Thursday, February 19, 2009

PHAN CHÂU TRINH : VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (Phần II)

Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (II)
Mai Thái Lĩnh
Đăng ngày 18/02/2009 lúc 17:30:38 EST
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3548

Phan Châu Trinh và chủ nghĩa Marx

Trong vài thập niên gần đây, có khá nhiều người căn cứ vào lá thư của Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quốc đề ngày 18.2.1922 [1] để nhấn mạnh “sự tán đồng” của ông đối với chủ nghĩa Marx.

Xin đơn cử ý kiến của một nhà nghiên cứu có uy tín về Phan Châu Trinh là bà Thu Trang, người đã trình luận án tiến sĩ về đề tài “Phan Châu Trinh” tại Đại học Sorbonne (Paris) vào năm 1979. Trong một tác phẩm viết về Phan Châu Trinh, khi nhận xét về lá thư nói trên, bà Thu Trang viết:
“Phan Châu Trinh đã khuyên Nguyễn Ái Quốc về nước để quảng cáo, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lê. Chứng tỏ là Phan Châu Trinh cũng tán đồng chủ nghĩa trên.” (Thu Trang, sđd, tr. 175)
Lập luận này hoàn toàn không thuyết phục. Nếu đọc kỹ lá thư trên, chúng ta thấy Phan Châu Trinh chủ yếu chỉ bàn xoay quanh vấn đề phương pháp đấu tranh. Khi viện dẫn Marx và Lenin, ông cũng chỉ nhấn mạnh đến việc về hẳn trong nước đấu tranh hoặc vận động từ nước ngoài. Một số chi tiết về tiểu sử của Marx và Lenin, ông cũng nói sai. Ví dụ: ông cho rằng Marx sau khi ra nước Anh lánh nạn lại quay về Đức để “làm việc”, trong khi Marx từ ngày qua Anh để tị nạn chính trị, không bao giờ trở lại nước Đức. Điều đó chứng tỏ Phan Châu Trinh nghiên cứu Marx và Lenin rất hời hợt, và trong toàn bộ lá thư, cũng không thấy ông nói gì đến nội dung của lý thuyết Marx-Lenin. Cũng không thấy ông “tán đồng” Marx và Lenin ở điểm nào, mà chỉ nhấn mạnh rằng: Nguyễn Ái Quốc “tôn thờ” hai ông “Mã, Lý” (tức Marx, Lenin) hoặc Nguyễn Ái Quốc “tôn thờ lý thuyết”, “tôn thờ chủ nghĩa” của hai ông ấy.

Thật ra, lá thư ngày 18.2.1922 không phải là “một văn kiện vô cùng quan trọng” như một số người đã đề cao một cách gượng ép. Bởi vì, sau đó hơn một năm (ngày 11.4.1923), trong một lá thư gửi cho Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh đã viết:
“Tôi nói điều đó chỉ lướt qua thôi, còn về thực chất tư tưởng của tôi thì cả anh, cả Ái Quốc không hiểu được. Tôi giả thiết và tôi cũng chắc chắn rằng với học vấn như anh, những người thuộc một gia đình ngu dốt có thể trở thành “hiền nhân”, nhưng tôi cho rằng những kẻ tự cho mình là “hiền nhân” lại là kẻ ngu ngốc.” (NVD, tr. 814-815)
Rõ hơn nữa là đoạn sau đây trích trong lá thư đề ngày 24.1.1925 [2] gửi cho một du học sinh tên là Đông:
“Tôi xem anh là người thông minh, và các anh em ở Montpellier, nhiều anh em ham học lắm, nhưng khốn nạn thay, nòi giống ta bây giờ như giống tằm bị bệnh lâu năm, con hư thì hư rồi, còn con có thể làm ra kén được, cũng bị độc đó, mà tơ chỉ chẳng ra gì, hại thay! Thật thế, tôi xem anh Nguyễn Ái Quốc, anh Nguyễn Thế Truyền và ông Phan Văn Trường, rất là người thông minh bực nhứt xứ ta, nhưng xem ra ông nào cũng bị một chứng bệnh nặng cả, chẳng biết ngày sau có làm ra công hiệu gì cho nòi giống ta được nhờ chăng? Hay là trước học Tàu là ông đồ hủ nho, nay học Tây là anh đồ hủ Âu mà thôi!” (NVD, tr. 832)

