Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975 / Ngày 6-12-2014
Đặng
Phú Phong
Cập
nhật: 08/12/2014 12:19
Trong
2 ngày 6-7/12/2014, nhật báo Người Việt và nhật báo Việt
Báo kết hợp với 2 trang mạng văn học là Da Màu và Tiền
Vệ đã tổ chức một cuộc hội thảo khá quy mô với 16
diễn giả nói về các đề tài trong phạm vi văn học
miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975.
Hội
thảo ngày thứ nhất (6/12/14)
LITTLE
SAIGON. Ngày
đầu tiên (6/12/14) được tổ chức tại phòng hội
của báo Người Việt bắt đầu lúc 10:00 sáng. Mở đầu
bằng nghi thức chào cờ VNCH và phần mặc niệm
tưởng nhớ các văn nghệ sĩ đã mất, đặc biệt
những người mất trong các trại cải tạo sau năm 1975.
Sau đó LS. Phan Huy Đạt, Chủ Nhiệm báo Người Việt
tuyên bố khai mạc, chào mừng quan
khách.
Nhà
Phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc.
Nhà
thơ Đỗ Quý Toàn, người điều hợp chương trình buổi
sáng, giới thiệu diễn giả đầu tiên của chương trình
là nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc,
đề tài thuyết trình của ông hôm nay là:
“Văn
học miền Nam 1954-1975 trong tiến trình hiện đại hoá của
văn học dân tộc”.
Tiểu
sử:
Nguyễn
Hưng Quốc
tên thật là Nguyễn
Ngọc Tuấn
vượt
biên khỏi Việt Nam năm 1985, đầu tiên sang Pháp,
sau đó định cư tại Úc từ năm 1991. Khi còn ở Việt
Nam, ông đã tốt nghiệp ngành sư phạm tại thành phố Hồ
Chí Minh, sau đó lấy bằng tiến sĩ văn học tại đại
học Victoria, Úc. Tại đại học Victoria, ông giảng dạy
về ngôn ngữ, văn học, văn hóa và chiến tranh Việt Nam.
Tuấn là chủ bút tạp chí Việt (1998-2001), hiện thời
đồng chủ bút trang Tiền
Vệ (2002).
Ngoài
ra ông còn hợp tác với một số tạp chí văn học hải
ngoại như Văn, Văn Học, Hợp Lưu.v.v. và có trang blog
Nguyễn Hưng Quốc trên trang mạng VOA tiếng Việt
bình luận về chính trị. Ông đã xuất bản trên 10 cuốn
sách , hầu hết là phê bình văn học VN.
Nguyễn
Hưng Quốc mở đầu phần thuyết trình của ông là:“Tổng
quan văn học miền Nam 1954-1975”. Ông cho rằng: “Văn
học miền Nam (VHMN) từ 54-75 là một trong những nền văn
học bất hạnh nhất trong lịch sử văn học Việt Nam”
vì sau khi CS xâm chiếm miền Nam, họ không thừa nhận nền
văn học này nên đã tịch thu, phá hủy tất cả những
tác phẩm đã in ra của miền Nam trước năm 75. Tuy nhiên
VHMN vẫn được tồn tại là nhờ CĐVN ở hải ngoại
liên tục in lại. Theo ông VHMN là một nền văn học lớn
và lớn ở nhiều khía cạnh,từ sáng tác, nghiên cứu phê
bình, dịch thuật cho đến những nhà văn tiêu biểu,
những người có công khai phá kỹ thuật mới lạ, phong
cách hay và độc đáo nếu đem so sánh với văn học miền
Bắc trong cùng thời kỳ, dựa trên quan niệm mỹ học.
Ông cũng nói thêm rằng VHMN thời kỳ 54-75 chẳng những
đa dạng hơn VHMB cùng thời kỳ mà còn đa dạng hơn văn
học VN thời 30-45.
Ba
tính chất trong VHMN được nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc
đưa ra , dùng nhiều văn, thơ của các tác giả như
Võ Phiến, Nhã Ca, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng… để dẫn
giải tỉ mỉ là:
1/
Tính hiện thực, tính lảng mạn.
2/Phát
triển nhân văn.
3/
Sự đa dạng.
