cường xây dựng Bộ tư lệnh của Quân đội Nhân dân.
4. Bồi dưỡng cán bộ huấn luyện, đề bạt cán bộ từ cơ sở. Trong chiến dịch Biên Giới, Vi Quốc Thanh tìm hiểu thấy đông đảo chiến sĩ và một số cán bộ cơ sở bộ đội quân đội Việt Nam trong chiến đấu thể hiện rất tốt, dũng cảm mưu trí, chịu thương chịu khó, tuân thủ kỷ luật, trong đó không thiếu nhân tài ưu tú, nhưng đã lâu không được đề bạt trọng dụng. Bởi vì Quân đội Nhân dân nói chung không đề bạt cán bộ trong chiến sĩ, mà là tuyển dụng học sinh thanh niên, được trường quân sự hoặc đợi huấn luyện tập huấn ngắn ngày, rồi phân phối về bộ đội làm cán bộ trung đội, đại đội. Một số cán bộ học sinh này biểu hiện rất tốt, nhưng cũng có không ít người không biết đánh giặc, không biết chỉ huy, ra trận nhút nhát, tham sống sợ chết. Đó là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sức chiến đấu của bộ đội. Trong cán bộ các cấp hiện có thành phần cũng khá phức tạp 4. Vi Quốc Thanh cho rằng, muốn giải quyết vấn đề nhức nhối này, cần phải bắt tay từ hai mặt :
– Một là luân phiên huấn luyện cán bộ hiện có, nâng cao tố chất quân sự và trình độ chính trị của họ. Vì vậy, tổ cố vấn chính trị do Đặng Dật Phàm chủ trì đã giúp phía Việt Nam mở lớp bồi dưỡng cán bộ phân kỳ chia đợt, luân lưu huấn luyện cán bộ đại đội trở lên. Trong lớp bồi dưỡng cán bộ, vừa học chính trị vừa học quân sự. Cố vấn đích thân giảng bài, hướng dẫn học viên độc lập suy nghĩ, dạy lẫn nhau học lẫn nhau; tự giác giải quyết tư tưởng. Lớp bồi dưỡng đợt đầu đã thu được kết quả rõ rệt, Hồ Chí Minh khen ngợi. Từ đợt thứ hai trở đi lãnh đạo đảng và quân đội Việt Nam Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và lãnh đạo các Tổng cục cũng lần lượt đến lớp huấn luyện giảng bài, thu được hiệu quả tốt hơn. Trong mấy năm về sau liên tục tổ chức được 8 đợt bồi dưỡng cán bộ, cán bộ đại đội trở lên của bộ đội Việt Bắc về cơ bản luôn lưu huấn luyện được một lần, có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao tố chất cán bộ, tăng cường sức chiến đấu của quân đội.
– Hai là coi trọng đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ, từng bước thay đổi thành phần của đội ngũ cán bộ. Công việc này được từng bước hướng dẫn và giúp đỡ phía Việt Nam tiến hành. Tổ cố vấn từ các Tổng cục đến các đại đoàn đều lợi dụng dịp tổng kết chiến dịch, hướng dẫn các chỉ huy cao cấp xuống cơ sở mở cuộc toạ đàm, nghe các chiến sĩ kể chuyện chiến đấu. Rất nhiều chiến sĩ kể chuyện rất sinh động hoạt bát, sự thật cụ thể, kinh nghiệm thiết thực. Các chỉ huy cao cấp dự toạ đàm cuối cùng nhận thức được trong chiến sĩ thực sự có nhân tài, nên đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Sau chiến dịch Biên Giới, Võ Nguyên Giáp đi cùng cố vấn pháo binh Đậu Kim Ba, xuống bộ đội mở ba cuộc chiến sĩ toạ đàm làm cho đồng chí cảm thấy rất nhiều bổ ích. Sau đó đồng chí nói với cố vấn : “ Bộ đội cấp dưới có những nhân tài cầm quân đánh giặc. Ý kiến của các đồng chí đúng, phải tìm nhân tài có kinh nghiệm tác chiến từ cấp dưới, đưa lên vị trí lãnh đạo, mới có thể nâng cao sức chiến đấu ”. Từ đó quân đội Việt Nam bắt đầu chú ý tuyển chọn đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Nhưng vấn đề, thuộc về đường lối cán bộ này mãi đến sau 1953, Đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam chỉnh quân chính trị, mới được giải quyết tương đối tốt. Trong thời gian này, Đặng Dật Phàm dẫn đầu tổ cố vấn chính trị bắt tay giúp Việt Nam tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến, tăng cường xây dựng toàn diện công tác chính trị. Mã Tây Phu dẫn đầu tổ cố vấn hậu cần lấy việc làm tốt bảo đảm hậu cần cho các chiến sĩ làm trọng tâm, dẫn dắt xây dựng toàn diện công tác hậu cần, làm cho nó từng bước thích ứng với nhu cầu của đánh vận động quy mô lớn.
Thế là, trải qua một năm công tác Quân đội nhân dân Việt Nam đều đạt được thành tích rõ rệt trên các mặt xây dựng quân sự, chính trị, hậu cần, thực hiện bước chuyển biến từ giai đoạn đánh du kích sang giai đoạn đánh vận động.
Tiến quân lên Tây Bắc
Sau khi về Bắc Kinh, đồng chí Vi Quốc Thanh báo cáo tình hình công tác của đoàn cố vấn quân sự với Lưu Thiếu Kỳ, Nhiếp Vinh Trăn, trình bày ý kiến của mình đối với chiến trường Việt Nam và phương hướng công tác chiến từ nay về sau, được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương coi trọng.
Do tình hình sức khoẻ của Vi Quốc Thanh không được tốt, trong thời gian ngắn không thể trở lại Việt Nam công tác, Trung ương bèn bổ nhiệm đồng chí làm Phó tư lệnh lực lượng công an. Từ đó, Vi Quốc Thanh dời vào ngôi nhà chữ Khẩu ở Đông Bản Kiều, chấm dứt lịch sử đồng chí ở chiêu đãi sở sau khi về nước và ở nhà tập thể thời gian dài với phu nhân, Hứa Kỳ Thanh, công tác ở Ban Tổ chức Trung ương. Vi Quốc Thanh tuy làm việc ở Bộ Tư lệnh lực lượng công an, nhưng vẫn quan tâm theo dõi sự phát triển của tình hình chiến sự Việt Nam. Các bức điện quan trọng qua lại giữa Quân uỷ Trung ương và Đoàn cố vấn, Cục Cơ yêu Bộ Tổng tham mưu theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đều sao chuyển cho đồng chí xem.