Sự bất đồng giữa Phan Châu Trinh và những người khác trong nhóm người Việt yêu nước ở Pháp thực ra rất sâu sắc chứ không phải chỉ là xích mích do cá tính khác nhau, hoặc vì phương pháp đấu tranh khác nhau. Cũng tương tự như mối quan hệ giữa những người dân chủ - xã hội và những người cộng sản trên toàn thế giới, bên dưới sự bất đồng về phương pháp còn hàm chứa những quan niệm rất khác nhau về dân chủ, về chủ nghĩa xã hội. Nếu họ vẫn còn tôn trọng nhau, thậm chí cộng tác với nhau ở một mức độ nhất định thì cũng bởi vì họ đang cùng đấu tranh cho một mục tiêu (độc lập dân tộc) và cùng bị đàn áp như nhau. Hơn nữa, ở Pháp, sự bất đồng giữa những phe phái trong cánh tả (phái cấp tiến, phái xã hội và phái cộng sản) không đến nỗi gay gắt như ở một số nước khác, như ở Nga hoặc ở Đức. Đó là chưa kể đến quan điểm “đa nguyên”, “đa đảng” của Phan Châu Trinh khiến ông có thể cộng tác cả với những người thuộc xu hướng tự do (libéralisme) của phái hữu, như Bùi Quang Chiêu hay Nguyễn Văn Vĩnh chẳng hạn.

Dù sao, khi bình luận về bài diễn thuyết
“Đạo đức và luân lý Đông Tây”, Tiến sĩ Thu Trang cũng đã có một nhận xét khách quan hơn:
“Chúng ta thấy nhà chí sĩ đã có ý thức về vấn đề giai cấp. Nhưng Phan Châu Trinh đã phân tách vấn đề này theo cách nhìn của một nhà nho, khác hẳn so với cách của một nhà mác-xít.” (Thu Trang, sđd, tr. 310
Thật ra, như tôi đã phân tích trong bài trước, khi nhận thức về chế độ dân chủ, Phan Châu Trinh đã vượt qua được cái nhìn của một nhà nho. Một nhà nho không thể nhận thức được cả một cấu trúc chính trị - xã hội phức tạp của nước Pháp vào đầu thế kỷ 20 một cách sắc bén như Phan Châu Trinh. Một nhà nho không thể chấp nhận “đa nguyên ý kiến”, “đa đảng về chính trị” như Phan Châu Trinh đã chủ trương.
Nhưng bà Thu Trang đã nhận xét rất đúng khi cho rằng cái nhìn của nhà chí sĩ họ Phan khác hẳn so với cách nhìn của một người mác-xít.

Vậy thì quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Phan Châu Trinh gần với dòng tư tưởng xã hội chủ nghĩa nào ở Pháp vào thời đó?

Vào thời gian Phan Châu Trinh cư trú ở Pháp, cánh tả ở Pháp bao gồm hai trào lưu tư tưởng lớn: chủ nghĩa xã hội (socialisme) và chủ nghĩa cấp tiến (radicalisme). Từ năm 1920, do tác động của cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga, chủ nghĩa xã hội ở Pháp lại tách thành hai dòng: chủ nghĩa xã hội (socialisme) và chủ nghĩa cộng sản (communisme).

Có thể khẳng định một điều: Phan Châu Trinh không gần gũi với “cánh tả” của Đảng Xã Hội, tức là phái xã hội chủ nghĩa từ cuối năm 1920 đã rời bỏ Đảng Xã Hội (SFIO) để thành lập Đảng Cộng Sản, gia nhập Quốc Tế III. Trước và sau Đại hội Tours (12/1920), đã có nhiều Việt kiều khuynh tả lôi kéo ông tham dự các cuộc họp của cánh tả Đảng Xã Hội và sau này là Đảng Cộng Sản. Nhưng có thể vì bản tính ôn hoà, hoặc vì quan niệm về “dân chủ, cộng hoà” của ông đã bắt rễ khá sâu trong nhận thức, ông xa rời Đảng Cộng Sản Pháp một cách tự nhiên; và những người cộng sản cũng “dị ứng” với ông một cách tự nhiên, tiêu biểu là trường hợp của Ulysse Leriche, Thư ký Ban nghiên cứu Thuộc địa thuộc Đảng Cộng Sản Pháp. [3]

Trong thực tế, Phan Châu Trinh thay vì gần gũi “cánh tả”, lại rất gần gũi với cánh ôn hoà của Đảng Xã Hội (SFIO), tức là bộ phận sau này vẫn ở lại với SFIO để xây dựng lại “ngôi nhà chung” đã bị phái cộng sản đánh phá suýt sụp đổ. Quan điểm của phái này được thể hiện trong quan điểm của Jean Jaurès và những người kế tục con đường của ông, mà tiêu biểu là Léon Blum.