Song
song với lời ca ngợi những điều tốt đẹp của VHMN,
Nguyễn Hưng Quốc cũng đưa ra nhiều chỉ trích nền văn
học miền Bắc. “Nó hoàn toàn xóa sạch cái tôi cá
nhân chủ nghĩa, nó nhắm đến cái chung.Toàn bộ văn xuôi
ở miền Bắc từ 54-75 đều tập trung đến hai đề tài
lớn là tổ quốc và XHCN. Trong đó người ta ca tụng
thành công của CNXH, con đường xây dựng CHXH.”.
*
Kế tiếp là phần
thuyết trình của nhà Phê bình
văn học Bùi Vĩnh Phúc với đề tài: Văn học
miền Nam, 1954-1975: Phẩm tính và ý nghĩa
Tiểu
sử: Sinh năm 1953 tại Hà Nội, dạy Pháp văn và
Việt văn ở Sài Gòn cho đến 1977. Sống ở Mỹ từ 1978.
Dạy học và làm việc trong ngành Tâm lý – xã hội trong
vòng 25 năm trở lại đây. Hiện dạy Anh văn cũng như
Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam tại California State
University, Fullerton và Golden West College.
Viết lý luận phê
bình văn học từ 1982.
Tác
phẩm chính (đã xuất bản tại Mỹ):
*
Trịnh Công Sơn: ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật
(2005)
*
Lý luận và phê bình: Hai mươi năm văn học Việt ngoài
nước (1975 – 1995)
*
20 năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975- 1995 (Viết chung,
1995)
*
Tuyển tập truyện ngắn hai mươi năm văn học Việt Nam
hải ngoại 1975 – 1995 (Viết chung, 1995)
Nhà
Phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc.
Theo
Bùi Vĩnh Phúc: Bốn phẩm tính nổi bật của VHMN
54-75 là:
Một
nền văn học phát triển liên tục từ thời tiền chiến.
Một
nền văn học mang tính liên thông với thế giới.
Một
nền văn học mang tính nhân bản và nhân văn.
Một
nền văn học khai phóng, đa sắc và đa dạng.
Sự
diễn giải 4 phẩm tính này của nhà phê bình Bùi Vĩnh
Phúc tuy không mới lạ gì nhưng đây là kết quả của
một suy nghĩ, nhận xét rất logic. Ông dùng 4 phẩm tính
của nền VHMN để chỉ ra một thành tựu, đóng góp
của văn học Việt Nam cuối thế kỷ 20. Tuy chỉ trong 20
năm nhưng sự tồn tại của nó rất quan trọng. Nó chia
sẻ thân phận, tình cảm của con người, gần gũi với
nền văn học thế giới. Và,trong thời gian nầy, miền
Bắc cũng có một nền văn học riêng mà giá trị của nó
chỉ nằm trong một cái khung kiểm soát về văn hóa và tư
tưởng để tô hồng cuộc chiến với miền Nam, ngợi ca
chủ nghĩa CS.
Ông
cho rằng nền văn học đó đã tự chặn đứt nhịp cầu
nối tiếp với nhân loại. Trong tất cả những tài liệu
nghiên cứu văn học của miền Bắc hoàn toàn không nhắc
đến VHMN, tình trạng này vẫn còn kéo dài từ sau 1975
đến hiện giờ.
Một
câu hỏi từ cử tọa cho ông là :” Theo ông giữa nền
văn học hai miền trong thời gian này có gặp nhau điểm
nào không?”. Nhà Phê bình Bùi Vĩnh Phúc cho là : “Không,
nhưng nếu là có thì chỉ ở chỗ là nền văn học hai
miền đều vị quốc. Nhưng, miền Bắc thì dược đảng
chỉ đạo, tô hồng cuộc chiến, che mất nhân văn con
người. Còn miền Nam thì bảo vệ đất nước, tôn trọng
tự do, cá nhân con người.”
*
Diễn
giả thứ ba cũng là diễn giả cuối của buổi sáng trước
khi nghỉ trưa là nhà văn Trần Doãn Nho
với chủ đề là: “ ‘Tính văn học’ trong
văn học miền Nam”.
Nhà
văn Trần Doãn Nho. Người ngồi ở góc trái là nhà thơ
Đỗ Quý Toàn, người điều hợp chương trình hội thảo
buổi sáng.