Thu đông năm 1951, tình hình chiến tranh Triều Tiên tương đối ổn định. Mao Trạch Đông càng quan tâm theo dõi với tình hình chiến sự Đông Dương hơn. Tầm mắt của Mao Chủ tịch không chỉ chú ý theo dõi chiến trường Bắc Bộ Việt Nam, mà còn chú ý theo dõi chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ, chú ý theo dõi Lào và Campuchia. Không chỉ chú ý theo dõi chiều hướng của quân Pháp, mà còn quan tâm đến hoạt động của Mỹ đặt chân vào Đông Dương. Trong đầu Mao Chủ tịch dần dần hiện lên rõ nét một ý tưởng chiến lược : trước hết mở chiến trường Tây Bắc, giành lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Sau đó phát triển xuống Trung Nam Bộ, phát triển sang Trung Hạ Lào và Campuchia. Tấn công trước vào vùng binh lực địch mỏng yếu, để từng bước làm cho mình lớn mạnh lên, làm cho địch suy yếu, tạo điều kiện, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đánh lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Phải đề xuất kiến nghị này với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Cử ai đi bây giờ ? Sau khi Mao Trạch Đông bàn với Lưu Thiếu Kỳ, quyết định giao nhiệm vụ này cho La Quý Ba hoàn thành, và giao La Quý Ba kiêm luôn quản lý công tác của Đoàn cố vấn.
Đồng chí La Quý Ba tham gia cách mạng năm 1925, trải qua cuộc đấu tranh ở Tỉnh Cương Sơn và cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, từng giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân khu Tấn Trung (miền Trung Sơn Đông), Chính uỷ Quân đoàn 7 v.v... Tháng 3/1950 sang Việt Nam làm đại diện liên lạc của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ít lâu sau sang làm Trưởng đoàn cố vấn chính trị của Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách giúp công tác đảng của Việt Nam. Sau khi về nước nghỉ ngơi không lâu, đầu năm 1952 La Quý Ba lại nhận mệnh lệnh của Trung ương, sang Việt Nam. Vùng Tây Bắc Việt Nam giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc có giá trị chiến lược rất quan trọng, nó là vùng xung yếu chiến lược của quân Pháp án ngữ Thượng Lào kiềm chế vùng giải phóng Việt Bắc, yểm hộ đồng bằng sông Hồng. Đánh lấy vùng Tây Bắc có thể nối liền thành một dải với vùng giải phóng Việt Bắc, hình thành hậu phương vững chắc, bắc dựa Trung Quốc, nam tiếp giáp Thượng Lào, một vùng rộng lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tạo điều kiện giành lấy đồng bằng sông Hồng và thúc đẩy toàn quốc kháng chiến thắng lợi. Còn quân Pháp ở vùng Tây Bắc chỉ có binh lực của 8 tiểu đoàn và 41 đại đội, phân tán chốt giữ 144 cứ điểm, dù là phân bố binh lực hay cấu trúc công sự đều mỏng yếu hơn nhiều so với vùng đồng bằng sông Hồng. Đó là điều kiện có lợi cho Quân đội Nhân dân tiến quân lên đánh Tây Bắc. Tuy nhiên, vùng Tây Bắc sông sâu núi cao, dân cư thưa thớt, là vùng tập trung dân tộc thiểu số, cơ sở quần chúng yếu, kinh tế nghèo nàn, giao thông bất tiện. Đó là điều kiện bất lợi. Lúc đó rất nhiều cán bộ cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam chỉ nhìn thấy mặt bất lợi, mà không nhìn thấy giá trị chiến lược quan trọng của vùng này, nên không muốn lên Tây Bắc tác chiến.
Sau khi La Quý Ba đến Việt Nam, chuyển tới chủ tịch Hồ Chí Minh sự phân tích và kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với phương hướng tác chiến từ nay về sau, Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị đó. Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp trong tháng 4, ra quyết định chuyển hướng chủ công của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc.
Sau đó, Đoàn cố vấn quân sự và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần phương án tác chiến của chiến dịch Tây Bắc và từ tháng 4 đến tháng 7, ba lần điện thỉnh thị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ; Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị tỉ mỉ vấn đề mục tiêu, chiến thuật và thời gian tác chiến tại Tây Bắc. Cuối cùng phương án tác chiến của phía Việt Nam xác định là sử dụng hai đại đoàn 308,312 và hai trung đoàn của đại đoàn 316 tất cả binh lực 8 trung đoàn, mở tấn công địch vào trung tuần tháng 10. Tác chiến đợt 1 giải phóng vùng Nghĩa Lộ và Quang Huy, tác chiến đợt 2 giải phóng vùng Sơn La và Mộc Châu.
Hạ tuần tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc, sau đó nhận lời mời sang Liên Xô dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong thời gian ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Bành Đức Hoài trực tiếp đưa ra với Hồ Chí Minh kiến nghị về chiến lược chung của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, tức trước tiên đánh lấy vùng Tây Bắc, tiến tới tiến sang Thượng Lào, để xây dựng hậu phương chiến lược rộng lớn. Có hậu phương chiến lược này thì có thể ở vị thế chủ động. Sau đó sẽ phát triển sang những vùng binh lực địch mỏng yếu Trung Hạ Lào, Campuchia và Trung Nam Bộ Việt Nam, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành toàn thắng chiến tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh bày tỏ hoàn toàn tán thành kiến nghị này. Các vị lãnh đạo lại thảo luận thêm vấn đề tác chiến vùng Tây Bắc và đi đến ý kiến nhất trí.
Hồ Chí Minh nêu ra với Mao Trạch Đông, chiến dịch Tây Bắc sắp bắt đầu vô cùng quan trọng, tốt nhất mời Vi Quốc Thanh sang lại Việt Nam giúp đánh tốt trận này. Mao Trạch Đông đồng ý ngay yêu cầu của Hồ Chí Minh. Ngày 30/9, Hồ Chí Minh gửi điện cho La Quý Ba nói, đồng chí đã bàn với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trọng điểm của chiến dịch Tây Bắc là tấn công Nghĩa Lộ. Sau khi đánh lấy Nghĩa Lộ, lập tức phát triển ra vùng xung quanh, thành lập căn cứ địa cách mạng, xây dựng đường ôtô Yên Bái đi Nghĩa Lộ. Tác chiến đợt hai không tấn công Sơn La nữa. Hồ Chí Minh còn báo cho La Quý Ba biết, Vi Quốc Thanh sẽ nhanh chóng từ Bắc Kinh đi Việt Nam.
