Trịnh
Thanh Thủy
Tuesday,
December 09. 2014 11:30:49AM
Gần
đây, có lẽ nhiều người trong chúng ta từng nghe nói đến
giải Nobel Hoà Bình năm nay được trao cho hai người, một
Ấn Độ và một Pakistan. Họ đều là các nhà hoạt động
vì quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Người thứ nhất, ông Kailash Satyarthi là một kỹ sư điện Ấn Độ, 60 tuổi, từng đấu tranh hỗ trợ cho các trẻ em và phụ nữ, những người làm việc tại các nhà máy Ấn Độ như những kẻ nô lê. Họ bị bóc lột sức lao động và là nạn nhân của bạo lực cũng như tấn công tình dục.
Người thứ hai, Malala Yousafzai là một cô gái người Pakistan, 17 tuổi, người trẻ nhất của lịch sử giải Nobel trong hơn một trăm năm vừa qua. Năm 16 tuổi, cô bị một nhóm người Taliban nả súng vào đầu cũng chỉ vì cô đấu tranh cho 31 triệu bé gái trên thế giới được đi học. Họ tưởng đã làm cô bặt tiếng nhưng họ đã lầm. Cô vẫn sống như một phép lạ. Và từ sự im lặng đó hàng nghìn tiếng nói khác đã cất lên, những sức sống mãnh liệt đầy dũng cảm được ra đời.
Tôi tự hỏi, động cơ nào đã khiến một cô bé gái từ năm 11 tuổi đã tranh đấu cho nữ quyền, đã không sợ quyền lực, cái chết và sự trả thù. Tại vì người Taliban đã cấm không cho người nữ được cắp sách đến trường. Họ muốn bịt mắt, bịt miệng, che tai, mù loà đầu óc phụ nữ ngay khi họ còn là đứa bé. Chỉ khi bị bịt miệng người ta mới biết mình cần được nói. Bị bịt mắt người ta mới thấy ánh sáng là cần thiết. Bị mù loà tâm trí người ta mới cần cắp sách đến trường để khai thông trí tuệ, học hỏi điều hay lẽ phải. Sức mạnh của giáo dục rất cần thiết cho mọi con người.
Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao Kailash là một người nam, lại đứng ra tranh đấu cho phụ nữ và trẻ em? Tại họ bị bóc lột sức lao động, bị hãm hiếp không thương tiếc trong khi chính quyền đang tâm làm ngơ và coi thường rẻ rúng phụ nữ. Phụ nữ là ai, họ là em, là chị, là mẹ, là bà của chúng ta, họ cũng là những bè bạn, người thân ruột thịt chúng ta hằng yêu mến. Tranh đấu và bênh vực cho họ chính là tranh đấu cho nhân quyền, tranh đấu cho quyền làm người của họ và cũng là tranh đấu cho chính chúng ta.
Người thứ nhất, ông Kailash Satyarthi là một kỹ sư điện Ấn Độ, 60 tuổi, từng đấu tranh hỗ trợ cho các trẻ em và phụ nữ, những người làm việc tại các nhà máy Ấn Độ như những kẻ nô lê. Họ bị bóc lột sức lao động và là nạn nhân của bạo lực cũng như tấn công tình dục.
Người thứ hai, Malala Yousafzai là một cô gái người Pakistan, 17 tuổi, người trẻ nhất của lịch sử giải Nobel trong hơn một trăm năm vừa qua. Năm 16 tuổi, cô bị một nhóm người Taliban nả súng vào đầu cũng chỉ vì cô đấu tranh cho 31 triệu bé gái trên thế giới được đi học. Họ tưởng đã làm cô bặt tiếng nhưng họ đã lầm. Cô vẫn sống như một phép lạ. Và từ sự im lặng đó hàng nghìn tiếng nói khác đã cất lên, những sức sống mãnh liệt đầy dũng cảm được ra đời.