Tiểu
sử:
Tên
thật Trần Hữu Thục
Sinh
năm 1945, Huế.,
bút
hiệu Trần Doãn Nho và Thế Quân.
Học
ở Huế và Sài Gòn. Tốt nghiệp đại học, ngành
Triết.
Trước 1975, viết văn viết báo, đi lính, dạy học. Cộng tác với các tạp chí văn học Văn, Vấn Đề, Khởi Hành, Bách Khoa, Tân Văn, Đối Diện.
Sau tháng 4/1975, ở tù cho đến năm 1981. Năm 1993, định cư tại Hoa Kỳ,cộng tác với nhiều tạp chí văn học và website hải ngoại như Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21, Phố Văn, Gió Văn, Talawas, Gió O.
Trước 1975, viết văn viết báo, đi lính, dạy học. Cộng tác với các tạp chí văn học Văn, Vấn Đề, Khởi Hành, Bách Khoa, Tân Văn, Đối Diện.
Sau tháng 4/1975, ở tù cho đến năm 1981. Năm 1993, định cư tại Hoa Kỳ,cộng tác với nhiều tạp chí văn học và website hải ngoại như Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21, Phố Văn, Gió Văn, Talawas, Gió O.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Vết
xước đầu đời,tập truyện ngắn,Thanh Văn 1995
Căn
phòng thao thức,tập truyện ngắn, Thanh Văn 1997
Viết
và Đọc,tiểu luận văn học, 1999
Loanh
quanh những nẻo đường, ký và tùy bút, Văn Mới 2000
Dặm
trường, truyện dài, 2001
Tác
giả tác phẩm và sự kiện, tiểu luận văn học, Văn
Mới, 2005
Từ
ảo đến thực, tạp bút, 2006.
Dẫn
giải một số thơ văn của các tác giả miền
Nam trong giai đoạn 54-75, Nhà văn Trần Doãn Nho bác bỏ “
văn học đô thị” mà miền Bắc đã gọi tên VHMN, nhằm
để giảm thiểu rất nhiều tính đa dạng của NHMN. Theo
ông, VHMN là một kính vạn hoa, soi rọi từng
ngóc ngách của cuộc sống, nó không thể bị điều khiển
bỡi bất kỳ chính quyền nào, nó nhu một con chim,
một dòng sông nên tồn tại bỡ chính nội lực
của nó. Nó là một rừng hoa bạt ngàn với nhiều xu
hướng khác nhau. VHMN có tính kế thừa nền văn học tiền
chiến. Ngoài ra nó có đầy đủ tính hiện đại, tính
nhân bản, Tính hiện thực và bi kịch. Bi kịch nằm trong
cuộc sống cá nhân, trắc trở giàu nghèo, xa cha me, vợ
chồng. Và nhất là do đất nước chiến tranh.
Tính bi kịch này dần dà, trở thành “một câu
hỏi lớn về thân phận của con người trong chiến tranh
là sự thao thức trong từng tác phẩm.”
Về
phần tác giả, ông nói: Đối với họ, là nhà văn hay
nhà thơ chính là một lựa chọn tự do. Viết lên những
gì mình muốn viết mà không sợ một thế lực nào chính
là hành động biểu hiện sự tự do.
*
Chủ
tọa cho hội luận buổi chiều là nhà phê bình Đinh Từ
Bích Thúy và nhà văn Phùng Nguyễn, hai cây bút của trang
mạng Da Màu. Và, Diễn giả đầu
tiên là nhà thơ Du Tử Lê
với chủ đề: “Vài
khía cạnh đặc thù của 20 năm văn học miền Nam”
Nhà
thơ Du Tử Lê.
Tiểu
sử
Ông
sinh năm 1942 tại
huyện Kim
Bảng, tỉnh Hà
Nam, miền Bắc
Việt Nam.
Cựu
sĩ quan QL VNCH, cựu phóng
viên chiến trường, Năm 1973 được traoGiải
thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác
phẩm Thơ
tình Du Tử Lê 1967-1972.