Ngày 1/10 năm ấy là ngày quốc khánh thứ 3 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Trên quảng trưởng Thiên An môn đêm hôm đó, hàng vạn quần chúng hân hoan vui mừng, ca hát nhảy múa. Vào lúc màn đêm buông xuống, mtc đến thành lầu Thiên An Môn nghồi chính giữa, cùng các trợ thủ chủ yếu của người xem pháo hoa. Lúc đó Vi Quốc Thanh đã được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh lực lượng công an, cũng bước lên Thiên An Môn. Đồng chí nhìn thấy Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đang mỉm cười ngồi bên cạnh. Từ trên thành lầu, Vi Quốc Thanh một lần nữa nhận mệnh lệnh sang Việt Nam chấp hành sứ mệnh quân sư.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nhận điện của Hồ Chí Minh họp lại một lần nữa thảo luận kế hoạch chiến địa Tây Bắc. Hội nghị quyết định huỷ bỏ kế hoạch tác chiến đợt hai đã bàn định trước đấy, theo điện chỉ thị của Hồ Chí Minh tập trung tấn công Nghĩa Lộ. Võ Nguyên Giáp không dự hội nghị này đang dẫn Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch tiến lên Nghĩa Lộ. Sau khi nhận được điện báo của Trường Chinh thông báo tình hình cho đồng chí sau hội nghị, Võ Nguyên Giáp tỏ ra không đồng ý thay đổi kế hoạch tác chiến đợt 2. Trường Chinh quyết định chờ Vi Quốc Thanh sau khi đến sẽ định đoạt lại.
Vi Quốc Thanh ở Bắc Kinh được nghe chỉ thị trực tiếp của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài và sau khi trao đổi với Hồ Chí Minh, ngày 16/10 đến căn cứ địa Việt Bắc. Ngay hôm đến Việt Bắc, lập tức chuyển đến lãnh đạo Việt Nam ý kiến của Hồ Chí Minh đã trao đổi với Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài về chiến dịch Tây Bắc Việt Nam. Ngày 18/10, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận lại La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cũng tham gia hội nghị này. Hội nghị quyết định sau đợt một chiến dịch Tây Bắc, xem tình hình lúc bấy giờ hãy quyết định có tiến hành đánh đợt 2 hay không.
Sau hội nghị, ngày 24/10, Vi Quốc Thanh ra tiền tuyến Nghĩa Lộ. Lúc này Mai Gia Sinh đã dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn ở tiền tuyến Tây Bắc giúp phía Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến đợt 1 chiến dich.
Chiến dịch Tây Bắc đã được sắp đặt và chuẩn bị thời gian dài bắt đầu nổ súng ngày 14/10/1952. Đêm hôm đó, trung đoàn 174 đại đoàn 316 tiêu diệt luôn quân địch ở cứ điểm Ca Vịnh, trung đoàn 141 đại đoàn 312 tấn công cứ điểm Sài Lương. Đại đoàn 308 sau khi bao vây sở chỉ huy phân khu của địch ở Nghĩa Lộ đêm 17 trước tiên tiêu diệt địch ở cứ điểm ngoại vi Bố Trương, tiếp đó sau khi chuẩn bị hỏa pháo, đã tấn công Nghĩa Lộ, cuộc chiến đấu quyết liệt đến hửng sáng hôm sau, tiêu diệt toàn bộ hơn 700 tên địch đóng ở Nghĩa Lộ.
Khói đạn chiến đấu ở Nghĩa Lội chưa tan, Vu Bộ Huyết, cố vấn quân sự của đại đoàn 308 lập tức dẫn cảnh vệ Lỗ Hiển Dư đi xem trận địa. Khi họ đến bên cạnh trận địa quân Pháp bên gò núi, chú Lỗ liếc mắt nhìn thấy lá cờ của quân Pháp trên trận địa vẫn bay ở đây bèn hô lên một tiếng : “ Tôi đi nhổ lá cờ đó ”, một mình chạy tới lá cờ của quân Pháp. Vu Bộ Huyết vội hét lên : “ Chú Lỗ quay về ”, nói chưa dứt lời, một tiếng nổ vang lên, một quả mìn nổ tung chàng trai Lỗ Hiển Dư người Sơn Đông, vừa tròn 20 tuổi ngã xuống, một dòng máu nóng chảy trên mảnh đất Việt Nam.
Cùng lúc với đại đoàn 308 thắng lợi ở Nghĩa Lộ, đại đoàn 312 đang tiến lên tấn công vào sâu phía bắc bờ tây sông Hồng, trên đường quét sạch cứ điểm quân Pháp, đánh tan quân địch phục kích ở Nam Mai và tiếp tục buộc địch rút khỏi điểm Tú Lệ, Gia Hội v.v.. Trung đoàn độc lập 148 từ Lào Cai tiến xuống phía nam, giải phóng Quỳnh Nhai ở bờ đông sông Đà, và hợp lại với đại đoàn 312. Các đại đoàn 308 và 316 sau khi đánh thắng trận đầu tiếp tục tiến quân tấn công Phù Yên, Vạn An v.v.. cho ngựa uống nước sông tại sông Đà.
Đến 23/10, tác chiến đợt 1 cơ bản kết thúc, tấn công tất cả 35 cứ điểm tiêu diệt gần 200 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ tây sông Hồng đến đông sông Đà. Khi Vi Quốc Thanh đến tiền tuyến Tây Bắc vào đúng lúc tác chiến đợt 1 kết thúc tác chiến đợt 2 chưa bắt đầu. Đồng chí và Võ Nguyên Giáp chia tay hơn một năm, hôm đó gặp lại tại tiền tuyến, hai người hết sức thân thiết. Vi Quốc Thanh tìm hiểu tỉ mỉ tình hình tác chiến đợt 1 và tình hình địch ta trước mắt.
