Michael
J. Totten
Athena chuyển ngữ
Athena chuyển ngữ
Chủ
Nhật, 07/12/2014
Việt
Nam là một đất nước độc tài toàn trị mà nếu chỉ
nhìn thoáng qua, bạn cứ tưởng nó là một quốc gia tự
do.
Những
người dân địa phương công khai chế giễu chính phủ mà
không hề sợ bị trả thù. Tôi đã nhìn thấy rất nhiều
mặc sắc phục của công an và quân đội, nhưng trông họ
không hề đáng sợ, và họ cũng không cố gắng tỏ ra
như vậy. Họ cũng hành xử như những người trong bộ
đồng phục cảnh sát ở các quốc gia như Mỹ hay Canada
mà thôi.
Tôi
thậm chí không hề lo lắng rằng phòng khách sạn của
tôi có thể bị nghe lén. Và thực sự thì điều đó
không xảy ra, ngay cả khi nó có xảy ra đi chăng nữa thì
tôi cũng không quan tâm. Tôi không cần thiết phải che dấu
danh tính là một nhà báo của mình như khi còn ở Cuba và
Libya. Lúc ở Trung Quốc và đặc biệt là Bắc Triều
Tiên, tôi cũng phải giấu danh tính thật của mình. Nhưng
ở Việt Nam thì không.
Trước
sự kiện mùa xuân Ả Rập thì Tunisia cũng giống như thế.
Vào thời điểm này thì Azerbaijan cũng vậy. Đài Loan và
Hàn Quốc đã nhanh chóng trải qua một thời kỳ tương tự
trước khi chuyển giao sang thể chế dân chủ.
Một
người có thể - hết sức thận trọng – khái quát hóa
rằng đây là giai đoạn ngày tàn của các chế độ độc
tài “hiền lành”, tức là chế độ độc tài không quá
tồi tệ, chí ít là so với các nhà độc tài và đặc
biệt là chế độ toàn trị khác.
Tất
nhiên ý tưởng về một nhà độc tài “hiền lành”,
trong đa số trường hợp, là một điều lố bịch. Nhưng
đôi khi trong một khoảng lịch sử dài, một nhà độc
tài “hiền lành” tương đối có thể xuất hiện.
Robert D.Kaplan đã định nghĩa trường hợp hiếm có đó
như sau: “đó là người khiến cho việc bị loại bỏ
của anh ta ít gặp nguy hiểm hơn bằng cách chuẩn bị
tinh thần cho nhân dân của mình về một chính phủ dân
chủ đại diện.” Lý Quang Diệu là một ví dụ điển
hình.
Nói
như vậy không có nghĩa là chính phủ của ông Lý Quang
Diệu tốt đẹp hơn thể chế dân chủ đại diện. Không
hề. Ông Lý chỉ làm tốt hơn những nhà độc tài khác ở
chỗ ông đã tạo ra những điều kiện cần thiết cho
cuộc chuyển giao bất bạo động để tiến gần đến
những thứ tự do và cởi mở hơn.
“Một
nhà độc tài càng tồi tệ”, Kaplan viết trong cuốn sách
Asia’s Cauldron của ông, “thì sự hỗn loạn càng
kinh khủng bấy nhiêu khi hắn phải ra đi. Đó là bởi vì
nhà độc tài đã phá vỡ liên kết trung gian giữa chế
độ ở trên đỉnh cao với gia đình hoặc bộ lạc ở
tầng thấp trong xã hội – các hiệp hội chuyên khoa, tổ
chức cộng đồng, hội nhóm chính trị v.v… Nói tóm lại
là những bộ phận khác của xã hội dân sự.”
Saddam
Hussein đã làm thế ở Iraq. Bashar al-Assad cũng làm điều
tương tự ở Syria. Moammar Quaddafi đã phá hủy Libya theo
cách đó, giống như Pol Pot đã làm với Cambodia, Aldofl
Hitler với Đức, và gia tộc họ Kim ở Bắc Triều Tiên.
Tôi
đã từng cố lập luận rằng chế độ cộng sản đã
làm những điều kinh khủng như thế nào ở mỗi quốc
gia mà họ nắm quyền, nhưng tôi không chắc chắn là điều
đó hoàn toàn đúng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tự
cải tổ chính nó, đầu tiên là vứt bỏ nền kinh tế
Mác-xít, tiếp đến là ngừng can thiệp quá sâu vào đời
sống của công dân Việt Nam. Chính phủ đã làm những
điều đó một cách hoàn toàn tự nguyện.
“Một
nhà độc tài tốt,” Kaplan tiếp tục, “bằng việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, cùng với những việc làm
khác, sẽ khiến xã hội trở nên phức tạp hơn, dẫn đến
việc hình thành nhiều tổ chức xã hội dân sự, và để
chia rẽ chính trị dựa trên lợi ích kinh tế mà theo định
nghĩa lành tính hơn so với các bộ phận của bộ lạc và
nhóm dân tộc sắc tộc.”
