Sunday, October 26, 2008

MẶT THẬT CỦA PHÁP QUYỀN HÀ NỘI

Mặt thật của pháp quyền Hà Nội
Đỗ Thái Nhiên
Đăng ngày 24/10/2008 lúc 14:41:56 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3209

Trọng pháp là nghĩa vụ đòi hỏi mọi người phải triệt đề tôn trọng luật pháp. Tuy nhiên, trước khi tôn trọng luật pháp, con người cần có khả năng nhận biết sự khác biệt giữa pháp trị (Rule of law) và pháp quyền (Rule by law).

Pháp trị (Rule of law) là guồng máy pháp luật được ra đời từ một quốc hội thực sự do dân bầu theo đúng thể chế tự do dân chủ. Quyền lợi của mỗi người dân và mọi người dân là đối tượng phục vụ duy nhất và tối cao của pháp trị.

Ngựơc lại, pháp quyền (Rule by law) là luật pháp do chế độ độc tài tự ý tạo ra chỉ với mục đích cứng rắn bảo vệ quyền thống trị xã hôi của cá nhân hoặc phe nhóm độc tài. Luật pháp của Tần Thủy Hoàng, của Hitler, của Mao Trạch Đông là các loại pháp quyền điển hình. Pháp trị là luật pháp chính danh. Pháp quyền là luật pháp nguỵ danh. Trong thực tế tất cả nhà cầm quyền độc tài đều thường xuyên nỗ lực làm cho người dân mất khả năng phân biệt được sự khác nhau như nước với lửa giữa pháp trị và pháp quyền. Từ đó người dân sẽ ngoan ngoãn tụân phục pháp quyền, pháp luật độc tài. Nghĩa vụ trọng pháp cao cấp hàng đầu chính là nghĩa vụ triệt tiêu pháp quyền, đồng thời mở đường cho pháp trị vươn mình lớn mạnh.

Ngày 15/10/2008, đài Á Châu Tự Do ghi nhận: trong một phiên điều trần trước quốc hội CSVN, ông Trịnh Hồng Dương, chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, đã trình bày quan niệm về công lý của hệ thống tòa án Xã Hội Chủ Nghĩa như sau: “Ở nước ta, xử đúng cũng được, xử sai cũng được, xử hoà cũng được, xử thắng cũng được, xử thua cũng được…” Như vậy, rõ ràng là đúng hay sai, không cần biết, thắng hay thua, không cân biết, miễn là quyền thống trị xã hội của đảng CSVN được triệt để bảo vệ. Đó là tất cả nội dung cốt lỏi của luật pháp nguỵ danh, gọi tắt là pháp quyền của chế độ CSVN. Bây giờ chúng ta hãy khảo sát mối quan hệ giữa pháp quyền Hà Nội và quyền tự do báo chí của người dân thông qua vụ án được dư luận gọi là “Vụ Án Chống Những Người Chống Tham Nhũng”.Tháng 04/2006, tại Việt Nam nổ ra vụ tham nhũng cực kỳ nghiêm trọng, lúc bấy giờ nghe theo khấu hiệu “Chống tham nhũng là cứu nước” của CSVN báo chí trong nước hăng say lùng tin và đăng tin về tham nhũng PMU18. Thế nhưng công cuộc diệt trừ tham nhũng kéo dài chẳng bao lâu, gió lại đổi chiều. Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến bị can hàng đầu của PMU18 được ra khỏi nhà tù, được trắng án, được phục hồi đảng tịch. Trước đó ít lâu, Thiếu tướng Cao Ngọc Oánh liên can tội “chạy án” được xác nhận vô tội, được vinh thăng trung tướng. Sau cùng sự việc sẽ đến đã đến: 4giờ chiều, giờ Saigon, ngày 12/05/2008 nhà báo Nguyễn Văn Hải, báo Tuổi Trẻ và nhà báo Nguyễn Việt Chiến, báo Thanh Niên bị bắt giam. Kế đó ông Đinh Văn Huynh, thượng tá công an, nguyên trưởng phòng 9 thuộc C14 cũng bị tống giam. Riêng ông Phạm Xuân Quắc thiếu tướng công an, nguyên cục trưởng cục cảnh sát điều tra tội phạm C14 tuy có tên trong danh sách bị can nhưng đươc tại ngoại hầu tra.

Có những chỉ dấu bất bình thường của vụ án báo chí 2008 trên chặng đường từ nhà tù ra tới tòa án.

