Saturday, December 31, 2011

THƯ GỬI NGƯỜI LÍNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM [THƯ SỐ 2] (Phạm Bá Hoa)



Phạm Bá Hoa
31-12-2011
http://www.lyhuong.net/uc/index.php/vnch/1739-1739

1. XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ

Xin lặp lại đoạn này trong thư gởi Các Anh hồi tháng 11/2011 để Các Anh nào chưa đọc thư đó cũng nhận ra vị trí người viết với vị trí người nhận, từ đó tiếp nhận nội dung dễ dàng hơn.

“Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Ngày cuối tháng 4/1975, bối cảnh chính trị đưa chúng tôi vào tình thế thua trận, chúng tôi bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam đày đọa trong hằng trăm trại tập trung trong số hơn 200 trại mà cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm ròng rả, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Giờ đây, Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi là Người Lính thua trận, nhưng tôi rất hãnh diện vì được phục vụ tổ quốc và dân tộc với tư cách một công dân trong thời chiến tranh bảo vệ dân chủ tự do, dù chưa tròn nhiệm vụ. Giờ đây tôi đang sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa”.

“Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hôm nay. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong Quân Đội Nhân Dân, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó”.

Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân” ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày.

Tôi trích một đoạn trong bài viết “Quá Khứ & Hận Thù” để Các Anh nhận ra quan điểm của tôi khi viết thư này gởi Các Bạn: “Trong paltalk tối 30/04/2010 trên Diễn Đàn Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại với trong nước, tôi đóng góp đề tài “Việt Nam, sau 35 năm xã hội chủ nghĩa”. Ngay sau 45 phút trình bày, một người xưng là “Em gái Mỹ Tho” nêu câu hỏi: “Với một quá khứ như vậy, ông có hận thù cộng sản không?” Tôi đáp: “Tôi không hận thù cộng sản, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ của cộng sản, vì lòng hận thù thường xuyên trói buộc sự suy nghĩ của mình, làm cho mình chỉ quanh quẩn với những ý nghĩ tìm cách trả thù. Và khi không thoát ra được sự trói buộc đó nên không thể có được suy nghĩ gì để đóng góp cho cuộc đấu tranh thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, tự do, cho đồng bào trên quê hương. Do cai trị bằng chính sách độc tài nên lãnh đạo CSVN luôn sợ hãi mọi người đứng lên lật đổ, nên họ sử dụng “Công An Nhân Dân” tạo cho người dân thường xuyên sống trong sợ hãi để bản thân lãnh đạo của Các Anh bớt sợ hãi. Với những ai vượt lên sự sợ hãi để giành lại quyền làm người cho đồng bào, tức khắc sẽ bị hằng trăm cánh tay cầm gậy gộc, cầm roi điện, cầm súng đàn áp nhân dân, bắt nhân dân bỏ tù, và trong nhiều trường hợp đã giết chết nhân dân mà không hề vi phạm cái gọi là pháp chế xã hội chủ nghĩa, cho dù Công An cũng như Quân Đội Các Anh đều có hai chữ Nhân Dân kèm theo tên gọi, có nghĩa là Quân Đội và Công An là của Nhân Dân, phải bảo vệ Nhân Dân.

2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI

Trong thư gởi Các Anh hồi tháng 11 năm 2011, tôi mời Các Anh nhìn lại lịch sử Việt Nam 1.000 năm bị Trung Hoa phong kiến cai trị, và lịch sử đương đại qua các góc nhìn: Biên giới, Vịnh Hạ Long, trên Biển Đông, và trong nội địa Việt Nam, dưới quyền lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Trong thư này, mời Các Anh nhìn lại những sự kiện xoay quanh nhóm chữ “quá khứ - hận thù - hòa giải - hòa hợp” mà lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh thường sử dụng để kêu gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại hãy quên quá khứ để về giúp đất nước, đồng nghĩa với giúp lãnh đạo đảng với nhà nước tăng thêm khối tài sản riêng tư.

Chắc Các Anh còn nhớ ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) sang đất nước mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “đế quốc Mỹ đang giẫy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản” hồi tháng 6/2008 chớ. Tôi gọi “Thủ Tướng đảng cộng sản” vì Bộ Chính Trị cử ông Dũng chớ có phải vị lãnh đạo do dân bầu ông ấy vào chức Thủ Tướng đâu mà gọi là Thủ Tướng Việt Nam. Đây là tôi nói theo cách nói của tiến sĩ Lê Đăng Doanh của Các Anh chớ không phải tự tôi vẽ ra đâu. Nhưng cũng có thể Các Anh phản bác lại rằng: “Anh nói bậy, Thủ Tướng Việt Nam là do Quốc Hội bầu ra”. Đúng là Quốc Hội bầu ông ta, nhưng toàn thể đại biểu trong Quốc Hội là do đảng cộng sản chọn trước rồi mới đưa danh sách cho dân bầu. Chẳng lẽ Các Anh lại quên bài học “Nhân Dân làm chủ, Nhà Nước quản lý, Đảng lãnh đạo” rồi sao. Vì đảng lãnh đạo toàn diện, cho nên toàn bộ hệ thống tổ chức nhà nước gồm cả các ngành các cấp và suốt chiều dọc hệ thống giáo dục đều có tổ chức đảng bên cạnh, và quyết định của tổ chức đảng là quyết định chánh thức của các cơ quan mà. Vậy là từ Quốc Hội, Nhà Nước, Tư Pháp, đều trực tiếp dưới quyền lãnh đạo của đảng, người dân phải bực mình (dường như Các Anh gọi là bức xúc thì phải) mà đi bầu, vì mất thì giờ vô ích.