Chính
phủ Việt Nam đã chạm đến ngưỡng. Chỉ mới chạm
thôi. Nhưng cần phải làm rõ ràng rằng điều đó chính
xác nghĩa là gì. Nó không có nghĩa rằng vì chế độ độc
tài này khá “tốt đẹp” so với đa số các chế độ
khác mà nó phải được tiếp tục nắm quyền. Nó hoàn
toàn không nên tiếp tục. Nó chỉ “tốt đẹp” so với
chế độ độc tài khác trong chừng mực là nó có thể
chuyển sang hệ thống dân chủ dễ hơn mà không có xảy
ra bạo lực và tình trạng phức tạp như Syria, Ai Cập và
các nước hậu cộng sản như Yugoslavia và Ukraine sau khi
lật đổ Viktor Yanukovych, Somalia sau sự sụp đủ của
chính quyền cộng sản Siad Barre năm 1991, và Libya sau sự
tàn phá của chế độ Quaddafi.
Bối
cảnh của Việt Nam ngày nay khá giống với thời kỳ tiền
dân chủ ở Đài Loan và Hàn Quốc, và thực sự thì Việt
Nam có điều gì đó tốt hơn hẳn, về mặt kinh tế và
chính trị, so với miền Nam Việt Nam trước khi thua trong
cuộc chiến với cộng sản. Người Việt Nam chưa từng
trải qua chế độ dân chủ, giống như người dân Hàn
Quốc cho đến khi họ giành được nó vào cuối thập
niên 1980s mà không gặp nhiều trở ngại. Người dân Đài
Loan cũng không hề có kinh nghiệm trong việc bầu cử dân
chủ khi Quốc Dân đảng của Chiang Kai Shek đang nắm
quyền, nhưng họ đã thực hiện việc chuyển giao cực kỳ
êm thấm vào thập niên 80 và 90. Tunisia có gặp một chút
khó khăn, nhưng họ tiến đều 2 bước sau mỗi lần gặp
sai lầm.
Tôi
phải nhấn mạnh rằng Việt Nam sẽ là nơi diễn ra quá
trình chuyển giao sang chế độ dân chủ mà ít xảy ra bạo
động nhất. Có thể tôi sai. Sự lạc quan trong các vấn
đề lịch sử thường được chứng minh là sai lầm. Điều
đó đã từng xảy ra với tôi. Điều đó cũng từng xảy
ra với những ai nghĩ rằng họ biết chắc hướng đi của
quá trình chuyển giao.
Đối
với khách du lịch, Hà Nội nhìn như thủ đô của một
đất nước tự do, nhưng ta phải nghiêm túc để tâm đến
cảnh báo của Bill Hayton trong cuốn sách của ông Vietnam:
Rising Dragon. “Cái bẫy của sự tự do là quá rõ ràng
trên mỗi đường phố, nhưng từ kinh tế cho đến truyền
thông, Đảng Cộng sản vẫn quyết tâm duy trì thế độc
quyền của mình. Ẩn dưới sự chuyển dịch lớn mạnh
là một hệ thống chính trị độc tài sâu sắc và hoang
tưởng. Triển vọng của Việt Nam không hề rõ ràng như
người ngoài vẫn tưởng thế.”
*
* *
Hòa
thượng Thích Quảng Độ, người đứng đầu Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất (UBVC), là nhà đối lập
chính trị nổi tiếng nhất cả nước. Ông đã giành giải
thưởng Homo Homini về quyền con người vào năm 2012 và 9
lần được đề cử giải Nobel Hòa bình. Ông đã sống
dưới sự quản thúc của chính quyền trong một ngôi chùa
ở Sài Gòn. Tội của ông là gì ư? Là yêu cầu thể chế
dân chủ.
“Trong
suốt mấy năm gần đây,” ông trả lời trong cuộc phỏng
vấn, “tôi sống như một tù nhân bị trói bằng dây
xích. Cả ngày, tôi chỉ ở trong nhà. Tôi ăn một bữa
một ngày. Mọi việc giống hệt như khi tôi ở trong tù.
Phía ngoài cửa phòng tôi có một cái ghế. Đến bữa
trưa, khoảng tầm 11h, họ mang thức ăn từ bếp lên đặt
trên cái ghế đó. Tôi nhận đồ ăn rồi đem vào phòng.
Khi ăn xong, tôi lại đặt khay thức ăn lên trên cái ghế
đó. Họ quay lại rồi đem cái khay đi. Giống y hệt ở
trong tù.”
Ông
Al Jacobson ở Tổ chức Ân xá Quốc tế đã tiếp nhận hồ
sơ của hòa thượng Độ từ năm 2002. “Chúng tôi vẫn
không quên sau khi tiếp nhận trường hợp của người tù
đó,” anh nói với tôi. “Vì ngôi chùa của vị hòa
thượng đó quá lớn nên chính quyền Việt Nam xem đó như
là một mối đe dọa và từ chối công nhận nó. Vài năm
trước hội thánh Công giáo cũng đã công nhận trên danh
nghĩa, nhưng số người theo vẫn ít hơn bên Phật giáo.”
“Việc
này chủ yếu là về chính trị, tôn giáo, hay cả hai?”
Tôi hỏi.
“Phần
lớn là vấn đề chính trị,” anh nói. “Giáo hội đã
phát triển đến mức nhất định và nó có mâu thuẫn
sâu sắc với chính quyền cộng sản. Tôi theo dõi điều
này rất sát sao và tôi chưa bao giờ nghe thấy điều gì
từ phía chính quyền rằng nó đối nghịch với giáo hội
vì lý do tôn giáo.”
Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất yêu cầu quyền tự
do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do hội họp. “Nhìn
chung, họ đang đi ngược lại với bản chất độc tài
của chính phủ Việt Nam,” Jacobson nói.
Gần
đây, khi căng thẳng trong xung đột ở biển Đông leo
thang, hòa thượng Thích Quảng Độ đã muốn Giáo hội
Phật giáo tổ chức một biểu tình phản đối Trung Quốc,
nhưng cảnh sát đã bao vây ngôi chùa của ông và không
cho phép ông rời khỏi đó. Chính quyền lo ngại rằng
việc nhiều người từ Giáo hội Phật giáo tụ tập vì
bất kỳ lý do gì đều có thể đe dọa đến chính quyền
ngay cả khi chính quyền và giáo hội đã hoàn toàn đồng
ý với nhau về cuộc biểu tình.
Chính
phủ Việt Nam rất láu cá trong việc đối xử với ông
Thích Quảng Độ,” Jacobson nói. “Họ thản nhiên nói
rằng nhìn
đi, ông ấy có ở trong tù đâu, ông ấy sống trong chùa
cơ mà.
Nhưng ông ấy chẳng có bất cứ một quyền tự do nào
cả. Tổ chức Ân xá Quốc tế chúng tôi xem vị hòa
thượng ấy như một tù nhân lương tâm thật sự.”
Việc
chính quyền giam giữ hòa thượng Thích Quảng Độ ở
trong chùa thay vì trong nhà tù, không có nghĩa là họ không
tống ông vào trại cải tạo giống như những người dân
Bắc Triều Tiên phải bị như thế. Việt Nam không hề có
trại cải tạo. Trại cải tạo đã không còn nữa. Tôi
đã lên kế hoạch đến gặp ông ở Sài Gòn – người
thân tín của ông giúp tôi trốn vào và ra dưới lớp vỏ
bọc – nhưng tôi đã phải rút ngắn chuyến đi vì lý do
sức khỏe.
“Nếu
có phong trào phản đối trên quy mô lớn ở Việt Nam,”
tôi hỏi Jacobson, “anh nghĩ chính quyền sẽ phản ứng
như thế nào? Liệu họ có làm giống như Trung Quốc đã
làm ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và bắn hàng
trăm người không? Tôi có cảm giác là họ sẽ không làm
thế. Xem chừng giờ Việt Nam đã quá là tư sản rồi.”
Nhưng tôi thấy rằng Jacobson còn có dự cảm tốt đẹp
hơn so với tôi.
“Có
một khoảng cách rất lớn giữa việc giết người hàng
loạt với việc áp dụng các hình thức khác để đàn
áp,” anh nói. “Tự do ngôn luận, tự do lập hội và
những điều tương tự vốn đã bị giới hạn, và đây
cũng là những vấn đề mà tổ chức Ân xá Quốc tế
quan tâm. Rõ ràng có những vi phạm về nhân quyền ở
Việt Nam, không chỉ với hòa thường Thích Quảng Độ mà
cả những người đối lập. Tôi nghi ngờ việc sẽ có
một cuộc đàn áp đẫm máu trên quy mô rộng đối với
các phong trào, nhưng chẳng thể nào chắc chắn được
điều đó. Dù có thế nào, thì nó cũng chẳng thay đổi
vị thế của chúng ta được,”
*
* *
Chính
phủ Việt Nam vẫn tự nhận mình là Đảng Cộng sản,
nhưng tôi chưa thấy ở đâu chủ nghĩa tư bản thị
trường hiện hữu nhiều như ở Việt Nam, bao gồm cả
Hoa Kỳ nơi mà nền kinh tế mà bị quản lý rất ngặt
nghèo. Đúng là có cái gì đó khiến người ta phải lúng
túng.
“Cái
cụm từ ‘chủ nghĩa cộng sản’ bây giờ còn có nghĩa
hay không?” Tôi hỏi một người đàn ông Việt tên Huy
sống ở Hà Nội. Anh tự gọi mình là Jason khi nói chuyện
với người Mỹ bởi như thế dễ phát âm hơn, vậy nên
từ giờ tôi sẽ gọi anh ấy là Jason.
“Ngày
nay chủ nghĩa cộng sản chỉ đơn giản là được điều
hành bởi một đảng phái chính trị duy nhất,” Jason
nói. “Một số người phàn nàn rằng, với tôi thì không
quan trọng miễn là chính phủ tạo điều kiện để làm
ăn kinh doanh và có môi trường sống tốt. Tôi không muốn
các đảng phái khác nhau đấu đá lẫn nhau để rồi tạo
ra cuộc khủng hoảng như ở Thái Lan.”
Quân
đội Thái Lan đã thực hiện đảo chính đối với chính
phủ dân bầu hồi tháng Năm năm 2014.
“Nếu
anh có điều gì đó không hài lòng với chính quyền, anh
có thể công khai chỉ trích nó không?” Tôi nói.
Jason
cười lớn. “Được chứ. Chúng tôi làm thế suốt. Mà
hiện tại chúng ta cũng đang ở nơi công cộng đấy nhưng
tôi có nói nhỏ đi đâu. Anh cứ thoải mái phê phán chính
phủ miễn là đừng làm gì cả. Biểu tình phản đối
chính phủ bị cấm, nhưng chúng tôi vẫn có rất nhiều
cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc dạo gần đây.