- Năm 1998, nhà xuất bản W. W. Norton, New York đã chọn Du Tử Lê vào một trong năm tác giả Việt Nam để in vào phần "Thế kỉ 20: thi ca Việt Nam" khi tái bản tuyển tập World Poetry An Anthology of Verse From Antiquity to Our Present Time (Tuyển tập Thi ca thế giới từ xưa đến nay).
- Trong cuốn Understanding Vietnam, tác giả, giáo sư Neil L. Jamieson đã chọn dịch một bài thơ của Dư Tử Lê viết từ năm 1964. Cuốn sách này sau trở thành tài liệu giáo khoa, dùng để giảng dạy tại các đại học Berkeley, UCLA, và Cambridge, London.
- Ông cũng là nhà thơ có nhiều tác phẩm được phổ nhạc. Đã xuất bản 61 tác phẩm.
Theo
nhà thơ Du Tử Lê những cá nhân làm nên dòng VHMN chia
thành 3 thành phần chính:
- Thành
phần thứ nhất: Những nhà văn, nhà thơ gốc miền Bắc.
- Thành
phần thứ hai: Những nhà văn , nhà thơ gốc miền trung.
- Thành
phần thứ ba: Những nhà văn nhà thơ gốc Nam bộ.
Vì
đất nước chiến tranh, hầu như thanh niên đều phải đi
lính, ngoại trừ mộtsốhoản dịch vì lý do gia cảnh hay
nghề nghiệp. Nhà văn, nhà thơ cũng không ngoại lệ. Và,
tuy trong quân đội nhưng về phương diện sinh
hoạt văn chương , ông chia họ ra hai thành phần:
- Thành
phần thứ nhất là thành phần tiếp tục theo đuổi văn
chương mà họ đã chọn như: Tạ Tỵ, Thanh Tâm
Tuyền, Dương Nghiễm Mậu…
- Thành
phần thứ hai là những người cầm bút chọn viết về
đời quân ngũ như: Văn Quang, Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam…
Nhưng
dù là thành phần nào thì không một ai bị bắt buộc
viết theo nhu cầu từ thượng cấp. Ông đưa ra 9 đặc
thù của 20 năm VHMN:
1/ Tính
tự do
2/
Tính nhân bản: trong những tác phẩm văn chương không có
tính chất hận thù, sắt máu như văn chương miền Bắc.
Tính nhân bản này được Giáo sư Neil L. Jamieson (đại
học Geogre Mason, VA) ca ngợi qua cuốn Understanding VietNam.
Ngay cả tác giả thiên tả là Jean Claude Pomonti cũng đã
xiển dương khía cạnh này trong cuốn La Rage de’etre
Vietnamien.
3/
Những cái “Tôi” được phô bày trần trụi. Người
đọc thấy rất nhiều cái “Tôi” dị hợm, xấu xí,
hèn nhát được phê bày trực tiếp. thậm chí tình cảm
riêng tư của chính tác giả cũng đem ra phơi bày trong thi
ca.
4/
Sự tự phát nhà Xuất Bản do các nhà thơ , nhà văn chủ
trương.
5/.Song
song với dòng chảy văn chương miền Bắc và Trung thì
dòng văn chương vủa các cây viết niền Nam, viết bằng
ngôn ngữ đặc thù miền Nam như Bình Nguyên Lộc,
Sơn nam, Bà Tùng Long.
6/
Sự xuất hiện rực rỡ của những nhà văn nữ. Đặc
biệt hơn nữa là có một số đông đưa tình dục vào
tác phẩm.
7/
Sự thay đổi cách viết. ông đưa thí dụ về cách chấm
câu của một số các nhà văn đã thay đổi cách viết.
8/Tiếp
nhận và khai triển các trào lưu văn chương trên thế
giới: Thơ tự do, xu hướng Hiện sinh, văn chương mới…
9/
Đả kích tôn giáo: Một số nhà văn nhà thơ đã
vượt qua cái vòng “Taboo”(cấm kỵ) là vấn đề tôn
giáo. Nhà văn điển hình mạnh mẽ là Thế Nguyên.
Kết
thúc, nhà thơ Du Tử Lê “nhấn mạnh” rằng Có thể 20
năm VHMN còn nhiều đặc thù khác nhưng khả năng ông có
giới hạn, hy vọng có sự tiếp sức của người khác.