Sau khi mở màn chiến dịch, quân Pháp điều động 4 trung đoàn dù từ Hà Nội đổ bộ xuống vùng Tây Bắc. Quân lính đóng tại vùng Tây Bắc, quân Pháp hiện có 7 tiểu đoàn cơ động, 4 tiểu đoàn phòng thủ, cộng với ngụy quân địa phương và những tên bị đánh tan ở đông sông Đà tháo chạy, ở vùng Sơn la, Lai Châu có tất cả khoảng 10.000 binh lực, phân bố trên một dải đất dài 300 km, rộng hơn 50 km. Phòng ngự của địch tương đối phân tán mỏng yếu. Quân đội Việt Nam tuy có thương vong, nhưng số quân không giảm mấy và do trận đầu thắng lợi tinh thần lên cao, cung cấp hậu cần cũng không có vấn đề gì lớn. Vì vậy, Vi Quốc Thanh tán thành tiếp tục tiến hành tác chiến đợt 2. Nhưng lúc này, quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng áp dụng hành động mới. Ngày 29/10 quân Pháp điều động 3 binh đoàn cơ động, và phối hợp với cụm pháo binh do viên chỉ huy khu vực Bắc Bộ De Linarès chỉ huy, xuất phát từ tây đồng bằng sông Hồng, tiến vào vùng Phú Thọ, hòng chiếm đóng Phú Thọ và Yên Bái căn cứ hậu cần của quân đội Việt Nam, cắt đứt tuyến cung cấp lương thực của quân đội Việt Nam, để giải vây cho Tây Bắc.
Ý đồ của địch rất rõ ràng, nên xử lý tình hình này như thế nào ? Sau khi Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh trao đổi với nhau kiến nghị phía Việt Nam rút ra 1 trung đoàn chủ lực trở về Phú Thọ, cùng với hai trung đoàn chủ lực bố trí sẵn ở vùng gần đó và một số bộ đội địa phương quần nhau với địch. Đồng thời, nhân lúc binh lực ở đồng bằng sông Hồng đang trống, quân đội Việt Nam tăng cường hoạt động vũ trang sau lưng địch, ra sức mở rộng vùng du kích, uy hiếp hậu phương địch. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này.
Quân Pháp tiến vào Phú Thọ bị chủ lực quân đội Việt Nam và bộ đội địa phương kiên quyết chặn đnáh, hành động chậm chạp. Sau khi đến gần Tuyên Quang được tin hậu phương của chúng không ổn địch, buộc phải rút lui. Trên đường rút lui không ngừng bị quân đội Việt Nam tấn công bắn chết, bị thương. Ngày 17/11 trung đoàn 36 đại đoàn 308 từ tiền tuyến Tây Bắc quay về phục kích trên quốc lộ số 2, một lúc tiêu diệt hơn 400 tên địch, bắn hỏng hơn 10 xe tăng và hơn 30 ôtô. Ba trung đoàn chủ lực Việt Nam truy kích quân Pháp đến phòng tuyến đoạn phía Tây đồng bằng sông Hồng mới thu quân. Hành động giải vây Tây Bắc của quân Pháp lần này đã phải trả giá bằng việc hơn 1.200 tên địch bị thương vong, rốt cuộc thất bại hoàn toàn.
Ngày 15/11, tác chiến đợt 2 bắt đầu. Sáu trung đoàn chủ lực quân đội Việt Nam vượt sông Đà, triển khai cuộc tấn công vào tỉnh Sơn La giáp Lào, công phá các cứ điểm quan trọng của quân Pháp, qua 6 ngày đêm liên tục tác chiến đã giải phóng các thành phố thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, Tuần Giáo v.v.. tiêu diệt rất nhiều quân địch.
Khi tấn công Thuận Châu, quân đội Việt Nam được biết từ cửa miệng tù binh, binh lực địch ở Điện Biên Phủ trống vắng, chỉ có 200 lính người Thái canh giữ dưới sự chỉ huy của một trung úy quân Pháp, liền đưa một tiểu đoàn bộ binh, qua hai ngày hai đêm băng rừng lội suối ngày 30/11 nhẹ nhàng lấy được Điện Biên Phủ, bọn địch canh giữ chạy tán loạn vào rừng. Ngày 22/11 quân Pháp bỏ tỉnh lỵ Sơn La. Khoảng 8 tiểu đoàn binh lực địch tháo chạy khỏi các nơi ở Sơn la tập trung về Nà Sản cách Sơn La 20km về phía nam, tranh thủ xây dựng công sự hòng cố thủ. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính quyết định tập trung 6 trung đoàn chủ lực, bao vây và tấn công Nà Sản, tiêu diệt quân địch cố thủ, giành toàn thắng của chiến dịch.
Nhưng lúc này tình hình ở Nà Sản có thay đổi. Quân địch giữ Nà Sản được không quân Pháp ra sức chi viện; trước tiên thả tấm thép làm đường băng làm sân bay đơn giản rất nhanh, tiếp đó máy bay vận tải chở xe tăng, pháo và vật liệu xây dựng công sự, binh lính xây dựng thành tập đoàn cứ điểm, hơn 20 cứ điểm. Sau khi chuẩn bị ngắn ngày, đêm 30/11 quân đội Việt Nam tấn công 4 cứ điểm bên ngoài Nà Sản. Do địch phát huy ưu thế hỏa lực, chi viện cho nhau, có cứ điểm chưa công phá được có cứ điểm sau khi công phá bị địch lấy lại, bộ đội ta bị thương vong nặng. Lúc này quân Pháp lại cho 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản, tổng binh lực lên đến hơn 7000 người.
Sau khi phân tích tình hình tác chiến ở ngoại vi Nà Sản, Vi Quốc Thanh cho rằng cứ điểm của địch thành cụm, hỏa lực chi viện cho nhau, công sự ngày càng tăng cường binh lực ngày càng tăng thêm quân đội Việt Nam khó gặm nổi cục xương cứng này. Tiếp tục đánh, bộ đội thương vong nhiều hơn, tiêu hao lớn hơn, lúc đó nếu địch phản kích, quân đội Việt Nam sẽ bị thiệt hại lớn. Vì vậy, đồng chí kiến nghị với Võ Nguyên Giáp thu quân từ đây, kết thúc chiến dịch. Phía Việt Nam chấp nhận kiến nghị này. Chiến dịch Tây Bắc kết thúc ngày 10/12.