Thêm nữa, tôi tin rằng, vào khoảng khắc nào đó khi mà Các Anh được sống với con người thật của mình, không biết Các Anh có tự hỏi: “Tại sao lãnh đạo đảng với nhà nước anh hùng Các Anh, hết người này đến người khác, cứ đến cái đất nước đang giẫy chết này hoài vậy?” Tôi tạm trả lời Các Anh nghe: “Tại vì, tên đế quốc này nó giẫy hoài chẵng những nó không chết mà nó vẫn cứ mạnh lên về mọi lãnh vực, cho nên lãnh đạo Các Anh phải quy lụy để cứu đảng CSVN mà trong đó có Quân Đội Nhân Dân Các Anh đang bên bờ vực thẳm. Nếu không như vậy thì cái đảng cộng sản và quân đội Các Anh bị phá sản từ đầu những năm 90 giống như Liên Sô, thành trì vững chắc của cộng sản mà lãnh đạo Các Anh tôn sùng đã tan rã vậy”. Tôi nói thêm cho rõ, câu “đế quốc Mỹ đang giẫy chết .... không phải do tôi đặt ra đâu, mà là bài học số 1 trong trại tập trung Long Giao hồi tháng 8/1976 do Thượng Tá Công An tên Bình từ Bộ Công An ở Hà Nội vào bắt chúng tôi phải học đó.

Không biết lãnh đạo đảng với nhà nước của Các Anh có cảm nhận nỗi nhục khi nhìn thấy Tượng Đài Nạn Nhân Cộng Sản Thế Giới tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn không nhỉ? Tượng đài này khánh thành ngày 12/6/2007 do Tổng Thống “đất nước đang giẫy chết” chủ tọa đó. Tượng đài này là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản -gồm cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng tôi đã bị quân đội Các Anh giết chết- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ cộng sản đến tận cùng gốc rễ, vì chế độ cộng sản là phi nhân tàn bạo. Hai nhóm chữ tô đậm này là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Hoa Kỳ, dĩ nhiên là lời lên án này có đảng CSVN của Các Anh nữa đó.

Trở lại Thủ Tướng CSVN đến Houston ngày 26/6/2008. Từ sáng sớm, chúng tôi đông đảo đến mức như một rừng người với một rừng cờ vàng ba sọc đỏ cùng với cờ Hoa Kỳ dọc theo đại lộ Westheimer trước cửa khách sạn “The Westin Oaks”, nơi ông ta hội họp để xin Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam. Những máy thu hình của các đài phát hình Việt Nam lẫn đài phát hình Hoa Kỳ cùng máy thu thanh của phóng viên các đài Hoa Kỳ phát thanh chương trình Việt ngữ, thu thanh tiếng Anh lẫn tiếng Việt rõ ràng từng câu: “Tự Do Cho Việt Nam - Nhân Quyền Cho Việt Nam - Cộng Đồng Tỵ Nạn Cộng Sản Không Cần Tòa Lãnh Sự Cộng Sản”, … . Không một câu nào đòi bất cứ điều gi cho Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại cả.

Trong buổi họp tối tại khách sạn Hilton, ngoài phái đoàn của Thủ Tướng CSVN cả trăm người, số người mà ông Thủ Tướng gọi là kiều bào doanh gia khoảng “30 khúc ruột ly hương ngàn dặm bị ung thư” lẻn vào tham dự. Với chiếc bàn hình vuông, ông Thủ Tướng và ông Phạm Gia Khiêm ngồi giữa, Thủ Tướng CSVN cất lời kêu gọi: “Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường mọi nẻo, chúng ta hãy gác lại quá khứ để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước. Làm được cái gì thì làm dù là việc nhỏ, ngay cả một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp. Đừng mặc cảm quá khứ nhất là khi đất nước còn nhiều khó khăn. Khi ngồi nói chuyện với Tổng Thống Bush, tôi nghe kiều bào hô đả đảo Thủ Tướng mà thấy buồn. Chưa hẳn họ thù ghét cá nhân Thủ Tướng mà chỉ là mặc cảm với quá khứ …”

Thật ra thì nhóm chữ “hãy quên quá khứ, đừng mặc cảm với quá khứ mà về xây dựng đất nước …” không phải là sản phẩm của ông Dũng đâu, mà là Thủ Tướng CSVN nói theo lời ông Nguyễn Minh Triết đã nói trong bữa tiệc tại khách sạn Saint Regis Resort vùng Nam California ngày 23/6/2007. Nhưng câu đó cũng không phải sản phẩm của ông Chủ Tịch nước, mà ông Triết nói theo ông cựu Thủ Tướng CSVN Võ Văn Kiệt sau khi hết quyền lực, vậy mà ông Kiệt cũng bị chết bất đắc kỳ tử rồi.