Lịch sử của chủ nghĩa xã hội ở Pháp cho thấy mặc dù đảng mác-xít đầu tiên ở Pháp được thành lập khá sớm (năm 1882), đảng này vẫn không tạo ra được sự thống nhất trong lòng phong trào. Vào thập niên cuối của thế kỷ 19, ở Pháp có đến năm đảng hoặc nhóm xã hội chủ nghĩa khác nhau. Những nỗ lực hợp nhất trong nước đã đưa kết quả là vào đầu thế kỷ 20, còn lại hai đảng xã hội chủ nghĩa và đến năm 1905, do áp lực của Quốc Tế II, hai đảng này mới sáp nhập làm một thành Đảng SFIO (Section française de l’Internationale ouvrière, Phân bộ Pháp của Quốc Tế Công Nhân). [4] Jean Jaurès trở thành lãnh đạo của Đảng Xã Hội từ đó cho đến khi bị ám sát vào cuối tháng 7 năm 1914.

Điều cần lưu ý là Jean Jaurès trở thành lãnh đạo Đảng Xã Hội không phải bởi vì ông là người “mác-xít” nhất, mà chính bởi vì ông có khả năng tạo ra sự đoàn kết trong đảng, hoà giải được nhiều xu hướng khác nhau trong đảng. Giáo sư Jacques Droz nhận xét về tư tưởng của Jaurès như sau:
“Chính Jean Jaurès là người chịu trách nhiệm tạo ra sự tổng hợp (synthèse) của tất cả các xu hướng khác nhau đó. Ông dựa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời thừa nhận rằng các xã hội loài người, trong quá trình tiến hoá của chúng, được điều khiển bởi những ý tưởng công bằng và chính trực. Ông đánh giá rằng việc xã hội hoá những phương tiện sản xuất là cần thiết, nhưng ông mong muốn công cuộc đó phải tôn trọng tự do và sáng kiến cá nhân. Với tác dụng đó, Nhà nước - người chủ sở hữu phổ quát, phải giao phó việc khai thác cho những tổ chức nghề nghiệp, dựa theo những nguyên tắc của một thứ ‘chủ nghĩa tập thể phi tập trung hoá’ (collectivisme décentralisateur). Ông không bỏ qua cuộc đấu tranh giai cấp, nhưng ông không hình dung Nhà nước tư bản chủ nghĩa như là công cụ của một giai cấp duy nhất, như một khối không thể xuyên thủng cần phải tấn công: ông nhìn thấy nó đã bị thẩm thấu bởi những ảnh hưởng xã hội chủ nghĩa và ông thừa nhận rằng giai cấp tư sản không còn là một ‘thiểu số đàn áp’ nữa, mà đã bao gồm một số khá đông những con người có hiểu biết ‘để không lấy quyền lợi riêng hẹp hòi của họ làm thước đo của chân lý’. Tóm lại, theo ông, nền dân chủ chuẩn bị và báo hiệu một trật tự xã hội chủ nghĩa: ‘Nhà nước, trong một nền dân chủ, không phải là một Nhà nước giai cấp, và nó ngày càng ít mang tính chất giai cấp.’ Phải chăng nền dân chủ cũng mang trong nó cái ‘đức tính điều hoà’, cái ‘chức năng trọng tài’ buộc giai cấp lãnh đạo phải chấp nhận những nhượng bộ hợp thời và kéo giai cấp vô sản ra khỏi những cuộc nổi loạn dữ dội và vô ích? Cuối cùng, Jaurès chống lại mọi thứ chủ nghĩa quốc gia; nhưng không giống Marx, ông không tin rằng giai cấp vô sản không có tổ quốc. Theo ông, chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa yêu nước là những từ ngữ sẽ kết hợp nhau trong ‘liên bang của các quốc gia tự trị’”. [5]

Với nội dung tư tưởng đó, ta thấy quan niệm của Phan Châu Trinh khá gần gũi với quan niệm của Jaurès. Bởi vì, cũng như Jaurès, ông là một nhà dân chủ, một người cộng hoà trước khi tiếp thu chủ nghĩa xã hội. Các giá trị dân chủ đã gắn chặt với quá trình đấu tranh của ông và bản chất con người ông đến mức ông không thể tiếp thu một thứ chủ nghĩa xã hội không gắn bó với chế độ dân chủ. Cũng giống Jaurès, ông không có thành kiến nặng nề với giới thượng lưu. Trong khi phê phán kịch liệt giới “thượng lưu” ở nước ta, ông nhận xét rằng ở châu Âu“trong nước họ còn có đảng thượng lưu, trung lưu biết lo đời” (NQT, tr. 483; NVD, tr. 934). Trong khi đề cao chủ nghĩa quốc gia, ông cũng không tán thành một thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, khép kín, mà mong muốn một thứ chủ nghĩa quốc gia cởi mở, hướng đến cả loài người. Phải chăng do ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc tế của Jaurès mà ông đã điều chỉnh quan niệm về chủ nghĩa dân tộc có phần hơi hẹp hòi (như đã trình bày trong “Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam”) để đi đến một quan niệm về chủ nghĩa quốc gia thoáng hơn, gắn liền với chủ nghĩa quốc tế (hay nói theo ngôn ngữ của ông là: “bước qua cái nền quốc gia luân lý” để ”tiến lên xã hội luân lý”)?