Thỉnh thoảng chúng tôi cũng có vài cuộc biểu tình phản
đối chính phủ, ngay cả ở Hà Nội. Nó diễn ra ở Hà
Nội nhiều hơn Sài Gòn. Người dân miền Nam ít khi phản
đối, nhưng người dân Hà Nội thường xuyên làm thế.
Dù cho cuộc biểu tình cũng bị giải tán nhanh thôi.”
“Điều
gì đã xảy ra với những người biểu tình?” Tôi hỏi.
“Họ bị bắt rồi à?”
“Không,”
ông trả lời. “Họ chỉ bị giáo huấn bởi chính quyền
địa phương thôi.”
Đúng
là một lối nói trại rất thú vị, giáo
huấn
cơ đấy. Ở Hoa Kỳ cơ sở giáo huấn (correctional
institution) là cách viết dài hơn của từ “trại giam”.
“Chính
xác thì nó là cái gì?” Tôi hỏi.
“Họ
sẽ được chỉ bảo rằng biểu tình là xấu,” Jason trả
lời, “đều đó không được cho phép và nếu họ còn
tiếp tục làm thế, họ sẽ bị trừng trị. Mọi người
nghe thế thì ai chẳng sợ, và họ từ bỏ. Vậy thôi. Nếu
có người nào có tư tưởng cấp tiến thì họ sẽ bị
cảnh cáo, rồi tên của họ sẽ có trong danh sách đen, và
nếu họ còn đi biểu tình nữa thì sẽ gặp rắc rối.
Nhưng nếu họ về nhà và không làm gì cả, thì họ sẽ
chẳng bị làm sao hết. Chẳng có gì xảy ra. Việt Nam
không phải là Bắc Triều Tiên đâu.”
Không,
Việt Nam chắc chắn không phải là Bắc Triều Tiên rồi.
Nó ũng không phải là Syria dưới chế độ Bashar al-Asssad
hay Iraq dưới chế độ Saddam Hussein. Nó cũng không hà
khắc như ở Trung Quốc. Việt Nam còn ít thô bạo hơn
chính quyền Burma (Myanmar) dạo gần đây, và chế độ ở
nước này đang bắt đầu tự cải tổ để tồn tại.
Tiến trình đó vẫn chưa hoàn thành và có thể đi lùi,
nhưng nó đang diễn ra thực sự.
“Việt
Nam đã thay đổi nhiều như thế nào trong suốt quãng đời
của anh?” Tôi hỏi Jason.
“Nó
phát triển một cách chóng mặt,” anh trả lời, “đặc
biệt là ở Sài Gòn. Miền Nam luôn phát triển nhanh hơn
miền Bắc.”
“Sao
lại thế?” Tôi thắc mắc.
“Bởi
vì thủ đô ở ngoài miền Bắc chứ sao. Mọi thứ ở đây
đều bị hạn chế và kiểm soát nhiều hơn bởi chính
phủ, nhưng miền Nam thì thoải mái hơn. Chính phủ để
cho miền Nam như vậy nhằm mục đích phát triển kinh tế,
và nguồn tiền từ miền Nam sẽ chảy ngược lên miền
Bắc. Đó là lý do.”
Tôi
đã rất ngạc nhiên khi biết rằng Hà Nội khép kín và
bị hạn chế nhiều hơn so với Sài Gòn. Tôi có cảm giác
nó không hề bị hạn chế hay kiểm soát một chút nào.
Bề ngoài thì có thể gây ra sự nhầm lẫn, tất nhiên.
Không phải lúc nào cũng có đàn áp. Nhưng tôi rất
“thính” trong mấy vụ đàn áp chính trị và phải thừa
nhận rằng tôi chẳng cảm thấy một chút đàn áp nào
luôn. Một trong những lý do khiến tôi nhận thức rằng
nó tồn tại là vì người Việt Nam luôn muốn nói với
tôi về điều đó một cách công khai. Việt Nam vẫn chưa
chạm đến mức mà nhà đối lập Soviet nổi tiếng Natan
Sharansky gọi là “một xã hội sợ hãi,” nơi các công
dân sẽ không nói những điều gì họ thực sự tin rằng
người khác có thể nghe thấy.
“Ở
đây thì chính phủ quản lý cái gì?” Tôi hỏi Jason.
“Khi tôi nhìn quanh thì tôi chẳng thấy sự kiểm soát
nào cả. Có điều gì mà tôi không hề thấy a?”
“Các
quán bar ở Hà Nội phải đóng cửa sớm. Gần như không
có hoạt động vui chơi giải trí nào sau nửa đêm ở
đây. Ở Sài Gòn, họ có thể mở cửa 24/7. Ở đây thì
chúng tôi buộc phải về nhà và đi ngủ. Chúng tôi có
thể đi ra đường sau nửa đêm, nhưng không thể tụ tập
nếu không cảnh sát sẽ đến và yêu cầu chúng tôi về
nhà.”
“Cái
đó được gọi là gì?” Tôi hỏi.