Thoạt tiên, ngày 12/05/2008, lệnh bắt giam hai ông Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải ghi tội danh là “Lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Tội này qui định bởi điều 281 bộ luật hình sự của CSVN. Tuy nhiên dưới qui chế báo chí quốc doanh của Hà Nội, mỗi nhà báo bị buộc phải thường xuyên đi bên lề phải dưới sự kiểm soát chặt chẽ của vô số cấp trên: ban biên tập và phê duyệt, thư ký tòa soạn và tổng biên tập, công an văn hóa các loại, nhân viên bộ thông tin các cấp…Nhìn chung chức vụ của nhà báo là chức vụ nằm ở đáy guồng máy thông tin tuyên truyền. Với chức vụ kia làm gì có quyền với hạn!
Vì vậy ngày 22/09/2008, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao của CSVN đã đổi tội danh hai nhà báo từ tội “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ” của điều 281 chuyển qua điều 258 qui định về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Sự việc thay đổi tội danh này mang lai cho CSVN hai điều lợi. Một là tội “lợi dung các quyền tự do dân chủ” mơ hồ hơn, dễ truy tố và dễ buộc tội hơn. Hai là tránh nhắc tới nhóm chữ “chức vụ và quyền hạn” của nhà báo nhằm làm cho dư luận bớt phần chú ý tới thân phận ảm đạm của giới làm báo tai Việt Nam. Đó là tất cả lý do thầm kín khiến cho ngành công tố của CSVN không thể minh thị giải thích tại sao họ đã thay đổi tội danh đối với hai nhà báo.

Giống như hai nhà báo, tội danh của thiếu tướng Phạm Xuân Quắc và thượng tá Đinh Văn Huynh lúc khởi đầu là điều 281 “Lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Sau đó, lại đổi thành điều 286 tội “Cố ý làm lộ bí mật công tác”. Chính nhóm chữ “bí mật công tác” đã giúp cho công luận hiểu được mặt trái của vụ án báo chí 2008.

Vụ án này nhằm đánh vào hai nhà báo: Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải. Riêng Nguyễn Văn Hải đã “tích cực hợp tác với cơ quan điều tra và tỏ ra hối lỗi”. Vì vậy bài viết này chỉ bình luận về những đối thoại giữa nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Hội Đồng Xét Xử của phiên tòa các ngày 14 và 15 tháng 10/2008.

Trong phiên xử báo chí, Hội Đồng Xét Xử hỏi Nguyễn Việt Chiến: “Bị cáo có thấy tất cả những bài viết của bị cáo có đúng với sự thực không?”

Dưới chế độ độc tài và tham ô kiểu CSVN, hiển nhiên chỉ có đảng CS mới biết được đâu là sự thực trong một hồ sơ tham nhũng. Vì vậy, thay vì xác nhận những bài do Nguyễn Việt Chiến viết ra là đúng hay sai sự thực, người ký giả này chỉ có thể cho tòa án biết từ những nguồn tin nào, đương sự đã viết thành bài.

Ông Chiến nói:
“Thưa quý Toà, tôi muốn nói rằng ngày 5/5/2006 Tổng cục cảnh sát đã họp báo, công khai công bố số tiền Bùi Tiến Dũng đánh bạc là 2,600,000 Mỹ Kim và khẳng định hoàn toàn số tiền này là tiền tham nhũng từ các dự án của PMU18. Hôm ấy tướng Phạm Xuân Quắc, đại diện Tổng cục cảnh sát đã công bố toàn bộ các điều tra ban đầu. Tất cả các báo chí đều đăng”.

Trình bày như vừa kể Nguyễn Việt Chiến muốn nói với tòa án rằng tất cả những tin tức do ông Chiến chuyển tải trên mặt báo đều xuất phát từ Tổng Cục Cảnh Sát. Vì vậy những tin tức kia phải là tin đúng với sự thực. Mặt khác đừng quên rằng cả tướng Quắc lẩn thượng tá Đinh Văn Huynh đều bị truy tố về tội “tiết lộ bí mật”. Bí mật là gì? Bí mật chính là những sự thật cần được giấu kin. Tiết lộ bí mật có nghĩa là nói cho người khác biết sự thưc. Điều oái ăm nằm ở sự thể rằng: một mặt công an bị truy tố về tội “tiết lộ sự thực”. Mặt khác khi Nguyễn Việt Chiến phổ biến lên mặt báo những sự thực do công an tiết lộ thì ông Chiến lại bị truy tố về tội viết sai sự thực. Nói ngắn và gọn hội đồng xét xử vụ án Nguyễn Việt Chiến cho rằng tai và mắt của Nguyễn Việt Chiến đã tiếp nhận sự thực do công an tiết lộ. Thế nhưng khi những sự thực kia chạy xuống tay của Nguyễn Việt Chiến để biến thành chữ viết thì chúng lại biến thành sai sự thực. Đoán biết những suy nghĩ bất bình thường của hội đồng xét xử, Nguyễn Việt Chiến đã phải tự biện hộ trên giả sử rằng: nếu quả thực những điều Nguyễn Việt Chiến viết là sai sụ thực thì hậu quả pháp lý sẽ ra sao?