Cuối cùng, do suốt đời chủ trương phương pháp đấu tranh ôn hoà, chủ trương đa nguyên ý kiến, ông tìm thấy nơi Đảng Xã Hội một cách thức tổ chức và phương pháp đấu tranh phù hợp. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi từ những năm 1922-23 trở đi, ông có nhiều hoạt động được đặt dưới sự bảo trợ của Đảng Xã Hội. Đó cũng là những năm Đảng Xã Hội dần dần phục hồi được sức mạnh sau cơn khủng hoảng gây ra bởi sự phân ly trong Đại hội Tours (tháng 12.1920). Trong số những người Pháp thân thiện nhất, giúp đỡ ông nhiều nhất, phải kể đến thiếu tá Jules Roux, một luật sư đã từng phục vụ ở Đông Dương và Marius Moutet, nghị sĩ tại Hạ viện Pháp. Cả hai đều là đảng viên của Đảng Xã Hội, thuộc phái Léon Blum.

Nhưng điều làm chúng ta ngạc nhiên hơn hết là mặc dù gần gũi với những người thuộc Đảng Xã Hội, tư tưởng của Phan Châu Trinh vẫn không hoàn toàn giống họ. Trong khi những người xã hội chủ nghĩa ở Pháp vẫn còn bị ràng buộc ít nhiều với chủ nghĩa Marx thì quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Phan Châu Trinh lại không có dính dáng chút gì với chủ nghĩa Marx. Không có đấu tranh giai cấp, không có sự lên án đối với chế độ tư hữu, và do đó cũng không có chủ trương quốc hữu hoá. Vậy thì quan niệm xã hội chủ nghĩa của ông xuất phát từ đâu?

Thật ra, trong khoảng mười năm đầu sống trên đất Pháp, Phan Châu Trinh còn gần gũi với một đảng khác trong phong trào cánh tả, đó là Đảng Cấp Tiến (Parti radical), hay còn gọi là Đảng Cấp Tiến – Xã Hội (Parti radical-socialiste). [6] Ngay cả khi mất lòng tin vào một số nhà lãnh đạo của Đảng Cấp tiến, nhất là những nhân vật cánh hữu của đảng này như Albert Sarraut, cho đến tận cuối đời, Phan Châu Trinh vẫn giữ mối quan hệ tốt với Liên Minh Nhân Quyền, một tổ chức có quan hệ cả với Đảng Xã Hội, nhưng gắn bó với Đảng Cấp Tiến nhiều hơn, thậm chí có thể coi là một tổ chức ngoại vi của Đảng này.

Chủ nghĩa cấp tiến (radicalisme) vốn là một phong trào chính trị xuất hiện từ thập niên 1840 với chủ trương thiết lập một nền cộng hoà, mở rộng các quyền tự do dân chủ (nhất là tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp) và đấu tranh cho quy chế phổ thông đầu phiếu (suffrage universel). Đảng Cấp tiến được chính thức thành lập vào năm 1901, và trở thành đảng chính trị lâu đời nhất ở Pháp còn tồn tại đến tận ngày nay. Thừa nhận Alexandre Ledru-Rollin, Léon Gambetta và Georges Clemenceau như những người tiền bối, đảng này có xu hướng chính là cộng hoà (républicain), nhấn mạnh đến quyền tư hữu (propriété privée) và tính thế tục (laïcité). Trên bàn cờ chính trị của nước Pháp, lúc đầu đảng này đứng ở cánh tả, nhưng dần dần, với sự xuất hiện và lớn mạnh của phong trào xã hội chủ nghĩa, đảng này trở thành một đảng thuộc phái giữa (trung dung), có thể liên kết với phái tả hay phái hữu tuỳ theo từng giai đoạn.

Ngay từ cuối thế kỷ 19, một số nhà cấp tiến khuynh tả đã tập trung sự chú ý vào các vấn đề xã hội. Người đặt nền tảng lý luận cho xu hướng xã hội chủ nghĩa trong phong trào cấp tiến là một nhà hoạt động chính trị và cũng là nhà lý luận tên là Léon Bourgeois (1851-1925).