“Chúng
tôi gọi nó là luật ở thủ đô. Chỉ có ở Hà Nội
thôi. Chúng tôi buộc phải giải tán sau nửa đêm.
(còn
tiếp)
Nguồn:
The
last days of Communist Party?, The World Affair Journal.
------------------------
Michael
J. Totten
Athena chuyển ngữ
Athena chuyển ngữ
Có
một điều không thể chối cãi: các đồng nghiệp của
tôi làm trong ngành truyền thông ở Việt Nam không thể
viết về bất cứ điều gì họ muốn.
Tôi
đã hỏi một nhà báo địa phương về việc hệ thống
kiểm duyệt hoạt động như thế nào và xem chừng cô ấy
trả lời tôi khá thành thật. Tôi sẽ không đề tên cô
ấy ở đây để tránh cho cô gặp những rắc rối. Việt
Nam không phải là Bắc Triều Tiên, nhưng nó cũng chưa đến
mức được như Canada.
“Chính
phủ sở hữu mọi thứ về mặt kỹ thuật nhưng từ lâu
rồi không còn quản lý trực tiếp nữa,” cô trả lời.
“Thực sự tôi không chắc liệu tôi có tự do báo chí
nhiều đến đâu, hay tôi tự kiểm duyệt mình quá mức
ra sao bởi tôi đã quá quen với nó rồi.”
Đúng
là cá không gặp nước rồi.
“Không
ai nói cho tôi biết xem tôi có thể và không thể viết về
cái gì. Tôi chỉ tự nhận biết theo bản năng về những
thứ tôi không nên viết bởi tôi sinh ra và lớn lên ở
đây. Các quy định không được viết hẳn ra, nhưng nó
có sự thay đổi. Ví dụ, trước đây, chúng tôi không
thể in từ dân
chủ
trong bất kỳ nội dung văn bản nào, nhưng giờ thì có.
Việc chỉ trích Trung Quốc cũng vậy, nhưng giờ thì hoàn
toàn bình thường.”
“Điều
gì sẽ xảy ra nếu cô phá luật?” Tôi hỏi.
“Thì
biên tập viên sẽ không duyệt nó chứ sao.” Tất nhiên
là thế rồi. Những biên tập viên mới đảm nhiệm vị
trí phải gặp Ban Tuyên giáo mỗi tuần một lần để
nghe xem cái gì có thể và không thể viết về. “Nếu
như có bài nào đó được duyệt, thì ngay sau đó họ sẽ
nhận được cuộc gọi từ phía chính quyền và họ sẽ
phải sửa nó.”
Nạn
tham nhũng hiện đã được đưa tin tràn làn trên các
phương tiện truyền thông, nhưng chỉ có những người ở
cấp thấp bị điểm mặt chỉ tên, chẳng bao giờ thủ
tướng hay quan chức cấp cao bị nhắc đến. “Khi báo
chí nhắc đến nạn tham nhũng ở các cấp lãnh đạo cao,
thì cả chính quyền nói chung sẽ bị đổ lỗi chứ không
nhắc đến một ai cụ thể cả.”
Các
trang mạng truyền thông xã hội không còn bị cấm nữa,
nhưng vẫn bị theo dõi chặt chẽ. Nếu bạn phàn nàn về
chính phủ trên Facebook thì cũng được thôi, dù chính phủ
vẫn theo dõi. Nếu bạn phê phán chính phủ trong các nhóm
trên Facebook, mọi chuyện có thể rắc rối hơn một chút.
Và nếu bạn thực hiện nó ở ngoài đời thực và xuống
đường biểu tình, thì mọi chuyện sẽ trở nên cực kỳ
nghiêm trọng.
Cho
dù có những hạn chế như thế, tôi vẫn cảm thấy Việt
Nam thoải mái hơn so với bất kỳ quốc gia độc đảng
nào mà tôi từng ghé thăm. Nó thoải mái hơn
rất nhiều
so với Cuba, anh em XHCN của Việt Nam. Chế độ nhà Castro
bóp nghẹt mọi thứ trong khi chính quyền Việt Nam chỉ
làm điều nó buộc phải làm để duy trì quyền lực, và
có vẻ nghịch lý là điều này đã dẫn tới việc nới
lỏng quyền kiểm soát của nó đối với đời sống của
nhân dân, thay vì thắt chặt hơn.
Tunisia
cũng có dáng dấp và cảm giác tương tự khi Ben Ali vẫn
nắm quyền trước khi Mùa xuân Ả-rập khởi động, khi
Christopher Hitchens đã láu lỉnh chỉ ra rằng “hệ thống
chính quyền Tunisia kém thông minh và không dám chịu rủi
ro hơn nhiều lần so với đại đa số người dân của
nó”. Nếu không kể đến thể chế chính trị, thì mọi
thứ đều tương đối ổn thỏa ở Tunisia khi tôi ghé
thăm đất nước này lần đầu năm 2004. Nhà nước thì
đúng là thối nát, nhưng xã hội tự nó cởi mở, khoan
dung, thịnh vượng và phức tạp. Không có gì đáng ngạc
nhiên – ít nhất là với tôi – rằng Tunisia đã chuyển
đổi từ độc tài sang dân chủ một cách êm thấm và
không bị rơi vào tình trạng nội chiến hay sự phản ứng
mạnh mẽ của chế độ độc tài như ở Syria, Libya hay
Ai Cập.