*
Phần
trình bày tiếp theo là của Nhà văn, nhạc
sĩ Hoàng Ngọc Tuấn với chủ đề:
” Ảnh
hưởng của Tây phương trong văn học miền Nam”.
Nhà
văn Hoàng Ngọc Tuấn
Tiểu
sử: Sinh năm 1956 tại Nha Trang. Nguyên chủ bút tạp
chí Tập Họp (1987-1989). Nguyên phụ tá chủ bút tạp chí
Việt (1998-2001); Hiện đồng chủ bút trang Tiền Vệ . Nhà
nghiên cứu, lý luận, phê bình và sáng tác trong lĩnh vực
âm nhạc và văn chương; đồng thời là nghệ sĩ trình
tấu guitar, diễn viên sân khấu, kịch tác gia, và dịch
giả. Hiện sống tại Úc. Từ năm 2004 cho đến nay, là
thành viên của Uỷ Ban Văn Chương và Lịch Sử, thuộc
Hội Đồng Cố Vấn Nghệ Thuật, Bộ Nghệ Thuật New
South Wales. Từ năm 2005, kiêm nhiệm trách vụ thành viên
của Uỷ Ban Sách Lược Phát Triển Nghệ Thuật Miền Tây
Sydney, cũng thuộc Hội Đồng Cố Vấn Nghệ Thuật, Bộ
Nghệ Thuật New South Wales.
Đã xuất bản: Văn Học Hiện Đại và Hậu Hiện Đại qua Thực Tiễn Sáng Tác và Góc Nhìn Lý Thuyết (California: Văn Nghệ, 2001); Time & Destiny [phê bình mỹ thuật] (Sydney: The University of Sydney, 2002); In-Between 1.5 Generation [dịch và biên tập cùng với Carmel Killin and Dunja Katalinic] (Sydney: Casula Powerhouse Arts Centre, 2000); The Bridge: Anthology of Vietnamese Australian Writing [biên tập và giới thiệu] (Sydney: Casula Powerhouse Arts Centre, 2004); From the Editors: Migrant Communities and Emerging Australian Literature [tiểu luận in chung với Jose Wendell P. Capili, Sumana Viravong, và Noonee Doronila; do Jose Wendell P. Capili biên tập] (Sydney: Casula Powerhouse Arts Centre, 2007).
Đã xuất bản: Văn Học Hiện Đại và Hậu Hiện Đại qua Thực Tiễn Sáng Tác và Góc Nhìn Lý Thuyết (California: Văn Nghệ, 2001); Time & Destiny [phê bình mỹ thuật] (Sydney: The University of Sydney, 2002); In-Between 1.5 Generation [dịch và biên tập cùng với Carmel Killin and Dunja Katalinic] (Sydney: Casula Powerhouse Arts Centre, 2000); The Bridge: Anthology of Vietnamese Australian Writing [biên tập và giới thiệu] (Sydney: Casula Powerhouse Arts Centre, 2004); From the Editors: Migrant Communities and Emerging Australian Literature [tiểu luận in chung với Jose Wendell P. Capili, Sumana Viravong, và Noonee Doronila; do Jose Wendell P. Capili biên tập] (Sydney: Casula Powerhouse Arts Centre, 2007).
Ông
Hoàng Ngọc Tuấn nhận định rằng sự ảnh hưởng Tây
phương có nhiều giá trị tích cực, thể hiện qua cả
lối viết và ý tưởng, trong tác phẩm thơ văn cũng như
trong phê bình văn học cho nền VHMN. Những ảnh hưởng ấy
“đến từ rất nhiều học thuyết và trường phái khác
nhau của văn học và triết học Âu-Mỹ.”
Nhưng
vẫn có một số phản đối củanhững người bảo thủ
hoặc mang thành kiến văn hóa. Ông khẳng định rằng, một
con người, một đất nước tự tin, vững mạnh thì không
lo sợ gì sự ảnh hưởng từ mọi nơi trên thế giới.
Các nhà cầm bút có sự tự tin và tài năng thì họ có
thể tiếp nhậnmọi ảnh hưởng và biến chúng thành
những nét mới trong tác phẩm của mình. Như trường hợp
danh họa Picasso đã tự nhận mình ảnh hưởng tranh vẽ
của Phi châu, và, chính ông đã hòa hợp, biến đổi nó
để trở thành một lối vẽ đã ảnh hưởng cả nền
hội họa trên thế giới.