Trong chiến dịch Tây Bắc trải qua gần hai tháng, quân đội Việt Nam giành được thắng lợi to lớn, tiêu diệt tất cả 13.800 tên địch giải phóng vùng đất rộng 28.500 km2 và 25.000 dân. Toàn bộ vùng Tây Bắc, trừ ngoại vi Nà Sản của tỉnh Sơn La và nửa phần phía bắc của tỉnh Lai Châu, đều do quân đội nhân dân kiểm soát. Vùng giải phóng nối liền thành một dải với căn cứ địa Việt Bắc, hình thành hậu phương chiến lược rộng lớn, thay đổi hơn nửa tình thế chiến lược địch ta của chiến trường Bắc Bộ.
Ngày 17/12, khi gửi điện cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc trình bày tình hình tác chiến Tây Bắc, Vi Quốc Thanh có nói : “ Tác chiến từ Nghĩa Lộ đến Yên Châu, đều căn cứ vào chỉ thị của Mao, Bành, tập trung binh lực hỏa lực ưu thế, chủ động tấn công tác chiến; đồng thời binh lực địch tương đối phân tán, các cứ điểm không thể tiếp ứng cho nhau, cho nên dễ bị ta công phá từng cái. Ta lợi dụng tấn công ban đêm, tránh được đe dọa của không quân, pháo binh, giải quyết chiến đấu nhanh chóng, lại có thể lợi dụng địa hình có lợi, di chuyển trận địa nghỉ ngơi tiêu hao đạn dược chưa được bổ sung, cho nên tuy thường bị đói hành động tác chiến dồn dập, nhưng thắng lợi liên tiếp, tinh thần rất cao... đến giai đoạn bao vây Nà Sản, cán bộ bắt đầu có tâm lý cho là gặp may, đánh giá chưa đầy đủ tình hình địch ở Nà Sản, khinh địch, cho nên khi đánh bốn cứ điểm bên ngoài Nà Sản thương vong tương đối lớn. Do hỏa lực của không quân, pháo binh địch được phát huy cao độ, tâm tư bộ đội chuyển biến nhanh, tư tưởng bi quan dao động nhanh chóng lan tràn, nảy sinh tâm lý oán trách. Thái độ của cán bộ đại đoàn, trung đoàn im lặng (vì đã không bảo đảm lấy được Sơn La, trước mặt Hồ Chí Minh), không dám báo cáo lên trên tình hình chân thực của bộ đội, Bộ Tổng Tham mưu không thể nắm chính xác tình hình bộ đội. Kết quả cán bộ đại đoàn, trung đoàn muốn cố vấn đề đạt ý kiến lên trên, Bộ tổng thì yêu cầu đại đoàn, trung đoàn bày tỏ thái độ có thể thắng hay bại, hình thành tình trạng trên dưới không chịu trách nhiệm đối với chiến tranh. Căn cứ theo tình hình lúc bấy giờ, chúng tôi không thể không nhanh chóng bày tỏ thái độ ”.
Vào lúc kết thúc chiến dịch Tây Bắc, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở về Bắc Kinh. Trong thời gian ở Moscow, Stalin tiếp kiến Hồ Chí Minh, hai bên trao đổi một số vấn đề trọng đại liên quan đến cách mạng Việt Nam 5. Ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nhận được báo cáo tình hình quân sự của chiến dịch Tây Bắc. Người cảm thấy quân đội Việt Nam ngừng tác chiến hơi sớm, còn có thể đánh tiếp, tốt nhất nhân đà khí thế đang hăng đánh lấy Nà Sản. Vì thế ngày 14/12, Người điện cho Võ Nguyên Giáp và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện viết : “ Bọn địch ở Nà Sản cô lập, tấn công Nà Sản có ý nghĩa rất lớn đối với củng cố Tây Bắc, phát triển quan hệ với Lào, nên ra sức tiêu diệt quân địch ở đây, đừng để cho chúng chạy thoát. Nếu không thể tiêu diệt một lần thì chỉ vài lần tiêu diệt chúng. Và đề ra, trên nguyên tắc, không ảnh hưởng đến đánh Nà Sản có thể đồng thời hoặc sớm hơn quét sạch bọn địch ở vùng Lai Châu ”.
Bức điện đó của Hồ Chí Minh Vi Quốc Thanh được xem trước, vì điện văn qua lại giữa Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đều do điện đài của Đoàn cố vấn sau khi nhận và dịch mới chuyển cho phía Việt Nam. Sau khi xem điện Võ Nguyên Giáp lại bàn với Vi Quốc Thanh, ý kiến của hai người nhất trí. Trước mắt không thể tiếp tục đánh Nà Sản. Ngày 17/12 Vi Quốc Thanh điện cho Quân uỷ Trung ương :
“ Đã biết bức điện ngày 14 của Hồ chủ tịch, chấp hành điện này có khó khăn. Quân địch cố thủ Nà Sản hiện có 10 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoạn lựu pháp, còn ta trong 5 trung đoàn có 3 trung đoàn thương vong tương đối lớn, không chỉnh đốn thì không thể đánh tiếp. Vì vậy đề nghị thu quân thắng lợi, tạm thời bao vây quân địch ở Nà Sản, đợi tình hình có lợi sẽ tấn công lấy Nà Sản. Phải mất hai tháng làm tốt việc chấn chỉnh bổ sung bộ đội tranh thủ trước mùa mưa mở lại chiến dịch ở Tây Bắc. Ở phía bắc quét sạch bọn địch ở ngoại vi Lai Châu, cô lập Lai Châu. Ở phía nam tấn công lấy Sầm Nứa của Lào, nối liền với Điện Biên Phủ, tạo điều kiện tiếp tục mở ra chiến trường trung Lào ”.
Ngày 19/12, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời Vi Quốc Thanh, nêu rõ : “ Bọn địch ở Nà Sản gặp rất nhiều khó khăn, nếu quân đội nhân dân có thể tấn công thì rất có lợi cho việc củng cố Tây Bắc, giải phóng Lào. Nhưng tấn công Nà Sản không phải làm ngay lập tức, cần phải chuẩn bị ít nhất ba tháng, khi có đủ năng lực công kiên và nắm chắc thắng lợi mới tấn công tiêu diệt ”. Bức điện này vừa nêu lên tầm quan trọng của việc đánh lấy Nà Sản, ủng hộ ý kiến của Hồ Chí Minh vừa nêu ra phương châm cần phải chuẩn bị đầy đủ, sau khi có đủ điều kiện hãy đánh Nà Sản, cũng giải tỏa được nỗi lo của Vi Quốc Thanh.