Tôi
có thể nhầm lẫn, nhưng tôi cảm nhận một cách mạnh
mẽ rằng Việt Nam sẽ chuyển đổi êm thấm tương tự
khi điểm kích hoạt được đạt đến. Nó đã trở nên
thịnh vượng và tự do hơn bất kỳ thời điểm nào
trong quá khứ. Mọi thứ đều tốt đẹp hơn, và đó là
điều thường tạo ra sự chuyển đổi dân chủ thành
công. Khi một lực lượng đáng kể những người trung
lưu vừa vượt lên khỏi đói nghèo, họ có xu hướng thở
dài nhẹ nhõm và chấp nhận với những gì đã đạt
được. Nhưng khi một thế hệ mới ra đời không hề có
trải nghiệm cá nhân về một quá khứ khó khăn, sự
thiếu vắng tự do chính trị sẽ nặng nề hơn nhiều.
Sau một thời gian dài sống trong an toàn thì ngay cả những
người trung lưu lớn tuổi cũng đã bắt đầu lên tiếng
đòi hỏi.
Cho
dù điều gì xảy ra sau này, thì bây giờ người ta vẫn
thấy rõ những điều đang xảy ra. Công dân Việt Nam và
chính quyền đã đạt được một thỏa ước tạm thời:
Nếu
mày không động đến chúng tao, thì chúng tao sẽ không
động tới mày.
Đó là một tình trạng đáng buồn cho những ai có đầu
óc chính trị tích cực, và nó đặc biệt đáng buồn cho
những người như tôi, viết về chính trị để kiếm
sống, nhưng đa số người Việt Nam trung thành với chủ
nghĩa phi chính trị - tôi cho là một phần nào đó là vì
họ buộc phải sống như thế, nhưng cũng bởi vì văn hóa
hiện nay là quan tâm chủ yếu tới thương mại và phát
triển kinh tế.
Tranh
luận chính trị là trò tiêu khiển quốc gia ở phần lớn
các nước Trung Đông bất chấp thực tế là rất ít
người có tự do chính trị. Công dân không phải lúc nào
cũng được nói về chính quyền của họ, nhưng rõ ràng
họ có thể và đã nói về chính trị trong khu vực, cũng
như về chính trị trong nước. Ở Trung Đông tôi cảm
thấy như mình đang ở giữa một cuốn sách lịch sử
đang mở ra. Ở Việt Nam cảm giác này ít hơn. Hiện tại
là thời gian cho sự thay đổi, nhưng có rất ít những
câu chuyện hàng ngày, ít thứ xảy ra công khai. Không có
chiến tranh, không có cách mạng, và không có chủ nghĩa
khủng bố.
Nhưng
lịch sử còn lâu mới kết thúc ở Đông Nam Á. Trung Quốc
đang gây hấn với cả khu vực. Quân đội Thái Lan lật
đổ một chính quyền dân cử. Miến Điện cuối cùng đã
chuyển hướng khỏi quá khứ đàn áp khốc liệt. Còn bao
lâu nữa thì một điều tương tự sẽ xảy ra ở Việt
Nam? Đáng ngạc nhiên là Miến Điện lại đi trước vì
điểm khởi đầu của nó phải nói là thấp hơn nhiều,
nhưng nếu nó có thể xảy ra ở Miến Điện thì cũng sẽ
có thể xảy ra ở Hà Nội hoặc Sài Gòn.
Sự
thiếu vắng những biến cố tồi tệ xảy ra và tạo ra
sự thay đổi ở Việt Nam khiến công việc của tôi khó
khăn hơn, nhưng một phần trong tôi không phải là phóng
viên, mà là một con người bình thường, cảm thấy nó
thật dễ chịu. Trung Đông có lẽ cần một khoảng thời
gian nghỉ ngơi như Việt Nam đang có hiện nay. Nhưng khoảng
thời gian nghỉ ngơi chắc chắn rồi sẽ qua đi. Bạn có
thể cá đồng đô-la cuối cùng của mình vào điểm này.
*
* *
Washington
gây áp lực cho Hà Nội để đạt được những tiến bộ
cụ thế thay vì nhắc đi nhắc lại về nhân quyền nói
chung, điều này có lẽ sẽ mang lại hiệu quả. Các than
phiền chung chúng có thể dễ dàng chối bỏ, nhưng sẽ
khó hơn để bỏ qua những chỉ trích có định hướng từ
những người bạn. Tiến bộ gần đây thì vẫn khiêm
tốn, nhưng nếu so với thời kỳ 1970 và 1980 thì đã có
thay đổi rất lớn.
“Gia
đình tôi đã cố gắng rời đi những năm 1970 và không
thành công”, Tuong Vi Lam nói với tôi. Cô lớn lên tại
Sài Gòn trong chiến tranh, và gia đình của cô đã phải
đối mặt với địa ngục khi phe cộng sản dành thắng
lợi. “Bố và ông tôi làm việc cho chính quyền cũ, và
tôi không có cơ hội nào khi chính quyền cộng sản tới.