Nhớ lại từ giữa những năm 70 đến giữa những năm 80, lãnh đạo Các Anh gọi chúng tôi là “cái bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn đỉ điếm, bọn lưu manh cặn bả của xã hội, .....”. Giá mà bác Hồ của Các Anh còn sống đến bây giờ, không biết ông ấy nghĩ gì khi nhìn thấy cái bọn lưu manh cướp giật đỉ điếm Hồ Chí Minh nườm nượp khắp phố phường so với Sài Gòn chúng tôi thời chiến tranh, chắc bác Các Anh rất đổi vui mừng vì chính sách trăm năm trồng người của ông ấy đã thành công tuyệt dịu! Thế nhưng từ giữa những năm 80 khi lãnh đạo Các Anh nhận thấy Cộng Đồng tị nạn giàu lên và gởi tiền về Việt Nam cùng với tuổi trẻ thành đạt trong nền học vấn văn minh tân tiến ngày càng nhiều thêm, lãnh đạo Các Anh hạ giọng gọi Cộng Đồng chúng tôi là “Việt kiều yêu nước”. Từ giữa những năm 90 về sau, lại hạ giọng lần nữa để gọi Cộng Đồng chúng tôi là “khúc ruột ly hương ngàn dặm”, .... Nhưng Các Anh có biết tại sao lãnh đạo của Các Anh lại hạ giọng như vậy không?” Mời Các Anh đọc một đoạn trong bài viết của ông Nguyễn Phú Bình, Thứ Trưởng Ngoại Giao đảng CSVN, “Chủ Nhiệm Ủy Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” viết ngày 11/8/2005, đăng trên trang báo điện tử với tựa bài Cộng Đồng Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, Khơi Dậy Nguồn Lực Chất Xám Của Việt Kiều. … “Trong số gần 3.000.000 người Việt Nam sinh sống định cư ở nước ngoài, ước tính có khoảng 300.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật cao, có kiến thức cập nhật về văn hoá, về khoa học, công nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó có nhiều người đạt vị trí quan trọng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh của các nước, và các tổ chức quốc tế. Tiềm lực khoa học và công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng phát triển. Trong đó, một thế hệ trí thức mới người nước ngoài gốc Việt đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu, và Châu Đại Dương. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lãnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điều khiễn học, sinh học, quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán, ..v..v.. “

Chưa hết, về số tiền mà Cộng Đồng chúng tôi gởi chánh thức về trong nước trong năm 1991 là 35 triệu mỹ kim, gia tăng dần, trong năm 1999 là 1 tỷ 100 triệu mỹ kim, trong năm 2005 là 3 tỷ 800 triệu mỹ kim. Cộng chung các năm từ 1991 đến năm 2005 là 33 tỷ 803 triệu mỹ kim (Nếu tính đến năm 2010, con số đó lên đến 53 tỷ 0 trăm 34 triệu mỹ kim).

Chắc Các Anh dễ dàng nhận thấy sức mạnh về trí thức và tài chánh của Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại rồi chớ? Do vậy mà lãnh đạo Các Anh luôn miệng kêu gào Cộng Đồng chúng tôi “hãy quên quá khứ để mang tiền mang vàng, tài năng, và hãy hòa giải hòa hợp để xây dựng đất nước”. Có thiệt không đây? Vì Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng có nhiều dự án thì lãnh đạo các cấp của các Anh -chớ không phải Các Anh- càng có thêm nhiều mỹ kim, và sau khi rửa sạch đem gởi ngân hàng ở ngoại quốc để khi tháo chạy có mà thụ hưởng. Chúng tôi đâu có điên mà giúp lãnh đạo Các Anh nuôi dưỡng cái chế độ cộng sản độc tài tham nhũng để gây thêm đau khổ cho đồng bào trên quê hương Việt Nam.

Vậy mà đến nay đã 36 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Các Anh xâm lăng đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, lãnh đạo Các Anh cứ theo dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản quên quá khứ kinh hoàng của mình để về làm việc cho họ? Tôi nói “làm việc cho họ”, vì cái đảng CSVN có phục vụ đất nước dân tộc đâu mà gọi là phục vụ quê hương đồng bào. Bằng chứng: (1) Nếu phục vụ đất nước thì lãnh đạo Các Anh: Đâu có bán cho Trung Cộng 789 cây số vuông trên bộ và 11.362 cây số vuông trên biển: Đâu có đồng tình để Trung Cộng sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa của Tàu. Đâu có bán đất cho ngoại quốc dưới danh nghĩa kinh doanh! (2) Nếu phục vụ dân tộc thì lãnh đạo Các Anh: Đâu nỡ bán hằng chục ngàn thanh thiếu nữ ra các nước lân bang làm điếm. Đâu có đẩy hằng mấy trăm ngàn thanh thiếu nữ Việt Nam ra ngoại quốc làm vợ thiên hạ ngang qua các dịch vụ quốc doanh trá hình. Đâu có bắt vào nhà tù hằng trăm công dân dũng cảm đứng lên giành lại quyền làm người mà Hiến Pháp CSVN qui định. (3) Nếu phục vụ dân tộc thì lãnh đạo Các Anh: Đâu nở đàn áp bắt giữ thanh niên sinh viên học sinh biểu tình chống đối Trung Cộng lấn chiếm đất đai biển cả, bắn giết ngư dân. Đâu có hành hạ dối gạt hằng chục ngàn thậm chí là hằng trăm ngàn đồng bào kêu oan khiếu nại thưa kiện vì đất đai tài sản bị các loại cường hào ác bá CSVN tại các địa phương trấn lột cướp đoạt dưới những tên gọi khác nhau. (4) Và nếu phục vụ người dân tại sao tổng sản phẩm quốc gia (GDP) Việt Nam có gia tăng mà người dân ngày càng nghèo khổ như chưa thời nào nghèo khổ đến như vậy! Trong khi đại đa số người dân càng nghèo thì tất cả đảng viên hàng lãnh đạo các cấp từ trung ương xuống đến hạ tầng cơ sở ngày càng giàu thêm, giàu đến mức phung phí trong các cuộc cá độ đá banh lên đến hằng triệu mỹ kim, giàu đến mức mua xe với giá bạc triệu đô la, còn mua cả phi cơ riêng nữa chớ. Một phần của nguồn gốc khối tư bản đỏ đều gắn liền giữa kinh tế quốc doanh với các cấp lãnh đạo của Các Anh qua những chằng chịt khác nhau.