Xuất thân là một luật sư, Bourgeois trở thành dân biểu tại Hạ viện vào năm 1888. Mười hai lần làm bộ trưởng (từ 1888 đến 1907), ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng (tức Thủ tướng) trong một thời gian ngắn (1895-1896). Là Chủ tịch Viện Dân biểu (Hạ viện) từ 1902 đến 1904, đến năm 1905 ông trở thành thượng nghị sĩ và được bầu vào chức vụ Chủ tịch Thượng viện (1920-1923). Là một trong những người khởi xướng việc thành lập Hội Quốc Liên, ông trở thành Chủ tịch đầu tiên của tổ chức này (1919-1920). Năm 1920, ông được trao giải Nobel về hoà bình. Đối với nước Pháp, ông có công đóng góp lớn cho việc cải cách giáo dục và công tác dự phòng xã hội (prévoyance sociale). [7]

Từ năm 1896, Bourgeois đã bắt đầu chuẩn bị một số luận văn. Những luận văn này được tập hợp và công bố rộng rãi vào năm 1902, qua đó một lý thuyết xã hội chủ nghĩa được trình bày dưới cái tên là chủ nghĩa liên đới (solidarisme).

Theo Léon Bourgeois, con người là một hữu thể xã hội (être social), bởi vì không ai có thể từ khước mọi sự hợp tác nhân loại về mặt vật chất và tinh thần. Mặc dù không ký kết, nhưng bên dưới những trao đổi lẫn nhau giữa người với người đều ẩn chứa những chuẩn-khế ước [8] nhờ đó loài người mới có thể sống còn và tích luỹ của cải vật chất và tài sản tinh thần, tích luỹ tri thức và kỹ thuật. Đó là lý do giải thích tại sao mỗi người sinh ra đều là con nợ của cộng đồng xã hội. Từ đó phát sinh khái niệm món nợ xã hội (dette sociale).

Mỗi người sinh ra đều được hưởng phần mình từ một di sản tích luỹ bởi tổ tiên của mình. Món nợ kết trái với tổ tiên đó, mỗi người phải thanh toán với những thế hệ tiếp theo. Đó là một di sản của toàn bộ quá khứ đối với toàn bộ tương lai. Mỗi thế hệ không những phải giữ gìn di sản mà còn phải tìm cách phát triển nó phong phú hơn, tốt đẹp hơn. Do đó, theo Léon Bourgeois, tính liên đới không phải chỉ là một nghĩa vụ thuần tuý của ý thức mà là một nghĩa vụ có căn cứ pháp lý. Mỗi người đều phải hoàn thành nghĩa vụ ấy căn cứ vào quy tắc của sự công bằng (công lý):
“Theo Bourgeois thì thuế luỹ tiến (impôt progressif), sự phát triển của các loại bảo hiểm xã hội và giáo dục miễn phí chính là những phương tiện thực hành cho phép tính liên đới được vật chất hoá trong thực tế. Như vậy, quyền tư hữu vẫn còn, nhưng phải được chuyển hoá từ quyền tuyệt đối thành chức năng xã hội. Nói vắn tắt, kết quả của chủ nghĩa liên đới là “hỗ tương hoá” các mối quan hệ giữa người với người, là bảo đảm cho mỗi người có được “sự hỗ trợ của sức mạnh chung”, là thúc đẩy “sự hội nhập xã hội” của những phần tử cho đến nay vẫn đứng cô lập.” [9]

Ngược lại với những người suy nghĩ rằng “cuộc đấu tranh vì sự phát triển của cá nhân là điều kiện đầu tiên của mọi sự tiến bộ”, Bourgeois chứng minh rằng “chỉ có những hoạt động hợp tác mới phát triển một nhanh chóng, bền vững và có khả năng sinh sôi nẩy nở”. Muốn được như vậy, phải có một người bảo đảm; đó chính là Nhà nước. Nhưng Nhà nước không thể xuất hiện như một thành phần trong cuộc; ngược lại, vai trò của nó giới hạn trong việc làm trọng tài: buộc các thành phần phải tôn trọng các chuẩn-hợp đồng và thưởng phạt họ. L.Bourgeois viết:“Nhà nước là một sáng tạo của con người. Nó chỉ can thiệp để tái lập sự công bằng giữa những người tham gia khế ước.” Và ông nói thêm: “Nhà nước phải giảm bớt việc thực hiện quyền uy và hướng nhiều hơn vào việc bảo đảm sự tái phân phối; nó là cơ chế của sự thích nghi và điều chỉnh, chứ không phải là một thực thể siêu hình hay một con quái vật lạnh lùng.” [10]

So sánh giữa quan niệm của Jean Jaurès với quan niệm của Léon Bourgeois, chúng ta thấy quan niệm của Phan Châu Trinh gần với chủ nghĩa liên đới của Bourgeois nhiều hơn.