Tôi tự hỏi, động cơ nào đã khiến một cô bé gái từ năm 11 tuổi đã tranh đấu cho nữ quyền, đã không sợ quyền lực, cái chết và sự trả thù. Tại vì người Taliban đã cấm không cho người nữ được cắp sách đến trường. Họ muốn bịt mắt, bịt miệng, che tai, mù loà đầu óc phụ nữ ngay khi họ còn là đứa bé. Chỉ khi bị bịt miệng người ta mới biết mình cần được nói. Bị bịt mắt người ta mới thấy ánh sáng là cần thiết. Bị mù loà tâm trí người ta mới cần cắp sách đến trường để khai thông trí tuệ, học hỏi điều hay lẽ phải. Sức mạnh của giáo dục rất cần thiết cho mọi con người.
Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao Kailash là một người nam, lại đứng ra tranh đấu cho phụ nữ và trẻ em? Tại họ bị bóc lột sức lao động, bị hãm hiếp không thương tiếc trong khi chính quyền đang tâm làm ngơ và coi thường rẻ rúng phụ nữ. Phụ nữ là ai, họ là em, là chị, là mẹ, là bà của chúng ta, họ cũng là những bè bạn, người thân ruột thịt chúng ta hằng yêu mến. Tranh đấu và bênh vực cho họ chính là tranh đấu cho nhân quyền, tranh đấu cho quyền làm người của họ và cũng là tranh đấu cho chính chúng ta.
Qua câu chuyện trên chúng ta nhận ra được, ngày nay, ảnh hưởng của ý thức nữ quyền rất sâu rộng. Ở mọi lãnh vực, giới tính, mọi lứa tuổi, màu da, cũng như đẳng cấp xã hội.
Bây giờ, ngược dòng lịch sử, chúng ta thử nhìn xem ý thức nữ quyền ảnh hưởng thế nào trong tác phẩm của các nhà văn nữ từ 1954 đến 1975 ở miền Nam Việt Nam như thế nào.
Nhắc đến các nhà văn nữ ở thời điểm đó, cá nhân tôi không khỏi tự hào về họ. Những người nữ đã bắt đầu biết sử dụng ngòi viết của mình để bày tỏ lập trường cá nhân. Họ viết và tư duy như một phụ nữ. Ý thức nữ quyền khiến họ nói lên được những quan điểm riêng, và xác định được vị thế cũng như cung cách sống của mình trong xã hội. Họ bắt đầu nhận thức về vai trò, giới tính cùng những khái niệm nhân bản của mình. Họ viết để giải toả sự lạc lõng và cô đơn. Họ tìm sự cảm thông và chia sẻ nơi độc giả. Họ vươn cao, tìm kiếm tự do, cố gắng thoát khỏi sự bao vây nhận chìm của cấu trúc quyền lực truyền thống có tính cách bộ tộc, và cả văn hoá Khổng-Nho.
Họ,
không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện
sinh. Đó là một quan niệm nghệ thuật về con người là
sinh vật cô đơn trong một thế giới phi lý. Nhà văn
Nguyễn thị Hoàng là một thí dụ điển hình. Những nhân
vật nữ trong tác phẩm của bà lúc nào cũng ở trong một
tình trạng mất định hướng và bối rối khi đứng
trước một thế giới hình như là vô nghĩa. Họ lang
thang bất định, xa rời với phận sự gia đình, luôn
khao khát đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là
tìm kiếm chính mình. Những nhân vật như thế đều được
tìm thấy trong các tác phẩm “Tuổi Sài Gòn, Vực Nước
Mắt, Tiếng Chuông gọi người tình trở về”.
Vốn
dĩ phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, các nhà
văn nữ đề cao quan niệm tự do luyến ái. Họ thừa
hưởng ý thức nữ quyền do ảnh hưởng Simone de Beauvoir.
Họ mon men đi vào những đề tài cấm kỵ như tình dục.
Có người còn nổi loạn bằng cách đề cao tính dục,
thân xác, vẻ đẹp của phụ nữ và coi trọng tự do cá
nhân, cuộc sống riêng tư. Tác phẩm “Vòng tay học trò”
của Nguyễn Thị Hoàng ra đời như một cuộc nổi loạn,
đạp đổ hàng rào luân lý, đạo đức truyền thống.
Câu chuyện xoay quanh những suy tư dằng xé giữa tình yêu,
tình dục và đạo đức của một cô giáo và anh học
trò. Tác phẩm trở thành một trong những tác phẩm gây
tranh cãi nhất thời ấy.