Nhà
văn Hoàng Ngọc Tuấn đã đi đến kết luận là, chính sự
thân hóa này đã mang đến rất nhiều tác phẩm có giá
trị, giúp cho nền VHMN tự do, đi trước văn học miền
Bắc XHCN nhiều thập kỷ.
*
Phần
hội thảo tiếp tục với nhà văn
Phạm Phú Minh nói về đề tài tuy không thuộc
về văn chương nhưng lại có mật thiết đến văn học :
“ Tình
hình xuất bản và phát hành tại miền Nam 1954-1975”
Nhà
văn Phạm Phú Minh.
Tiểu
sử: Phạm Phú Minh, sinh năm 1940, bút hiệu Phạm Xuân
Đài, người làng Đông Bàn, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam.
Học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và Sư Phạm ban Triết học tại Viện Đại Học Đà Lạt. Tốt nghiệp Sư Phạm năm 1964.
Dạy học và hoạt động thanh niên. Từ năm 1966 làm việc trong Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường (CPS) của bộ Giáo Dục. Biệt phái sang Phủ Tổng Ủy Dân Vận năm 1973. Từ 1975 đi tù cải tạo, ở các trại Long Thành, Thanh Cẩm (Thanh Hóa) và Xuân Lộc. Ra khỏi tù năm 1988.
Đi tị nạn tại Mỹ cuối năm 1992. Từ 1993 đến 2007 làm việc với tạp chí Thế Kỷ 21 trong các nhiệm vụ Thư ký Tòa soạn, Chủ nhiệm và Chủ bút.
Hiện là Chủ bút tạp chí online Diễn Đàn Thế Kỷ (diendantheky.net).
Đã xuất bản: Hà Nội Trong Mắt Tôi (tùy bút, 1994).
Học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và Sư Phạm ban Triết học tại Viện Đại Học Đà Lạt. Tốt nghiệp Sư Phạm năm 1964.
Dạy học và hoạt động thanh niên. Từ năm 1966 làm việc trong Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường (CPS) của bộ Giáo Dục. Biệt phái sang Phủ Tổng Ủy Dân Vận năm 1973. Từ 1975 đi tù cải tạo, ở các trại Long Thành, Thanh Cẩm (Thanh Hóa) và Xuân Lộc. Ra khỏi tù năm 1988.
Đi tị nạn tại Mỹ cuối năm 1992. Từ 1993 đến 2007 làm việc với tạp chí Thế Kỷ 21 trong các nhiệm vụ Thư ký Tòa soạn, Chủ nhiệm và Chủ bút.
Hiện là Chủ bút tạp chí online Diễn Đàn Thế Kỷ (diendantheky.net).
Đã xuất bản: Hà Nội Trong Mắt Tôi (tùy bút, 1994).
Theo
nhà văn, nhà giáo Phạm Phú Minh: 20 năm VHMN đã
tạo được một truyền thống cho việc in ấn, xuất bản,
công việc này trước 1975 hoàn toàn là hoạt động của
tư nhân. Thời gian 1954-1975 muốn xuất bản sách báo
thì phải qua kiểm duyệt. Ông đã dùng slide để
chiếu cho cử tọa xem bản thảo của nhà thơ Tạ Ký nạp
kiểm duyệt năm 1961. Từng trang sách được thông qua hay
bị đục bỏ có đóng dấu và ký tên của người hữu
trách. Sau khi kiểm duyệt xong thì công việc xuất bản
hoàn toàn theo các quy luật thị trường, có nghĩa là sách
hay thì bán chạy hoặc ngược lại.
Trong 20 năm ,
miền năm đã có được 2500 nhà bán sách và 3000 tiệm
cho thuê sách. Ông không đồng ý với ý kiến của một
số người cho rằng sự xuất hiện của các tiệm cho
thuê sách là giết đi việc xuất bản sách mà cho rằng:
“ với 3000 tiệm cho thuê như vậy thì mỗi cuốn sách in
ra sẽ bán ít nhất là 3000 cuốn, một con số không nhỏ
!