Trước hết, chủ nghĩa xã hội theo cách nhìn của Phan Châu Trinh và chủ nghĩa liên đới đều là những quan niệm mang tính ôn hoà và nhân đạo, xuất phát từ đạo đức học. Cả hai đều không bài bác lòng từ thiện, nhưng vượt qua lòng từ thiện vốn tuỳ thuộc vào “hảo tâm” của mỗi người khi xác định việc “giúp đỡ người nghèo, người yếu đuối” như là nghĩa vụ (nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người, nghĩa vụ mỗi người trong nước đối với nhau). Quan niệm về “công đức” của Phan Châu Trinh khá gần gũi với quan niệm “nghĩa vụ xã hội” (devoir social) của Léon Bourgeois. Không rõ Phan Châu Trinh có biết về chủ trương “luật hoá” các nghĩa vụ xã hội của Bourgeois hay không, nhưng nếu biết, chắc ông sẽ tán thành ngay, bởi vì thuế luỹ tiến hay các hình thức bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho người nghèo đều có tác dụng “phá bức tường ngăn cách giữa giàu và nghèo”. Một điểm giống nhau nữa là cả hai đều chú trọng công tác giáo dục. Trong ngôn ngữ, Phan Châu Trinh sử dụng từ “công lý”, “công bằng” (công bình) tương tự như Bourgeois thường nhắc đến “justice”. Và điều giống nhau rõ ràng nhất giữa hai ông là cả hai đều không đặt vấn đề xoá bỏ chế độ tư hữu, không chủ trương đấu tranh giai cấp, mà lại chủ trương hợp tác, tương trợ. Trong lĩnh vực quốc tế, cả hai đều chủ trương công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia bằng con đường hoà bình chứ không bằng con đường chiến tranh.

Vấn đề là tại sao Phan Châu Trinh không đả kích chế độ tư hữu, không lên án kịch liệt giai cấp tư sản như những người mác-xít hay những người cộng sản? Ngoài bản tính ôn hoà mà ông đã có ngay từ thời bắt đầu hoạt động chính trị, chúng ta cần chú ý đến chủ trương của ông về kinh tế. Ngay từ khi phát động Phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh đã đề ra khẩu hiệu “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, kêu gọi mọi người lập “hội nông“, “hội buôn”, “hội nuôi tằm”,v.v. nói chung là khuyến khích dân làm giàu. Như vậy, nếu ông không lên án chế độ tư hữu, không đặt quốc hữu hoá thành mục tiêu hàng đầu thì cũng là điều dễ hiểu. Có thể do Phan Châu Trinh không coi chế độ tư hữu là nguồn gốc của mọi bất công xã hội. Hoặc ông cho rằng nước Việt Nam còn quá nghèo, đất nước muốn phát triển còn cần nhiều đến những nhà tư sản yêu nước. Do đó, ông không đả kích người giàu, mà chỉ đề ra yêu cầu “người giàu giúp đỡ người nghèo”. Nói một cách chính xác, quan niệm của ông nghiêng về “công bằng” (justice) hơn là “bình đẳng” (égalité).

Phan Châu Trinh có chịu ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa liên đới hay không, và chịu ảnh hưởng do đâu, như thế nào; đó còn là vấn đề của các nhà sử học. Ở đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh một điều: quan niệm của Phan Châu Trinh vẫn có thể xem là một quan niệm xã hội chủ nghĩa, bởi vì chủ nghĩa xã hội không phải là độc quyền của Marx, lại càng không phải là độc quyền của Lenin. Nhưng chủ nghĩa xã hội theo cách nhìn của Phan Châu Trinh là một quan niệm chẳng những phi-cộng sản mà còn là phi-mác-xít.

Điều lý thú nhất là chủ nghĩa liên đới của Léon Bourgeois, sau một thời gian dài bị quên lãng, ngày nay lại được giới trí thức nước Pháp quan tâm. Bởi vì khi mà chủ nghĩa Marx trở thành lỗi thời, chủ trương xoá bỏ chế độ tư hữu bị bỏ rơi trong cương lĩnh của tất cả các đảng dân chủ-xã hội trên toàn thế giới thì cánh tả lại bắt đầu cần đến một lý thuyết “xã hội chủ nghĩa” không xung đột với quyền tư hữu. Vả chăng, Nhà nước phúc lợi (Etat-providence, welfare state) ở các nước phát triển hiện nay đang cần một lý thuyết để biện minh cho việc đánh thuế trên những tầng lớp có thu nhập cao nhằm hỗ trợ cho những người bất hạnh trong xã hội, làm giảm bớt sự bất bình đẳng về kinh tế.