Vào
thập niên 54 tới 75, quyền làm người của phụ nữ vẫn
chưa được đánh giá đúng đắn. Trong nhiều quốc gia và
xã hội họ vẫn còn được xem như các tài vật được
buôn bán và trao đổi. Họ bị ngược đãi, bạo hành,
cưỡng dâm, vùi dập và chịu mọi phục tùng trước sức
mạnh của quyền lực. Quan niêm phụ nữ là một vật dục
để thoả mãn nhục dục vẫn còn lưu giữ trong đầu óc
một số người thời đó. Trong truyện ngắn “Bí mật
của rừng già” của Trùng Dương viết năm 1971, bà đã
mô tả một nhân vật nam có tiền bạc quyền lực thích
chiếm đoạt và làm tình với gái trinh, chỉ một lần
rồi bỏ đi và tìm cô gái khác. Ông ta thú nhận cái cảm
giác thích thú khi nhìn những giọt máu rỉ ra từ các
màng trinh bị rách của các cô gái đáng thương. Sau đó
ông ta đã cưỡng dâm một nữ tu từ ái trong một lần
cô ta quá giang xe tới Đà Lạt. Số phận hèn mọn của
người nữ tu kết thúc bằng một cái chết và đứa con
gái gù lưng.
Câu
chuyện kể trên, có thể có thật hay đã được Trùng
Dương dựng nên từ hư cấu. Tuy nhiên nó là một thí dụ
điển hình của những chuyện tương tự như thế ở xã
hội Việt Nam thời bấy giờ. Nó xảy ra công khai hay
được che chắn bằng tiền bạc hoặc những thế
lực quyền cao chức trọng.
Thân
phận nhỏ bé và mềm yếu của người phụ nữ càng hiển
lộ khi họ rơi vào cuộc chiến. Vậy mà sau cuộc chiến
họ là người có công trong việc tái lập trật tự gia
đình, xã hội. Bàn tay của họ dịu dàng, nhẫn nhục,
xoa dịu và chữa lành những vết thương ghẻ lở tàn dư
của cuộc chiến. Người phụ nữ viết không phải để
kể công trạng của họ thời hậu chiến, mà họ viết
để kể lể sự bất hạnh, để tìm sự cảm thông, để
bày ra ánh sáng những giọt nước mắt âm thầm đã nhỏ
trong góc tối, của một kiếp đàn bà chịu đoạ đày.
Họ viết bằng mực máu nhỏ từ tim.
Dưới
ngòi viết của Nhã Ca, chiến tranh là những kinh hoàng,
khốn khổ, lửa đỏ, nước mắt ngược xuôi. Cuốn, Giải
khăn sô cho Huế của bà đã ghi được cơn hấp hối của
Huế trong trận thảm sát Mậu Thân với hàng chục ngàn
hài cốt dân Huế dưới những mồ chôn tập thể. Đâu
cũng có nét hoảng hốt, chỗ nào cũng là người chết,
kẻ bị thương. Tiếng vật vã, mẹ khóc con, vợ khóc
chồng thê thiết, bi ai trong tiếng đạn phá, đại bác
réo tơi bời. Có thể nói khi viết về chiến tranh, ngòi
viết nữ bỗng chảy thành thể lỏng rấm rứt, thê
lương. Đặc biệt hơn, dưới vai trò nạn nhân, bản năng
người mẹ của phụ nữ trỗi dậy, họ như gà mẹ xù
lông đối đầu với nanh vuốt diều hâu. Họ sẵn sàng
hy sinh, dìu dắt và liều chết để bảo vệ con trẻ
trước sự bạo hành của bất cứ bàn tay hung ác, quyền
lực nào.
Có
một số người viết nữ có khuynh hướng bung thoát khỏi
tầm ngắm. Họ muốn bứt phá bức tường thành kiến xã
hội, tả và viết về tình dục như một biểu trưng của
nữ quyền. Trùng Dương đã tỏ rõ thái độ nữ quyền
của mình trong tác phẩm “Chung cư”. Bà đã cho Diệu,
nhân vật nữ của mình hành động, tư duy như một người
nữ và cái tôi của người phụ nữ trong tình dục được
thể hiện qua hành động “đòi nằm trên” trong cuộc
chăn gối.