Nói đến quá khứ, bản thân tôi rất muốn quá khứ trôi vào quên lãng giúp não bộ thêm phần thư giản, nhưng không thể nào quên được! Vì cái quá khứ mà lãnh đạo Các Anh gây ra trên dãi đất quê hương, trên thể xác lẫn tâm hồn của mọi người dân Việt, nó cay đắng quá, nó tàn bạo quá Các Anh à! Đây là sự thật mà lãnh đạo CSVN không thể nào phủ nhận được. Tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện hướng đến một tương lai. Nghĩa là lãnh đạo Các Anh phải làm ngược lại những gì mà họ đã làm sai từ những ngày đầu năm 1975 và sau đó, chúng tôi mới có thể quên được quá khứ.

Việc sai thì không sao kể hết, nhưng tôi tóm vào 7 vấn đề sau đây, mời Các Anh đọc:

Một. Vào ngày 30/4/1975 và những ngày trước đó, hằng chục ngàn thương phế binh chúng tôi đang trong các Tổng Y Viện và Quân Y Viện, Các Anh đã vô cùng tàn nhẫn khi quẳng Họ ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi lãnh đạo Các Anh bảo “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh có trách nhiệm bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải & hoà hợp.

Hai. Lãnh đạo Các Anh đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi dưới những nhóm chữ khác nhau để che đậy cái bản chất gian trá lọc lừa của đảng CSVN. Tài sản của chúng tôi bị lãnh đạo Các Anh chiếm đoạt, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ để hòa giải hòa hợp”, làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải & hòa hợp.

Ba. Lãnh đạo Các Anh không thông qua một cơ quan luật pháp nào khi bắt giam ít nhất là 222.809 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, đưa vào hơn 200 trại tập trung trong mục đích vừa tẩy não vừa cho chết dần chết mòn trong các xó rừng mà các ông gọi là “cải tạo”, và hành hạ tinh thần lẫn thể xác cho đến 17 năm mới thả hằng trăm người cuối cùng, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi, trong ngần ấy thời gian bị giam giữ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

Bốn. Chắc lãnh đạo Các Anh không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4/1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi không thể sống nỗi dưới sự kềm kẹp chính trị độc tài, nên phải liều chết tìm đường đến bến bờ tự do với cái giá phải trả thật khủng khiếp! Lúc ấy, lãnh đạo Các Anh sử dụng tất cả những lời lẻ xấu xa nhất để sỉ nhục chúng tôi, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ Bộ Chính Trị của Các Anh phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tỵ Nạn cộng sản tại hải ngoại, để rút lại những lời sỉ nhục đó. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

Năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất nơi đây, nhưng với bản chất vô nhân của đảng cộng sản đã “thêm một lần tàn sát thi thể Họ” qua hành động đào xới mồ mả, vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng do bản chất gian trá vi phạm những điều mà lãnh đạo Các Anh đã ký kết, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh như trước khi quân đội Các Anh tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

Sáu. Lãnh đạo các Anh sau khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, đã áp dụng chính sách cai trị độc tài, bịt mắt bịt tai bịt miệng nói chung là tước đoạt tất cả quyền căn bản của mỗi con người mà thế giới thừa nhận, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải trả lại những quyền căn bản của con người, những quyền được sống tự do, và những quyền tư hữu cho 89 triệu công dân trên quê hương Việt Nam. Trước mắt, trả tự do cho tất cả những công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã dũng cảm đứng lên đòi lãnh đạo của họ phải bảo vệ đất đai biển cả trước kẻ thù từ trong lịch sử, và thực hiện đúng đắn những Công Ước Quốc Tế đã ký kết về quyền con người.