Chỉ xin trích lại đây nhận xét của Jacques Mièvre trong một bài viết vào năm 2005:
“Tuy nhiên, sự tiến hoá chính trị gần đây chứng tỏ rằng nếu chủ nghĩa liên đới đã biến mất trên phong cảnh chính trị của nước Pháp thì hệ tư tưởng, hệ thống giá trị bao hàm trong nó, nói cách khác là tính liên đới, lại hiện diện hơn bao giờ hết trong các diễn văn chính trị.”

Thật vậy, từ năm 1981, diễn văn của Đảng Xã Hội ngày càng bỏ lơ danh từ “chủ nghĩa xã hội” (socialisme) để sử dụng danh từ “tính liên đới” (solidarité), đồng thời trở về với một sự tán dương các “giá trị cộng hoà” hơn là “giá trị dân chủ”, dựa theo truyền thống của chủ nghĩa cấp tiến thời Đệ tam Cộng hoà. Cũng thế, diễn văn của Đảng Cộng sản của Robert Hue sử dụng từ “liên đới” ngày càng thiên về một ý nghĩa chung, mang tính dân tộc và rõ ràng là giảm bớt theo ý nghĩa mác-xít cổ điển của “tính liên đới giai cấp” (solidarité de classe).” [11]

Vào một thời mà người ta còn say sưa đấu tranh giai cấp, không phải chỉ bằng cách chửi bới, mạt sát nhau mà còn sẵn sàng sử dụng bạo lực thì những tiếng nói ôn hoà, đúng mực, phù hợp với tình cảm nhân đạo của con người và phù hợp với lý trí tỉnh táo, thường không được nghe theo, thậm chí còn bị chê bai, đả kích. Ở Pháp, chủ nghĩa liên đới Léon Bourgeois đã bị rơi vào quên lãng vì phái tự do chê là quá lý tưởng, trong khi phái xã hội chủ nghĩa chê là quá ôn hoà. Cũng tương tự như thế, ở nước ta, người ta ra sức chê bai Phan Châu Trinh vì ông không đủ quá khích, vì ông đặt yêu cầu dân chủ cao hơn yêu cầu độc lập dân tộc, vì ông không “giác ngộ” chủ nghĩa Marx-Lenin, không ủng hộ con đường đấu tranh bạo động v.v.

Thế nhưng ngày nay, sau những cơn “bão táp cách mạng” cuồng nộ xảy ra ở khắp nơi trên thế giới xen lẫn với những cuộc đàn áp phản cách mạng cũng không kém phần đẫm máu của phía cánh hữu, sau cảnh hoang tàn đổ nát về vật chất và tinh thần, nhân loại đã bắt đầu tỉnh táo hơn, ít nhất là ở những nơi mà người dân đã vỡ mộng về những huyền thoại “cách mạng”, “giải phóng”, “chiến tranh chính nghĩa”… hoặc ở những nơi mà người dân bắt đầu nghi ngờ tính chính đáng của các chế độ độc tài tự nhận là “sáng suốt”. Đó cũng là lúc từ trong sự lãng quên, những tư tưởng đúng đắn lại trồi lên như những viên ngọc bị vùi trong cát, bị che lấp trong đất đá ngổn ngang nhưng vẫn rắn chắc và ngời sáng như những giá trị chân chính đã vượt qua thử thách của thời gian.

Điều làm chúng ta tự hào, và cũng làm chúng ta ngạc nhiên là tại sao một người như Phan Châu Trinh, một nhà nho không rành tiếng Pháp, bước sang châu Âu mà không “lạc lối trời Âu”, trong khi biết bao trí thức Việt Nam khác, đầu óc uyên bác hơn ông mà vẫn bị mê lầm? Phải chăng vì ông là người “đọc ít, hiểu nhiều” cho nên hơn hẳn những người “đọc nhiều, hiểu ít”? Hoặc giả do ông có tấm lòng yêu nước thương dân chân thành, cái tâm trong sáng không tư lợi, cũng không háo danh, không say sưa trong căn bệnh say mê quyền lực, cả đời chỉ đau đáu một nỗi lo sao cho người dân được hạnh phúc, đất nước ngày càng được phú cường?