Một
hình thức xuất bản khác mang tính điển hình cho giai
đoạn này mà ông cho là sẽ rất thiếu sót nếu không
nhắc đến, đó là các tiểu thuyết “feuilleton” trên
báo hàng ngày. Đây là dạng những tiểu thuyết dài, đăng
nhiều kỳ trên báo. Truyền thống này, theo nhà văn Phạm
Phú Minh, đã được giữ mãi trong báo chí miền Nam, ngày
càng phong phú và đa dạng cho đến 30 tháng Tư, 1975.
Để
kết thúc, ông khẳng định: “Sách viết ra mà không có
nhà xuất bản coi sóc, in ấn, không có nhà phát hành phân
phối để tới tay người dân mua về đọc và thưởng
thức, thì coi như cuốn sách đó chưa hiện hữu trong đời
sống của một quốc gia, của một cộng đồng,”.
*
Nhà
văn nữ xuất hiện đầu tiên trong buổi hội thảo là
Trịnh Thanh Thủy với đề
tài: “Ý thức nữ quyền trong tác phẩm của các nhà
văn nữ từ 1954 đến 1975”
Nhà
văn Trịnh Thanh Thủy.
Tiểu
sử: Sinh quán Gia Định. Định cư tại Nam California,
Hoa Kỳ. Cộng tác với Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Người Việt
hải ngoại, Việt Báo, Trẻ, Khoa Học dot net, Hoa Đàm,
Việt tide, Viễn Đông, Chim Việt Cành Nam, Tiền vệ, Da
Màu
Tác phẩm: Giữa L và C, Tập thơ in chung với Đinh Trường Chinh và Nguyễn Tư Phương
Tác phẩm: Giữa L và C, Tập thơ in chung với Đinh Trường Chinh và Nguyễn Tư Phương
Mở
đầu nhà văn Trịnh Thanh Thủy cho biết : “ Giải Nobel
Hoà Bình năm nay được trao cho hai người, một Ấn Độ
và một Pakistan. Họ đều là các nhà hoạt động vì
quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Người
thứ nhất, Ông Kailash Satyarthi là một kỹ sư điện Ấn
Độ, 60 tuổi, từng đấu tranh hỗ trợ cho các trẻ em và
phụ nữ, những người làm việc tại các nhà máy Ấn Độ
như những kẻ nô lê. Họ bị bóc lột sức lao động và
là nạn nhân của bạo lực cũng như tấn công tình dục.
Người
thứ hai, Malala Yousafzai là một cô gái người Pakistan, 17
tuổi, người trẻ nhất của lịch sử giải Nobel trong
hơn một trăm năm vừa qua. Năm 16 tuổi, cô bị một nhóm
người Taliban nả súng vào đầu cũng chỉ vì cô đấu
tranh cho 31 triệu bé gái trên thế giới được đi học.
Họ tưởng đã làm cô bặt tiếng nhưng họ đã lầm. Cô
vẫn sống như một phép lạ. Và từ sự im lặng đó hàng
nghìn tiếng nói khác đã cất lên, những sức sống mãnh
liệt đầy dũng cảm được ra đời.”
Từ
vấn đề này, Nhà văn Trịnh Thanh Thủy đưa một cái
nhìn trở lại thời kỳ 54-75, ý thức nữ quyền ảnh
hưởng thế nào trong tác phẩm của các nhà văn nữ . Bà
cho là: “ Những người nữ đã bắt đầu biết sử dụng
ngòi viết của mình để bày tỏ lập trường cá nhân.
Họ viết và tư duy như một phụ nữ. Ý thức nữ quyền
khiến họ nói lên được những quan điểm riêng, và xác
định được vị thế cũng như cung cách sống của mình
trong xã hội.”, Và “…Họ,tìm kiếm tự do, cố gắng
thoát khỏi sự bao vây nhận chìm của cấu trúc quyền
lực truyền thống có tính cách bộ tộc, và cả văn hoá
Khổng-Nho.
Họ,
không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện
sinh. Đó là một quan niệm nghệ thuật về con người là
sinh vật cô đơn trong một thế giới phi lý..”. Bà
diễn giả I, phân tích những tác phẩm của các nhà
văn nữ như : Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương , Nhã Ca,
Nguyễn Thị Thụy Vũ… để minh chứng cho lý luận của
mình.