Đầu tháng 1/1953, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác và xin chỉ thị vấn đề tác chiến.
Tiến đánh Sầm Nứa
Ngày 3/2/1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Vốn định đánh Nà Sản trước mùa mưa, vì chuẩn bị chưa kịp, quyết định đánh sau mùa mưa. Tranh thủ tổ chức chiến dịch Sầm Nứa trong tháng 4, đánh lấy vùng thượng Lào ”. Ngày 9, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời tán thành.
Ngày 2/3 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nêu lên ý kiến cần làm tốt hơn công tác chuẩn bị chiến dịch Thượng Lào, nói : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh sắp lên đường sang Việt Nam giúp các đồng chí tổ chức chiến dịch Sầm Nứa, ngày 14/3 có thể đến Bằng Tường ”.
Ngày 5/3, Vi Quốc Thanh vâng lệnh từ Bắc Kinh lên đường sang Việt Nam. Cùng đi còn có Hồ Chí Minh, đồng chí muốn về nước sau khi chữa bệnh nghỉ ngơi ở Bắc Kinh. Hai người cùng ngồi trong một toa xe công vụ của đoàn tàu từ Bắc Kinh đi Nam Ninh. Hồ Chí Minh rất nhiệt tình hiền hoà với mọi người, coi Vi Quốc Thanh như người bạn tri ân chuyện gì cũng có thể nói với nhau. Trên đường, Hồ Chí Minh nói đến tình hình hiện tại, nói đến chặng đường đã qua, cũng nói đến tình hình đồng chí gặp Stalin ở Moscow. Hồ Chí Minh nói với Vi Quốc Thanh : “ Năm nay chúng tôi sẽ triển khai cải cách ruộng đất quy mô lớn ở căn cứ địa Việt Bắc, bởi vì “ người ” đã nói rồi ”. Khi nói tới chữ đồng chí cố ý kéo dài âm điệu đồng thời đặt hai ngón tay lên miệng thành hình chữ “ bát ”. Vi Quốc Thanh hiểu ngay đó là Stalin.
Hồ Chí Minh nói : Khi gặp nhau ở Moscow ông ấy hỏi tôi : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân, hay là muốn làm lãnh tụ của địa chủ, nhà tư bản ? ” tôi nói : “ Tất nhiên tôi làm lãnh tụ của công nhân nông dân ”. Ông ấy nói : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân thì phải mang lại ruộng đất cho họ, mang lại lợi ích thực tế cho họ ”. Ông ấy còn lấy ví dụ nói với tôi : “ Ví như một chiếc đòn gánh, một đầu là công nhân, nông dân, một đầu là địa chủ nhà tư bản, đồng chí phải đứng ở một đầu, không thể đứng ở giữa, đứng ở giữa không thể được ”. Hồ Chí Minh tiếp tục nói : “ Thực ra, được sự giúp đỡ của La Quý Ba, chúng tôi đã làm rất tốt nhiều việc về mặt phát động quần chúng, đã làm giảm tô giảm tức, chuẩn bị tiến hành cải cách ruộng đất. Bây giờ ông ấy đã nói ra, sau khi tôi về nước, phải thống nhất tư tưởng trong đảng chúng tôi hơn nữa, làm cải cách ruộng đất quy mô lớn ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì tốt ! thời kỳ chiến tranh giải phóng ở Trung Quốc, nhờ có cải cách ruộng đất, nông dân hăng hái tòng quân, chi viện tiền tuyến, cho nên giành được thắng lợi toàn quốc rất nhanh. Việt Nam làm cải cách ruộng đất, quần chúng được phát động hơn nữa, nhất định sẽ thúc đẩy tiến hành kháng chiến toàn quốc thắng lợi ”.
Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Địa phương làm cải cách ruộng đất, sẽ phản ánh vào trong bộ đội. Ở bộ đội cũng cần phải tiến hành giáo dục và chỉnh đốn ”. Hồ Chí Minh nói : “ Đồng chí nói đúng, về mặt này còn phải nhờ các cố vấn giúp đỡ cụ thể ” 6.
Sau khi đoàn tàu đến Nam Ninh, Hồ Chí Minh và Vi Quốc Thanh được biết tin Stalin từ trần. Hồ Chí Minh vội về Việt Nam. Trước khi lên đường, Vi Quốc Thanh đã xin Quân uỷ nghỉ phép, dẫn bác sĩ và bảo vệ đi huyện Đông Lan tây bắc Quảng Tây, trở về quê hương 26 năm xa cách, để thăm em trai và bà con họ hàng của mình. Ở nhà hai hôm lập tức quay lại Nam Ninh và trung tuần tháng 3 đến chỗ ở đoàn cố vấn ở Việt Bắc.
Thượng Lào, tức miền bắc nước Lào, là hậu phương chiến lược quan trọng của quân Pháp ở Đông Dương. Sau khi bị thất bại nặng nề ở Tây Bắc Việt Nam, quân Pháp đã tăng cường phòng ngự ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nứa thành cứ điểm có công sự phòng ngự khá mạnh, có 3 tiểu đoàn và 1 đại đội pháo binh đóng giữ, hơn 1500 người. Ở Xiêng Khoảng và Mường Sủi phía nam Sầm Nứa nương tựa vào nhau, cũng có binh lực của 3 tiểu đoàn phòng thủ. Nói chung, phòng ngự của địch tương đối yếu. Sau khi về đến nơi ở của đoàn cố vấn, Vi Quốc Thanh lập tức bàn bạc với Võ Nguyên Giáp về vấn đề liên quan đến chiến dịch Thượng Lào và đi đến nhận thức chung : mục đích mở chiến dịch Thượng Lào là tiêu diệt sinh lực địch ở Thượng Lào, đánh lấy một số vùng ở Thượng Lào, mở căn cứ địa cho chính phủ kháng chiến Lào, củng cố và phát triển thành quả của chiến dịch Tây Bắc. Kế hoạch của chiến dịch là : các đại đoàn 308, 312, 316 tiến vào Lào theo quốc lộ 6, bôn tập từ xa đến Sầm Nứa ; đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến về phía tây theo quốc lộ 7, tấn công Xiêng Khoảng và chặn đánh quân Pháp nguỵ từ Sầm Nứa có thể chạy về phía nam, năm đại đội Pháp từ Điện Biên Phủ phát triển sang vùng sông Nậm Hu để phối hợp.