Trước tòa Nguyễn Viêt Chiến nêu ý kiến:
“Thưa quý tòa, tôi là một nhà báo. Tất cả những điều tôi viết chịu sự xem xét và điều chỉnh của luật báo chí, trong luật báo chí, điều 7 qui định rất rõ ràng là nếu cơ quan báo chí mà đưa thông tin sai sự thực, xuyên tạc, sau khi có đơn của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xâm hại quyền lợi thì báo chí phải đăng đính chính. Nếu không chịu đăng đính chính, cơ quan báo chí phải chịu trách nhiệm khi các đơn vị cá nhân đó khởi kiện.”

Thế nhưng, trong thực tế tòa án CSVN không áp dụng luật báo chí mà lại áp dụng điều 258 bộ hình luật tổng quát đối với Nguyễn Việt Chiến. Áp dụng luật hình như vừa kể có các phi lý sau đây:

Một: Trong hiện vụ, bi can chính là nhà báo. Vụ việc chính là sự tranh luận tin tức đăng trên báo có sai sự thực hay không? Tóm lại, Người là báo, việc cũng là báo, tại sao không áp dụng luật báo chí? Luật báo chí ban hành để làm gì?

Hai: Nguyễn Việt Chiến bị truy tố tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ...”. Thế nhưng trong suốt thời gian thẩm vấn Nguyễn Việt Chiến ngay tai phiên xử công khai, hội đồng xét xử tuyệt nhiên không hề nhắc tới nhóm chữ “Quyền tự do dân chủ”. Dưới sự cai trị độc tài của CSVN, cá nhân công dân bi nghiêm cấm làm báo qua mọi hình thức . Mỗi tờ báo là một xí nghiệp quốc doanh, mỗi nhà báo là một công chức. Tự do báo chí hoàn toàn bị triệt tiêu. Báo chí hiển nhiên chỉ là công cụ tuyên truyền của nhà nước. Sinh hoạt báo chí tuyệt đối không liên hệ xa gần gì tới quyền tự do dân chủ của người dân. Trong tình huống vừa mô tả, làm gì nhà báo CSVN có điều kiện để “Lợi dụng quyền tự do dân chủ”?

Mặc dầu tội danh bị thay đổi không một lời giải thích.

Mặc dầu, công an bị truy tố tội “tiết lộ sự thực”, nhưng Nguyễn Việt Chiến lại bị truy tố tội viết sai sự thực. Đây là một nghịch lý căn bản của vụ án.

Mặc dầu, hồ sơ vụ án cho thấy ngừơi và việc đều nằm trên địa bàn báo chí, nhưng tòa án lại gạt bỏ luật báo chí ra ngoài công viêc xét xử.

Mặc dầu Nguyễn Việt Chiến bị truy tố tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ”, nhưng trong suốt quá trình xét xử, Tòa án không hề tranh luận về tội danh vừa nêu. Hơn thế nữa, tự thân mỗi nhà báo cũng như tự thân mỗi người dân đều không có tự do dân chủ. Nguyễn Việt Chiến tìm đâu ra tự do dân chủ để lợi dụng?

Đối diện với hàng loạt “mặc dầu” nêu trên, tòa án CSVN vẫn nhắm mắt tuyên phạt Nguyễn Việt Chiến hai năm tù giam. Xử án theo kiểu nhắm mắt mà Nguyễn Việt Chiến là nạn nhân điển hình đã nói lên toàn diện bộ mặt thật của chế độ pháp quyền Hà Nội.

Thế giới đã đánh giá như thế nào về pháp quyền Hà Nội? Thưa rằng: ngày 20/10/2008 trong bảng xếp hạng tự do báo chí Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới đã cho điểm và xếp Việt Nam vào hạng thứ 168 trên tổng số 173 quốc gia “dự thi”. Vị thứ 168 của CSVN đã nói lên một cách chính xác trình độ văn minh của chế độ Hà Nội.

Đỗ Thái Nhiên

No comments:

Post a Comment