Bố tôi phải vô trại cải tạo. Ông bị buộc phải lao
động nặng nhọc trên cánh đồng. Trại được lập ra
nhằm mục đích cải tạo, nhưng thực tế nó là trại
lao động. Ông không bị đánh đập, nhưng nhiều người
khác bị và một số còn bị giết”.
“Lý
do duy nhất ông bị gửi đi vào trại là vì ông đã làm
việc cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ông không phạm
một tội ác nào. Chính quyền cộng sản có danh sách với
tên tất cả mọi người trong đó. Ông nhận được một
thông báo qua bưu điện nói ông phải đến trình diện
vào một ngày nhất định”
“Họ
không bắt giữ ông ta?” Tôi hỏi.
“Họ
bắt giữ một số người khi những người được lệnh
phải trình diện không quay trở lại nhà,” she said.
“Tình
hình miền Nam tồi tệ ra sao khi miền Bắc tiếp quản?”
Tôi hỏi.
“Cực
kỳ tồi tệ,” cô trả lời. “Tất cả trường học
đều phải đóng cửa. Dì và chú của tôi đang học đại
học cũng phải bỏ dở. Họ chỉ đơn giản là không thể
đến trường được nữa. Tài sản bị tịch thu và chia
cho những người ở miền Bắc. Đảng Cộng sản thậm
chí còn tuyên truyền trong cả sách giáo khoa toán. Họ cho
đề bài kiểu như: ‘Hôm qua một chú bộ đội đã giết
3 tên lính Mỹ và hôm nay giết được 5 tên. Tổng cộng
chú bộ đội đã tiêu diệt được bao nhiêu lính Mỹ?’
Hiện tại thì trong sách không còn những câu hỏi kiểu
như thế nữa, nhưng họ đã làm như vậy suốt khoảng
năm đến mười năm gì đó.”
Bố
của cô cuối cùng cũng thoát khỏi trại cải tạo và gia
đình cô đã cố lên trốn lên một chiếc thuyền nhỏ
rồi chuyển sang một chiếc thuyền to hơn. Thuyền to thì
người đông nên mọi người phải tự nhồi nhau vào
trong khoang. Và rồi họ bị bắt.
“Thế
gia đình cô định đi đâu?” Tôi hỏi.
“Philippines
hoặc Thái Lan. Họ có các trại dành cho người tị nạn
ở đó. Nhưng Mỹ mới là điểm đến cuối cùng.”
Cuối
cùng cô cũng làm được điều đó và hiện cô đang sống
ở Oregon.
“Tại
sao chính quyền lại quan tâm đến cả việc mọi người
rời khỏi Việt Nam?” Tôi thắc mắc.
“Bởi
vì chúng tôi đang cố bỏ nước mà đi chứ sao,” cô trả
lời.
“Tôi
biết, nhưng tại sao họ phải quan
tâm
đến chuyện đó? Họ có nói lý do là gì không?”
“Họ
chỉ nói là chúng tôi đang cố bỏ nước ra đi,” cô
đáp.
Hóa
ra là vậy. Bị bỏ tù chỉ vì cố trốn thoát. Cả đất
nước này vô hình trung đã biến thành một nhà tù lớn.
Nhà tù thực sự chỉ là tù trong tù mà thôi.
“Họ
không đưa ra bất kỳ lý do nào khác ư,” tôi tiếp tục,
“ví dụ như buộc tội cô buôn lậu chẳng hạn? Họ chỉ
nói rằng rời khỏi đất nước là phạm pháp à?”
“Nếu
anh cố rời khỏi đất nước, anh sẽ bị bắt, thậm chí
là cả trẻ con. Một tháng một lần người thân được
phép lên thăm để tiếp tế thức ăn và thuốc. Bố tôi
đã bị chuyển đến trại cải tạo và bị kết án giam
giữ vô thời hạn. Nhưng ông đã trốn được.”
“Trốn
bằng cách nào?”
“Tất
cả tù nhân đều phải làm việc trên cánh đồng vào
ngày và quay lại nhà tù vào buổi đêm,” cô trả lời.
“Một hôm khi họ đang làm việc gần một con sông, mà
bố tôi thì bơi cực giỏi. Khi lính gác không chú ý, ông
đã ném một tảng đá lớn xuống nước và trốn sau bụi
rậm. Họ cứ nghĩ rằng bố tôi đã nhảy xuống sông
nhưng thực ra ông vẫn đang nấp đi và họ thì cứ quát
tháo và xả súng liên tục. Khi màn đêm buông xuống,
chẳng còn ai ở đó nữa thì bố tôi mới nhảy xuống
sông, bơi một mạch khoảng 7 dặm và chạy đến nhà
người thân của mẹ tôi. Họ cho bố tôi ít tiền và ông
đã đi xe bus về Sài Gòn. Mặc dù không thể trở về nhà
nhưng ông vẫn có thể lẩn trốn giữa hàng triệu người
ở thành phố này. Cuối cùng chúng tôi thoát được sang
Mỹ và bố tôi đã không quay lại Việt Nam suốt 20 năm
qua.”
*
* *
Thành
tích tôn trọng quyền con người của chính phủ Việt Nam
khó có thể coi là lý tưởng, và thậm chí là không thể
dung thứ nếu xét theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, nhưng chính
phủ đang cải thiện dần và rõ ràng là hiện tại đã
tốt hơn trước rất nhiều. Ít nhất đó cũng là điều
đáng để công nhận.