Ngày 23/3, Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra tiền tuyến Thượng Lào. Khi sắp đến biên giới Lào thì gặp Hoàng thân Suphanuvong, lãnh tụ kháng chiến Lào, cùng trên đường đi vào lãnh thổ Lào.
Hoàng thân Suphanuvong, thành viên của vương thất Lào đã sớm tiếp thụ chủ nghĩa Marx, tham gia phong trào độc lập Lào. Năm 1946 sau khi quân Pháp khôi phục lại binh lực, ông tổ chức đấu tranh vũ trang chống Pháp. Mùa hè năm 1950 đứng ra nhận chức Thủ tướng nhiệm kỳ đầu tiên của Chính phủ kháng chiền Lào. Tháng 2/1951, lãnh đạo đảng Lao động Việt Nam và Hoàng thân Suphanuvong và Chêmxamây 7 người phụ trách mặt trận giái phóng Cao Miên họp hội nghị liên tịch, quyết định thành lập Liên minh kháng chiến ba nước, Việt Nam, Lào, Campuchia, cùng nhau chống lại sự cai trị thực dân của Pháp ở Đông Dương. Đến năm 1952 được sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lưỡng vũ trang của Hoàng thân Suphanuvong lãnh đạo phát triển được 1500 người.
Vi Quốc Thanh sớm biết tiếng Hoàng thân Suphanuvong, cũng đại thể biết rõ sự từng trải phi thường của ông. Vị Hoàng thân này người tầm thước, khuôn mặt vuôn tròn, nước da ngăm ngăm, khiêm tốn hoà nhã. Trong mấy ngày tiếp xúc với Suphanuvong Vi Quốc Thanh hiểu được tình hình đấu tranh và phong tục tập quán dân tình của Lào. Để bày tỏ lòng kính trọng và tình bạn đối với Vi Quốc Thanh, Hoàng thân Suphanuvong tặng đồng chí một thanh đoản kiếm có vỏ bọc tinh xảo và chiếc túi vải thêu hoa văn sặc sỡ. Bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam bắt đầu ra quân vào hạ tuần tháng 3. Ngày 10/4, đại đoàn 308 và 312 vượt qua sông Mã biên giới Lào, cử một tiểu đoàn trang bị nhẹ tiến lên suốt ngày đêm, chuẩn bị đánh chiếm sân bay Sầm Nứa bằng động tác bất ngờ để cắt đứt đường tháo chạy bằng máy bay của địch. Không ngờ, đêm 11, một trung đội trưởng trinh sát của bộ đội địa phương quân đội Việt Nam đầu hàng địch, tiết lộ ý đồ của quân đội nhân dân. Quân Pháp nguỵ rạng sáng ngày 13 bỏ chạy về phía nam. Thế là cuộc tập kích biến thành cuộc truy kích.
17g ngày hôm đó, bộ đội đi đầu của đại đoàn 312 đến thị xã Sầm Nứa. Rút bài học trong chiến dịch Tây Bắc Bộ đội vì mang nặng đường xa nên hành động truy kích chậm chạp để cho địch chạy thoát, một tiểu đoàn bộ đội truy kích vứt bỏ ruột tượng gạo, trang bị nhẹ, tiến nhanh, hai tiểu đoàn khác thồ lương thực đuổi theo. Ngày 15, đuổi kịp quân địch ở Na Nong cách Sầm Nứa 30 km về phía nam, tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch. Ngày 18, số địch sống sót chạy đến gần quốc lộ 7, bị bộ đội đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến lên phía tây chặn đánh, tiêu diệt phần lớn. Trận này Quân đội Nhân dân chưa tốn một phát đạn pháo, đã bắn chết bắt làm tù binh gần 1000 tên địch. Hơn 200 tên chạy trốn vào rừng, hơn 220 tên chạy về tiểu đoàn địch ở cánh đồng Chum.
Ngày 18/4, các đại đoàn 308 và 312 tiến gần tới Luông PraBang, gặp vương thất Lào ở; buộc quân Pháp gấp rút đưa ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Luông PraBang, tăng cường phòng ngự ở đây. Đồng thời, đại đoàn 316 tiến đến gần bắc Xiêng Khoảng, đại đoàn 304 cũng áp sát Xiêng Khoảng theo quốc lộ 7. Quân Pháp ở Xiêng Khoảng bỏ chạy về cánh đồng Chum, làm cho binh lực ở đây tăng lên đến 5 tiểu đoàn. Ngày 26, quân đội Việt Nam truy đuổi đến cánh đồng Chum, bao vây doanh trại quân Pháp. Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Điện Biên Phủ tiến xuống phía nam tiến triển cũng rất nhanh, từ 16 đến 23 tháng 4, liên tiếp đánh các nơi Hội Hòn, Toả Thi, Mường U và đều chiến thắng, tiêu diệt một phần quân địch, kiểm soát một số vùng của tỉnh Phong Xalì.
Xét thấy mùa mưa sắp đến, đường cung cấp hậu cần cho bộ đội kéo quá dài, quân Pháp thực thi tập đoàn cứ điểm cố thủ, quân đội Việt Nam khó nắm bắt cơ hội tác chiến ở Thượng Lào, sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc quyết định kết thúc chiến dịch Thượng Lào ngày 3/5. Chiến dịch này tổng cộng tiêu diệt binh lực của 3 tiểu đoàn và 11 đại đội (tương ứng 1/5 tổng binh lực quân Pháp và ngụy ở Lào) giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và một số vùng của tỉnh Xiêng Khoảng, Phong Xalì có tất cả hơn 300.000 dân (tương đương 1/5 diện tích của cả nước Lào), làm cho vùng này nối liền thành một dải với Tây Bắc, căn cứ địa Việt Bắc của Việt Nam. Từ đó, Sầm Nứa trở thành trụ sở của Chỉnh phủ kháng chiến Lào, cuộc kháng chiến của Lào xuất hiện cục diện mới.
Sau khi kết thúc chiến dịch Thượng Lào, Võ Nguyên Giáp và Hoàng thân Suphanuvong mời Vi Quốc Thanh nói chuyện với cán bộ Việt Nam, Lào. Lúc này, Vi Quốc Thanh hiểu được trong số cán bộ Việt Nam cử sang công tác giúp Lào, có hiện tượng coi thường cán bộ Lào và bao biện làm thầy, còn cán bộ Lào có tư tưởng ỷ lại và tâm lý tự ti, ảnh hưởng đến triển khai công tác, Vi Quốc Thanh cho rằng, nhân cơ hội này làm công tác tư tưởng là cần thiết, nên đồng ý.