Và bảy. Về vấn đề hòa giải hòa hợp. Tôi nghĩ, nhóm chữ “hòa giải và hòa hợp” phải đặt đúng vị trí của nó, vì có “hòa giải” được với nhau mới có thể “hòa hợp” được với nhau, vì từ hòa giải đến hòa hợp còn một khoảng cách nữa. Nhưng với lãnh đạo Các Anh, dù là lời nói hay lời viết, họ chỉ dùng chữ “hòa hợp“ hoặc “hòa hợp hòa giải”, mà thực chất chỉ là kêu gọi dụ dỗ Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản hòa hợp dưới quyền cai trị của họ, chớ không có hòa giải hiểu theo nghĩa hai bên cùng thỏa thuận.

Nhưng tại sao lãnh đạo của Các Anh không hòa giải với người dân trong nước trước, vì đây là vấn đề hoàn toàn trong tầm tay của họ mà, vì:

(1)Theo tài liệu của Bộ Tài Nguyên & Môi Trường của nước CHXHCNVN phổ biến ngày 08/07/2010, chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2010, có khoảng 100 đoàn dân oan từ các thành phố: Rạch Giá, Cần Thơ, Long An, Sài Gòn, Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Nội ... đến cơ quan trung ương đưa đơn khiếu nại oan ức vì đất đai nhà cửa bị các địa phương cướp đoạt”.

Theo bản tin AFP ngày 25/11/2011, một báo cáo về tình trạng tham nhũng trong lĩnh vực đất đai tại Việt Nam đã được công bố. Nghiên cứu này, được tiến hành theo yêu cầu của Ngân Hàng Thế Giới, sứ quán Thụy Điển và Đan Mạnh tại Việt Nam. Tài liệu nhận định tệ nạn tham nhũng đã trở nên phổ biến. Theo đại sứ Thụy Điển Staffan Herrstrom: “Có tới 86% số hộ gia đình được hỏi cho biết là họ có cảm giác nạn tham nhũng tồn tại trong lĩnh vực đất đai, 33% số doanh nghiệp nói rằng họ đã phải hối lộ để có được quyền sử dụng đất. Theo luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu của nhà nước nhưng người dân hoặc doanh nghiệp có thể mua, trao đổi hoặc bán giấy chứng nhận sử dụng đất. Bản nghiên cứu nhấn mạnh, việc cấp giấy sử dụng đất là một trong những nguồn gốc của tệ nạn tham nhũng”. Đại sứ Thụy Điển nói: “Thủ tục cấp giấy phép sử dụng đất rất nặng nề, cực kỳ quan liêu, tạo ra một môi trường tham nhũng sinh sôi nẩy nở”. Trong khi đó, đại diện sứ quán Đan Mạch nhấn mạnh: “Do tham nhũng, người nghèo càng nghèo hơn và người giàu càng giàu hơn. Nguyên nhân là do việc chuyển giao đất đai của một bộ phận dân chúng ở nông thôn cho các nhà đầu tư và những người gi àu có ở thành thị, với mức giá thấp hơn thị trường. Bản báo cáo nhận định, tình trạng này dẫn đến việc người dân mất tin tưởng vào chính quyền, bởi vì có hiện tượng xung đột lợi ích, nói một cách khác là các quan chức hưởng lợi, nhận hối lộ khi ra các quyết định trưng dụng, thu mua đất đai của dân nghèo, để giao cho các đối tác khác và tham nhũng đã tạo ra một sự bất ổn định xã hội thực sự. Tại Việt Nam, cho đến nay, vẫn có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Việc trưng dụng đất đai, đền bù thấp đã gây ra nhiều bất bình trong tầng lớp dân nghèo ở nông thôn. Nhiều vụ xung đột, tranh chấp đất đai, thậm chí dẫn đến chết người, đã xẩy ra trong những năm gần đây”.

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải bằng cách:“(a) Hủy bỏ Luật Đất Đai và tất cả các luật liên quan, vì đây là nguồn gốc của những mánh khóe cướp đoạt từ các cấp lãnh đạo, là một trong những nguyên nhân tham nhũng kinh hoàng trong hệ thống đảng với nhà nước. (b) Trả lại quyền tư hữu cho tất cả những ai từng là chủ hoặc người thừa kế của ruộng đất. (c) Hoàn trả toàn bộ nhà cửa cũng như cơ sở kinh doanh thương mãi cho đồng bào mà CSVN ngang nhiên tịch thu sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, và bồi thường sở hữu chủ về thiệt hại vật chất đã sử dụng suốt thời gian tịch thu trái phép. (d) Bộ Chính Trị chánh thức xin lỗi đồng bào vì chính sách sai lầm này”.

(2) Với những cuộc mít tinh biểu tình của tuổi trẻ Việt Nam, thể hiện tinh thần trách nhiệm của người dân thức tỉnh trong một xã hội bị CSVN bịt mắt bịt tai bịt miệng, với mục đích bảo vệ chủ quyền đất đai biển cả của Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa, được nói lên tiếng nói dân chủ tự do và nhân quyền, nhưng lại bị bắt bỏ tù. Vậy CSVN hãy hòa giải bằng cách: “(a) Thực hiện kế hoạch bảo vệ quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và các hải đảo trong Vịnh Bắc Việt và trong vùng Biển Đông của Việt Nam. (b) Bảo vệ ngư phủ Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của mình, Hải Quân Nhân Dân anh hùng hãy tấn công các tàu lạ xâm nhập hải phận Việt Nam bắt ngư phủ và ủi chìm tàu của ngư dân Việt. (c) Hủy bỏ Điều 4 cùng lúc thực thi những điều qui định trong Hiến Pháp liên quan đến dân chủ và các quyền tự do của người dân theo Công Ước quốc tế. (d) Trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù chính trị mà tòa án nhận lệnh từ lãnh đạo Các Anh ghép họ vào tội hình sự, và bồi thường thiệt hại về mức thu nhập của họ”. (Ngày 02/09/2010, trong thư gởi chủ tịch Nguyễn Minh Triết nhân ngày quốc khánh CSVN, nữ dân biểu Hoa Kỳ Loretta Sanchez, kêu gọi Hà Nội trả tự do cho hơn một trăm tù nhân lương tâm hiện còn bị giam giữ).