Việt
Nam không có nhiều tự do báo chí, nhưng sách báo và tạp
chí nước ngoài vẫn bán nhan nhản. Internet cũng vậy, có
đầy đủ thông tin từ mọi nơi về mọi thứ. Tất nhiên
là vẫn chưa đủ - báo chí nước ngoài và các websites
hiếm khi bao trùm đầy đủ các vấn đề nội địa của
Việt Nam – nhưng vậy còn hơn không. Ít nhất mọi người
đã có ý niệm về những gì đang diễn ra bên ngoài biên
giới nước họ, không như những thân phận nô lệ tội
nghiệp ở Bắc Triều Tiên.
Dù
biểu tình là phạm pháp nhưng một số người vẫn xuống
đường và tiến hành biểu tình theo cách nào đó. Đến
lúc – không thể tránh được – sẽ có rất nhiều
người lên tiếng yêu cầu sự thay đổi cùng một lúc
khiến nỗi sợ hãi bị đàn áp hoàn toàn biến mất.
Không
thể nói chắc, nhưng Việt Nam có lẽ chỉ cần một sự
kiện, một cuộc cải cách, hay một cuộc biểu tình đông
đảo để chuyển đổi sang tự do dân chủ. Khoảnh khắc
then chốt của lịch sự luôn luôn không đoán trước
được. Không ai có thể tiên đoán rằng công dân Mohammad
Bouazizi của Tunisia sẽ tự thiêu và chính điều đó đã
châm ngòi cho sự kiện Mùa Xuân Ả Rập. Chế độ độc
tài có thể giữ vững sự ổn định cho đến khi nó
không thể giữ nữa. Cuối cùng thì nó sẽ phải thất
bại.
Thành
tích nhân quyền của mỗi quốc gia trên thế giới đều
được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn như nhau. Đồng
thời, việc tăng điểm cho một quốc gia vì đã có cải
thiện trong vấn đề nhân quyền chỉ thực sự công bằng
nếu như việc cải thiện đó là thành thật. Người ta
không nên trông đợi một chế độ độc tài tự thu bàn
tay quyền lực của mình lại và chuyển giao sang chế độ
dân chủ kiểu Jefferson. Đấy không phải là cái cách mà
lịch sử diễn ra.
Peter
Peterson – cựu tù binh trong chiến tranh Việt Nam, cựu
nghị sĩ đảng dân chủ của bang Florida, đại sứ Hoa Kỳ
đầu tiên đến Việt Nam kể từ sau chiến tranh – cũng
nghĩ tương tự.
“Khi
còn là đại sứ,” ông ấy kể, “tôi thực sự muốn
xác định được quá trình tiến bộ hơn là so sánh Việt
Nam với lý tưởng một trăm phần trăm. Việt Nam đã làm
tốt, và sẽ còn tốt hơn nữa. Nếu bạn vẽ đồ thị
thể hiện điều đó, chắc chắn bạn sẽ thấy được
sự tiến bộ.”
Hàng
triệu công dân không còn chạy trốn khỏi đất nước
nữa. Trại cải tạo cũng không tồn tại. Địa chủ đã
hết bị hành quyết. Facebook không bị cấm. Những người
bản địa giờ đã được phép nói chuyện với du khách
nước ngoài. Những trang web và báo chí nước ngoài từng
bị kiểm duyệt thì giờ người dân đã có thể đọc.
“Tuy
nhiên, hiện tại vẫn có những vi phạm,” Peterson nói.
“Chính phủ vẫn không chấp nhận sự phản đối và
những người bất đồng chính kiến vẫn phải ẩn mình.
Có quá nhiều sự kiểm duyệt, bao gồm cả việc tự kiểm
duyệt. Chẳng ai muốn mình là kẻ đi đầu để bị đàn
áp đầu tiên cả.”
Tuy
nhiên, giờ Hoa Kỳ đã có mối quan hệ tốt đẹp với
Việt Nam, như nó đáng phải như vậy. Chiến tranh đã qua
lâu rồi. Cả hai nước đều chia sẻ chung một tầm nhìn
chiến lược vì Đông Nam Á, và người dân hai nước, dù
đã có một khoảng thời gian trong quá khứ khá tồi tệ,
vẫn quý mến nhau.
Tôi
đã hỏi Peterson xem ông nghĩ quan niệm sai lầm nhất của
người Mỹ về Việt Nam là gì, và tôi toàn hoàn đồng ý
với câu trả lời của ông ấy.
“Không
chỉ người dân Mỹ mà tất cả mọi người trên thế
giới đều không hề biết Việt Nam to lớn đến mức
nào. Nó không chỉ là cái ổ gà trên đường mà chúng ta
có thể làm ngơ. Đó là đất nước đông dân thứ 13
trên thế giới với nền kinh tế, quân sự và năng lực
chiến lược cực kỳ hùng hậu. Việt Nam không đáng để
bị làm ngơ nhưng thực tế nó đang bị như vậy. Nếu
không cẩn thận, điểm mù của chúng ta sẽ tạo ra một
khoảng trống bị lấp đầy bởi những người hoặc
những thứ mà chúng ta không hề thích.”
No comments:
Post a Comment