Hội nghị cán bộ Việt Nam, Lào lần này họp trong rừng gần Sầm Nứa. Cán bộ Lào đến họp nói chung đều biết tiếng Việt. Vi Quốc Thanh nói đến đâu, dịch ra tiếng Việt đến đấy. Chủ đề phát biểu của Vi Quốc Thanh là hợp tác Việt – Lào, đoàn kết chống ngoại xâm. Trong phát biểu, đồng chí điểm từng vấn đề tồn tại tương đối hàm súc, nhưng không phê bình trực diện. Trong phát biểu nói đến vấn đề cán bộ Việt Nam, lại nói đến vấn đề cán bộ Lào. Lời lẽ rất cân nhắc phát biểu tương đối biện chứng, toàn diện, được cán bộ dự hội nghị hoan nghênh và đánh giá tốt. Sau hội nghị, cố vấn chính trị Lý Văn Nhất nói : “ Phát biểu lần này của Vi Quốc Thanh thật không dễ dàng ! Nói rất hay, sẽ giúp ích cho công tác sau này ”.
Sự thực về thời kỳ sau chiến dịch Tây Bắc quân đội Việt Nam tấn công tập đoàn cứ điểm Nà Sản chưa đánh đã bị thương vong nặng làm cho Vi Quốc Thanh nhận thức sắc bén rằng, từ nay về sau, quân Pháp có thể lợi dụng ưu thế không quân của chúng, dùng phương thức tập đoàn cứ điểm để ngăn chặn tấn công của Quân đội Nhân dân mà Quân đội Nhân dân thì chưa có cách đối phó. Nếu không giải quyết vấn đề này thì chủ lực quân đội Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng không có đất dụng võ trận lớn không đánh được, trận nhỏ không có để đánh. Vì vậy cần phải giúp quân đội Việt Nam nghiên cứu giải quyết vấn đề này. Vi Quốc Thanh cho rằng, trên vấn đề đối phó với tập đoàn cứ điểm của quân Pháp, quân đội Việt Nam có hai nhược điểm rõ rệt : một là hoả lực pháo binh yếu, thiếu đại bác và cao xạ pháo, không thể kiềm chế hoả pháo của địch và đối phó máy bay địch ; hai là tố chất chiến thuật công kiên kém, không biết đánh công kiên chiến quy mô tương đối lớn. Vì vậy sau khi kết thúc chiến dịch thượng Lào đồng chí một mặt kiến nghị Quân uỷ Trung ương, đẩy nhanh trang bị và huấn luyện đối với bộ đội pháo và cao xạ pháo quân đội Việt Nam, chuẩn bị dùng cho tác chiến mùa đông, mặt khác giúp phía Việt Nam nắm chắc huấn luyện chiến thuật công kiên cho bộ đội nâng cao năng lực tác chiến công kiên.
Hạ tuần tháng 5/1953, Vi Quốc Thanh liên tục triệu tập cố vấn quân sự nghiên cứu vấn đề bố trí huấn luyện quân sự. Đồng chí nêu rõ : “ Huấn luyện chiến thuật công kiên của Quân đội Nhân dân phải bắt đầu từ biên soạn giáo trình, thông qua biên soạn giáo trình tăng cường nhận thức thống nhất tư tưởng với đặc điểm phòng ngự của địch, sau đó dùng tài liệu thống nhất, triển khai huấn luyện quân sự cho cán bộ trước, chiến sĩ sau, đặt cơ sở chiến thuật để giành thắng lợi cho chiến dịch Đông Xuân tới ”. Đồng chí nêu rõ : Để biên soạn tốt giáo trình, cần thành lập Ban biên tập giáo trình gồm cán bộ lãnh đạo Việt Nam và cố vấn quân sự, phụ trách công tác biên soạn ; biên tập giáo trình và huấn luyện quân sự, cần tốn nhiều thời gian, phải làm chuyển biến tư tưởng của bộ đội không muốn đào công sự, học cách xây dựng công sự và xây dựng trận địa tấn công, học biết xây dựng đường sóc và cất giữ lương thực, đạn dược, học biết dùng hoả pháo khống chế sân bay địch và dập tắt hoả pháo địch.
Những ý kiến này sau khi nêu ra với phía Việt Nam, được phía Việt Nam coi trọng. Đầu tháng 6, Ban biên tập giáo trình được thành lập gồm người phụ trách cơ quan Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân, cán bộ lãnh đạo các đại đoàn và cố vấn quân sự. Tại hội nghị thành lập, Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh đều dự và phát biểu ý kiến. Võ Nguyên Giáp phát biểu nhấn mạnh biên tập giáo trình phải lấy học tập kinh nghiệm Trung Quốc là chính. Vi Quốc Thanh phát biểu nhấn mạnh biên soạn giáo trình chiến thuật công kiên nên bao gồm động tác cá nhân và chiến thuật công kiên hợp đồng từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn, phải lấy tập đoàn cứ điểm Nà Sản làm đối tượng chính. Quá trình biên soạn giáo trình tức là quá trình thống nhất tư tưởng chiến thuật.
Sau khi bố trí xong công tác huấn luyện quân sự, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác. Theo bố trí thống nhất của Tổng quân uỷ quân đội Việt Nam, dưới sự giúp đỡ của cố vấn quân sự, bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam tiến hành chỉnh huấn quân sự, chính trị quy mô lớn vào hè thu năm 1953. Trước tiên triển khai chỉnh quân chính trị gần giống phong trào chỉnh quân kiểu mới của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tiến hành giáo dục tố khổ, nâng cao giác ngộ giai cấp, tăng cường ý chí chiến đấu để phối hợp với phong trào cải cách ruộng đất đang tiến hành ở căn cứ địa Việt Bắc. Sau đó, trên cơ sở biên soạn xong giáo trình chiến thuật công kiên triển khai chỉnh huấn quân sự. Khi kết thúc chỉnh huấn quân sự, tổ chức diễn tập quân sự. Thông qua chỉnh huấn trình độ chiến thuật công kiên của bộ đội được nâng cao rõ rệt, đặt cơ sở cho chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành sau đó.
No comments:
Post a Comment