Dù sao, chúng ta vẫn có thể khẳng định một điều: từ chỗ là một nhà dân chủ, một nguời cộng hoà, đến gần cuối đời, Phan Châu Trinh đã trở thành một nhà dân chủ-xã hội. Đó là nhà dân chủ - xã hội đầu tiên của nước ta, người mong muốn kết hợp các giá trị tự do và bình đẳng trong một thể chế chính trị-xã hội tạo điều kiện cho mọi người đều được phát huy năng lực của mình, không phân biệt nguồn gốc xuất thân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng hay quan điểm chính trị. Chính điều này làm cho tư duy của ông thật sự gần gũi với tư duy hiện đại, và tuy đã mất cách đây hơn 80 năm, dường như ông vẫn còn sống đâu đây, vẫn còn thao thức và trăn trở với niềm khao khát đem tự do và công bằng xã hội đến cho một đất nước đã quá đau khổ vì chiến tranh và lòng hận thù, cho một dân tộc xứng đáng được hưởng hạnh phúc mà cho đến nay vẫn còn phải sống trong đói nghèo và vô vàn bất công, áp bức.

Đà Lạt, 1.2.2007
Mai Thái Lĩnh
© Thông Luận 2009

--------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo chính
• Nguyễn Q. Thắng, Phan Châu Trinh - cuộc đời và tác phẩm. Nxb Văn học, 2006 (tái bản lần thứ tư, có bổ sung);
• TS. Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh. In lần thứ hai, Nxb Văn hoá Thông tin, 2006;
• Phan Châu Trinh, Toàn tập (I, II và III), Nxb Đà Nẵng, 2005;
• TS Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911 – 1925. Nxb Văn Nghệ TP.HCM & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, TP.HCM, 2000;
• Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, tập 1, Nxb Đà Nẵng, 2001; tập 2, Nxb Đà Nẵng, 2003;
• Các tư liệu về lịch sử dựa trên các Đại bách khoa toàn thư: Britannica Encyclopedia 2005 (bản điện tử), Encarta Encyclopedia 2004 (bản điện tử), và Wikipedia, The Free Encyclopedia (Wikipedia - Bách khoa toàn thư mở trên mạng Internet) bản tiếng Anh và bản tiếng Pháp.
• Jacques Droz, Histoire des doctrines politiques en France. P.U.F., Paris, 1948 (5è édition, 1966)
• Alexandre Dorna,
“Eléments pour une doctrine républicaine (3) Léon Bourgeois et le solidarisme”, Observatoire de la Démocratie, 7 Juin 2006;
• Jacques Mièvre,
“Le solidarisme de Léon Bourgeois”, Cahiers de la Méditerranée, vol. 63; mis en ligne le 27 juillet 2005.

[1] Lá thư này, theo bà Lê Thị Kinh (cháu ngoại của Phan Châu Trinh) hiện nay “bị thất lạc” bản gốc. Bản văn được công bố hiện nay căn cứ vào một bản chép tay (bản này lại được chép từ một cuốn vở ghi) và một bản sao đánh máy chứ không phải là bản chụp lại. Xem: Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, tr. 360-362.
[2] Lá thư này hiện nay gia đình cũng thất lạc bản gốc. Nhưng theo Nguyễn Q. Thắng, lá thư này đã được công bố lần đầu vào năm 1926, nghĩa là lúc gia đình chưa bị mất bản gốc, và sau đó đã được công bố lại nhiều lần. Do đó, chúng ta có thể hoàn toàn tin vào văn bản này. Xem: NQT, sđd, tr. 170.
[3] Xem các lá thư U. Leriche gửi cho Phan Châu Trinh; NVD, sđd, tr. 897-904.
[4]Thật ra, tên đầy đủ là Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Thống Nhất, phân bộ Pháp của Quốc Tế Công Nhân (Parti socialiste unifié, section française de l’Internationale ouvrière, PSU-SFIO), nhưng cái tên thường được biết là SFIO. Ngoài ra, người ta còn gọi một cách không chính thức là Đảng Xã Hội (Parti Socialiste).
[5] Jacques Droz, Histoire des doctrines politiques en France, sđd; tr. 102-103.
[6] Tên đầy đủ của đảng này là Đảng Cộng Hoà, Cấp Tiến Và Cấp Tiến – Xã Hội (Parti républicain, radical et radical-socialiste).
[7] Cũng như khá nhiều nhà lãnh đạo khác của Đảng Cấp Tiến, Léon Bourgeois là một hội viên của Hội Tam điểm (Franc-maçonnerie, Freemasonry).
[8] Quasi-contrat (Chuẩn-khế ước, chuẩn-hợp đồng): khái niệm pháp lý dùng để chỉ những sự kiện hay hiện tượng tuy không được thoả thuận trước, nhưng lại tạo ra những nghĩa vụ về quyền lợi và trách nhiệm gần giống như những điều khoản có trong khế ước (hợp đồng).
[9] Jacques Droz, sđd, tr. 110-111.
[10]Alexandre Dorna, “Eléments pour une doctrine républicaine (3) Léon Bourgeois et le solidarisme”, bđd.
[11] Jacques Mièvre, “Le solidarisme de Léon Bourgeois”, bđd.


No comments:

Post a Comment