Túy
Hồng với lối tả chân các cảm nhận đích thực, bà đã
soi rọi những bí mật chìm sâu trong thế giới nhạy cảm
của người nữ. Ngòi bút của bà đã đi những bước
dài trong hành trình đi vào địa ngục hay thiên đường
xứ “sex”. Những cuồng nộ và khoái cảm được tả
tỉ mỉ trong một cảnh quan ân ái trong tác phẩm “Những
sợi sắc không” tỏ lộ được nét nữ tính đặc biệt
của người nữ trong lối viết về sex. Chúng ta sẽ không
thể tìm được những điều này trong các tác phẩm của
những nhà văn nữ sống tại miền Bắc trong thời điểm
54-75.
Lệ
Hằng lãng mạn hơn, thần thánh hoá vũ trụ đàn ông bằng
những cháy bỏng, khát khao, lúc nào cũng sẵn sàng chảy
sáp trong tình dục cũng như tình yêu. Sự trữ tình và
nồng nàn trong văn phong của bà khi nhắc tới dục tính
khiến người đọc nghĩ tới những nhân vật nữ bị ẩn
ức tình dục lâu ngày dồn nén, chỉ chực nổ bung khi có
dịp.Tác phẩm “chết cho tình yêu” của bà đã tỏ lộ
điều này.
Nguyễn
Thị Thụy Vũ, đào sâu hơn vào những phân chia đẳng
cấp, những áp bức bất công và số phận bi thương của
phụ nữ trong xã hội bùn lầy nước đọng. Bà nói lên
tâm sự cô đơn của các cô gái già. Bà viết social girl
selling wholesale incense powder, she wrote about the family life of
many events that hvề xã hội các cô gái buôn hương bán
phấn, sinh hoạt của các gia đình với nhiều biến cố
có relevant to the times and to the turning points of historliên
quan đến thời cuộc và khúc quanh của lịch sử. Những
tác phẩm “Khung rêu, Mèo đêm, Lao vào lửa” là những
ray rứt, thèm khát yêu thương, tình dục được tâm sự,
kể lể bằng ngòi viết nữ mà không người viết nam nào
có thể có được.
Sự
có mặt của các nhà văn nữ miền Nam Việt Nam từ
thập niên 54 tới 75 tựa như sự hiện diện của những
bông hoa rực rỡ, toả ra một mùi xạ hương rất âm
tính, trong khu vườn văn học. Ý thức nữ quyền khi tiềm
tàng, lúc sáng chói đã khiến người phụ nữ phải cầm
viết. Chính vì văn chương cũng là một vũ khí quan trọng
trong công cuộc That's true literatugiải phóng chính mình và
giải phóng cho nữ giới nói chung.
.
------------------
.
HỘI
THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975 / Ngày 6-12-2014
Đặng
Phú Phong Cập nhật: 08/12/2014 12:19
.
Du
Tử Lê
07/17/2012 06:07 PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Phạm
Quốc Bảo Wednesday, December 03, 2014 6:20:29PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhì)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Monday,
December 08, 2014 6:51:41PM
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhất)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Saturday,
December 6, 2014 8:19:21PM
VIDEO
: Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam, 1954 – 1975 (ngày
thứ nhất)
.
.
Việt
Báo 03/12/201400:05:00
.
Nguyễn
Hưng Quốc 03.12.2014
.
Ðinh
Quang Anh Thái/Người Việt Tuesday, December 02, 2014 7:25:10PM
.
Người
Việt Books tái bản, 2014
Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm 2014
.
Nguyễn
Hưng Quốc Thứ Bảy, ngày 29 tháng 11
năm 2014
.
Đinh
Quang Anh Thái/Người Việt (thực hiện) Wednesday, November
26, 2014 3:00:42 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=198831&zoneid=1#.VHaKPcm8OKE
.
.
Tiểu
Muội (thực hiện) Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11 năm
2014
.
Phỏng
vấn nhà văn Trịnh
Thanh Thủy về Văn Học Miền Nam 1954 – 1975
Kalynh
Ngô/Người Việt (thực hiện) 22.11.2014
.
No comments:
Post a Comment