Cuối
cùng bà đưa ra nhận xét :” Sự có mặt của các nhà
văn nữ miền Nam VN từ thập niên 54 tới 75 tựa như sự
hiện diện của những bông hoa rực rỡ, toả ra một mùi
xạ hương rất âm tính, trong khu vườn văn học. Ý thức
nữ quyền khi tiềm tàng, lúc sáng chói đã khiến người
phụ nữ phải cầm viết. Chính vì văn chương cũng là
một vũ khí quan trọng trong công cuộc giải phóng chính
mình và giải phóng cho nữ giới nói chung.”
Phần
ý kiến của cử tọa cho bài nói chuyện của nhà văn
Trịnh Thanh Thủy có lẽ là sôi nổi nhất trong buổi hội
thảo hôm nay.
*
Cuối chương trình
ngày đầu của cuộc hội thảo là bài nói chuyện của
nhà thơ Nguyễn Đức Tùng
với chủ đề : “Thơ nhân chứng: Ngọn lửa cuối
cùng của tự do”
Tiểu
sử: Nguyễn Đức Tùng là một Bác sĩ – Nhà văn hiện
sống ở Canada. Anh chữa bệnh, làm thơ và viết nghiên
cứu phê bình văn học.
Đã
xuất bản : Thơ đến từ đâu. Sách phỏng vấn 25 nhà
thơ.
Nhà
Thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng
Nhà
thơ Nguyễn Đúc Tùng đã mở đầu cho bài nói chuyện của
mình như sau: “Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt thơ có
thể làm được gì?”
“Đói
khát, chiến tranh, tù đày, vượt biên, tra tấn. cực điểm
của lịch sử, tận cùng của số phận và nhân phẩm.
Suốt 20 năm, 1954-1975, thơ miền Nam hào hứng mở đường
, mê mải làm mới ngôn ngữ, trong khi tạo ra những giá
trị không ai có thể nghi ngờ trong gia tài nghệ thuật
chung của đất nước, tạo nên một trong những nền thơ
lớn nhất của dân tộc nửa sau của thế kỷ XX, thì nó
cố tình bỏ quên một điều.
Giữa
một không khí tự do, bỡ ngỡ, đầy cảm hứng, nhưng tự
phát, nền văn học 20 năm ấy, trong khi không ngớt lo âu
vì thời cuộc, chiến tranh, thân phận, đã phát triển
dựa trên một giả định có tính bắt buộc, rằng những
điều kiện tự do sáng tạo của nó lâu dài, vĩnh viễn.
Chính là dựa trên giả định ấy mà giá trị căn bản
của VHMN đã được thiết lập.”
Trong
bài nói chuyện của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, ông chú
trọng đến khái niệm về thơ :”Giữa thơ trữ tình và
chính trị có sự xung khắc lâu dài”; “ Tiếng nói nhà
thơ là đơn độc, vì điều kiện sống tản mát, vì họ
không có thói quen tập họp lại. Sức mạnh và điểm yếu
văn chương của văn chương nằm ở đây”. Đi xa hơn nữa
, ông cho rằng : “ Thơ nhân chứng không phải là một
bút pháp, mà là một khuynh hướng. Bút pháp của thơ giai
đoạn này hầu hết là trữ tình. Vì vậy có thể nói
đây là thơ trữ tình nhân chứng.”
Và
để kết luận, ông viết: “ Thơ nhân chứng chống lại
sự hành hạ con người, chống lại khổ đau tăm tối,
gợi lên lòng can đảm. Truyền đi cho các thế hệ sau ánh
sáng của những ngọn lửa cuối cùng của nó, và vì thế,
tất nhiên, không phải là cuối cùng; chúng trở lại. Có
ai trong chúng ta cũng muốn ngồi xuống quanh ngọn lửa ấy
không?
Hết
hội thảo ngày thứ nhất (6/12/14).
Còn
tiếp ngày hội thảo thứ nhì (7/12/14)
Đặng
Phú Phong.
----------------
.
Cũng
đọc tại địa chỉ dưới đây :
Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975
09/12/2014
No comments:
Post a Comment