(3) Với hoạt động của các tôn giáo, tại sao phải sử dụng mọi mánh khóe gian trá để cắt ra từng mảng rồi khai sinh ra những tổ chức “tôn giáo quốc doanh trong khi miệng thì nói đoàn kết?” Hóa ra đoàn kết của lãnh đạo Các Anh là chia cắt để trị, giống như thời thực dân Pháp chia Việt Nam thành Nam Kỳ Trung Kỳ Bắc Kỳ để cai trị hơn trăm năm trước. Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy: “(a) Hòa giải bằng cách “ giải tán các tổ chức tôn giáo quốc doanh. (b) Rút tất cả Công An lồng trong các tổ chức đó cũng như đã tung ra hải ngoại trở về ngành lo bảo vệ an toàn cho dân và dọn dẹp xã hội sạch sẽ. (c) Hoàn trả đất đai tài sản lại cho các tôn giáo và bồi thường thiệt hại vật chất từ khi tịch thu trái phép đến khi hoàn trả, hủy bỏ các văn kiện liên quan đến tôn giáo quốc doanh và tôn giáo ngoài quốc doanh.

3. KẾT LUẬN

Nếu lãnh đạo của Các Anh hành động được như vậy với 89 triệu đồng bào trong nước, thì Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại không có lý do gì mà không hòa giải & hòa hợp với lãnh đạo Các Anh, đồng thời cung ứng tài năng và tài chánh về tham gia xây dựng đất nước.

Về phần Các Anh, tôi mong là Các Anh đừng nhìn những sự kiện trên đây một cách vô cảm nữa, còn suy nghĩ hay hành động gì là tùy Các Anh.

Để chấm dứt bài này, tôi mượn vài đoạn dưới đây trích trong bài viết “Bao Giờ Mới Có Được Sự Hòa Giải Giữa Người Việt Với Người Việt” của tác giả Trần Mạnh Hảo, trình bày trong cuộc hội thảo nhà văn xã hội chủ nghĩa tại Hà Nội năm 2011:

“ ......Trong hội thảo vừa rồi, tôi là người được phát biểu sau cùng, và với thời gian cũng rất hạn hẹp. Tôi cũng không hiểu tại sao khi tôi phát biểu được khoảng mươi, mười lăm phút thì có ý kiến của Chủ Tịch Đoàn ra dấu hiệu là thời gian không còn nhiều, tôi phải rút ngắn bài phát biểu của tôi đi. Thế nhưng tôi rất quan tâm đến vấn đề hòa hợp giữa người Việt với người Mỹ bởi vì chính cái đợt William Joiner mời tôi qua Mỹ để nghiên cứu về cộng đồng người Việt, tôi đã thấy một thực tế không thể quay lưng lại được. Đó là vấn đề cách đối xử, quan hệ giữa người Việt với người Việt sau chiến tranh thì phải nên như thế nào.... Đến phần cuối cùng tôi có nói như thế này: “Thưa các bạn trẻ, trong hội trường của chúng ta hôm nay, số lượng các bạn trẻ là sinh viên khoa Văn của trường đại học Văn Hóa Hà Nội tới đây rất là đông. Các bạn là tương lai, cho tôi được đối thoại với tương lai. Tất cả những tham luận trước không đề cập đến vai trò của các bạn trong hội thảo này. Tôi muốn nói với các bạn rằng, vấn đề hòa hợp giữa người Việt và người Mỹ thì coi như đã xong, cái kết rất có hậu. Nhưng cái gánh nặng để hòa hợp hòa giải giữa người Việt với người Việt thì hình như đến thế hệ các bạn vẫn phải lo. Mà cái chuyện này nó dài, các bạn sẽ có thời gian để tìm hiểu một cách thấu đáo một cách khách quan, một cách chân thành. Nhưng theo thiển ý của tôi, bằng vào những va chạm và sự hiểu biết của tôi, thì tôi thấy để tiến tới được việc hòa hợp hòa giải giữa người Việt trong nước và người Việt ngoài nước, thậm chí cả người Việt trong nước với nhau, thì có lẽ cũng phải đặt trên những cơ sở, những nguyên tắc nào đó, những định hướng nào đó thì mới trở thành hiện thực được.

Có thể có những góc nhìn khác nhau: Góc nhìn của người ở hải ngoại, của những người trong nước, góc nhìn của những người cầm quyền, góc độ của những người không có quyền, những người bình dân, góc độ của những người trí thức…Nhưng theo thiển ý của tôi, theo sự hiểu biết rất sơ sài và ít ỏi của tôi, thì tôi nghĩ rằng có lẽ có hai nguyên tắc chính để đi tới sự hòa hợp hòa giải. Nguyên tắc thứ nhất mà tôi nghĩ rằng rất quan trọng là phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt thì mới có thể có sự hòa hợp hòa giải thực sự. Và nếu không chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt thì không bao giờ đi đến sự hòa hợp hòa giải cả. Đây là vấn đề khoa học, chứ không phải là vấn đề lập trường quan điểm hay tư tưởng. Nguyên tắc thứ hai mà tôi cho rằng cũng rất quan trọng, mà kinh nghiệm này thì chúng ta thấy tình hình thế giới diễn ra như bây giờ, thấy sự hòa hợp hòa giải giữa Đông và Tây Đức, và của chính nước Mỹ sau cuộc nội chiến năm 1860-1865, là chúng ta phải đặc biệt công bằng và minh bạch với quá khứ. Khi chúng ta biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt rồi, mà chúng ta không công bằng và không minh bạch với quá khứ, thì chắc chắn là cũng không thể dẫn đến sự hòa giải thực sự bền vững được. Có lẽ đấy là những điều căn bản nhất mà tôi tâm niệm, tôi rất là tha thiết và cũng đã trình bày điều đó trước cuộc hội thảo này.....

Điều cuối cùng mà tôi muốn nói với các bạn trẻ rằng: “Thưa các bạn, tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác. Bởi thế chúng ta phải đặc biệt coi trọng đời sống tinh thần của một dân tộc”.


Đúng ra là bài viết chấm dứt ở đây, nhưng tôi vừa nhận được bài viết ngày 1/12/2011 của Thiếu Tướng cộng sản Nguyễn Trọng Vĩnh, “Chưa bao giờ Việt Nam bị hại bởi người láng giềng hữu nghị như từ 1979 đến nay” từ trong nước gởi ra, mời Các Anh ráng thêm khoảng 3 phút nữa là đọc xong.

“Việt Nam không hề khiêu khích và xâm phạm vào đất Trung Quốc. Thế mà năm 1979, Trung Quốc huy động hàng chục sư đoàn “dạy cho Việt Nam một bài học”, giết hại dân và tàn phá bốn tỉnh của Việt Nam; đánh chiếm cao điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên - Hà Giang của chúng ta; năm 1988, đánh đắm tàu hải quân, giết hơn 70 chiến sĩ, sĩ quan và chiếm một số bãi đá ngầm trong quần đảo Trường Sa của chúng ta. Trong đàm phán biên giới, họ ép ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, dân ta cũng không được đặt chân đến Ải Nam quan nữa, tất cả ta mất hàng trăm km2 đất. Họ xóa hiệp định phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ giữa hai Chính phủ Pháp - Thanh (do lịch sử để lại) đòi chia lại, ăn hơn của ta một phần hải phận.

“Sau khi nêu ra phương châm 16 chữ và 4 tốt với lãnh đạo ta, họ đã nghiễm nhiên đứng được trên nóc nhà Đông Dương, vị trí chiến lược xung yếu của ta, khai thác Bốc-xít, di hậu họa cho hàng triệu đồng bào ta.

Các công ty của họ thuê rừng 50 năm để trồng cây Bạch Đàn, trước tiên là chặt cây phá rừng, tạo thêm nguyên nhân gây lũ lụt cho ta. Bạch Đàn là cây ăn rất hại đất, hết hạn thuê, họ rút đi để lại cho ta hàng dãy hecta đất trống đồi trọc, vì không cây gì mọc được. Đây là một mưu kế rất thâm hiểm hại ta. Nguy hiểm hơn nữa là các công ty của họ thuê các khoảnh rừng trong đó ôm cả những đồi cao 600-700m tại các huyện Tràng Định, Bảo Lộc của Lạng Sơn và Tiên Yên của Quảng Ninh, có nơi chỉ cách biên giới Trung Quốc 700m. Họ phá rừng để trồng Bạch Đàn, phá rừng làm đường vào khu rừng họ thuê, họ làm đường xoáy trôn ốc lên đỉnh các đồi cao nói trên. 50 năm không ai kiểm soát được, họ có xây dựng công sự gì trên đỉnh các cao điểm ấy cũng không ai biết, liệu có để sau này sử dụng như cao điểm 1509 ở Vị Xuyên trước đây không?

“Ngoài việc năm 1974, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta, họ tự ý vẽ một cái “lưỡi bò” rất phi pháp bao chiếm gần hết biển Đông của Việt Nam, khoanh vùng cấm ngư dân ta vào đánh cá trong hải phận của mình, bắn chết, bắt ngư dân ta, tịch thu tài sản, ngư cụ, giam giữ, phạt tiền, dùng “tàu lạ” đâm chìm tàu cá của ngư dân ta. Cậy có Hải Quân mạnh, tập trận diễu võ dương oai ở Biển Đông, uy hiếp ta, luôn tuyên bố sẽ “thu hồi” Tây Sa tức Trường Sa của Việt Nam, mà họ to mồm nhận xí là của họ.

“Họ thuê dài hạn một đoạn bờ biển ở Đà Nẵng, nói là để xây dựng “khu vui chơi giải trí”, xây nhà máy điện nguyên tử chỉ cách biên giới tỉnh Quảng Ninh 60km, nếu rò rỉ phóng xạ thì bên ta mang họa.

“Trên thượng nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc xây một hệ thống đập trong đó có đập Tiểu Loan, chặn mất một khối nước vô cùng lớn. Nam Bộ của chúng ta ở cuối dòng sông, mùa khô đồng bằng sông Cửu Long sẽ thiếu nước, liệu còn nuôi được cá tra, cá basa nữa không? Có đủ nước tưới cho các vùng cây trái không? Vựa lúa Nam Bộ có bị ảnh hưởng không? Sông cạn, nước mặn sẽ dâng sâu vào nội địa, triều cường càng dữ, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh liên quan sẽ sống ra sao? Trung Quốc chặn nguồn nước thượng lưu của một con sông quốc tế, thật là một kế hoạch ích kỷ, ác độc.

“Họ trúng thầu một loạt nhà máy nhiệt điện và một số công trình, họ tự do đưa ồ ạt lao động của họ vào. Thế là, trên khắp đất nước ta, từ “nóc nhà Đông Dương”, từ rừng núi tới đồng bằng, đến ven biển đã có hàng vạn người Trung Quốc rải ra, có phải là mối nguy tiềm ẩn không?

“Từ những tình hình trên, rõ ràng Việt Nam ta bị hại đủ đường, và bị o ép tứ phía. Vì đâu nên nỗi này? Nhân dân ta nghĩ gì?./.



Từ xứ cao bồi Texas, cuối tháng 12 năm 2011
Phạm Bá Hoa

-----------------------------------------

Phạm Bá Hoa
November 20, 2011 8:08 PM


.
.
.

ANDRÉ MENRAS : Từ cuốn sách "CHÚNG TÔI LÊN ÁN . . . " tới phim tài liệu "HOÀNG SA VIỆT NAM. . . " BỊ CSVN CẤM CHIẾU (Trùng Dương)



Trùng Dương
Saturday, December 31, 2011

Sáng nay, hai ngày trước khi bước sang năm 2012, chị bạn bên Pháp chuyển cho cái link phim tài liệu “Hoàng Sa, Việt Nam: Nỗi đau mất mát”, thấy ghi là do André Menras Hồ Cương Quyết thực hiện. Phim có tựa tiếng Pháp là “La Meurtrissure - Painful loss”. Phim dài 59 phút, bị chính quyền Cộng sản Việt Nam cấm không cho trình chiếu trong buổi ra mắt ngày 29 tháng 11 vừa qua, khiến nhiều khách mời phải chưng hửng ra về, và nhà làm phim cũng ngỡ ngàng, bối rối.(*)

Hình trang YouTube về cuốn phim tài liệu “Hoàng Sa Việt Nam: Niềm đau mất mát” (Ảnh Trùng Dương)

Trong thư chuyển tiếp, thấy ghi lại lời của ông Menras: “Các nhân viên an ninh đă đối xử với tôi và các bạn của tôi một cách thô bạo và phi pháp. Bộ phim là tiếng nói chân thật của các ngư dân miền Trung bị tàu Trung quốc cướp bóc, đánh đập và hành hạ tại vùng biển đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

“Trong bộ phim ta thấy một nét văn hoá đặc biệt của ngư dân là văn hóa ‘mộ gió’,” thư chuyển tiếp vài hàng tâm sự của Menras. “Đây không phải chỉ là vấn đề tâm linh mà còn là một thông điệp cho bất cứ kẻ xâm lược nào rằng: Họ không bao giờ chịu bị cướp đoạt những điều họ quí nhất, đó là linh hồn của người thân, vùng biển truyền thống của tổ tiên, niềm tự hào của họ, quyền sống của mình và của con cháu mình.
“Tôi cam kết sẽ báo cáo thường xuyên và sẽ hỗ trợ trực tiếp, tại chỗ cho các phụ nữ có chồng đă chết trong cuộc mưu sinh, bám biển, bám đảo và cho các trẻ em mồ côi cha tại Lý Sơn và Bình Châu.” Và ông Menras đòi: “Hăy xóa đường lưỡi bò trên biển Đông và hãy bảo vệ cho những ngư dân Việt Nam hiền hòa.”

Tất nhiên là tôi rất tò mò, vì cái tên của người thực hiện. Nhưng, do thói quen, trước khi tôi bỏ thì giờ ra mở YouTube xem cuốn phim dài cả tiếng đồng hồ này và không biết có đúng tiêu chuẩn phim tài liệu để không làm mất thì giờ của mình, tôi có thắc mắc cần giải đáp trước đã: Cái ông André Menras này là ai? Sao lại có cái đuôi tên Việt Nam là Hồ Cương Quyết? Phải chăng là một anh Việt Nam có quốc tịch Pháp nên khi đổi sang tên Tây vẫn cố níu lại cái tên Việt cho đỡ mất gốc?

Điều tôi tìm ra hấp dẫn hơn cả điều tôi suy đoán.


André Menras là ai?

Bốn mươi năm trước André Menras là một người tích cực ủng hộ cuộc chiến xâm lăng Miền Nam của Cộng Sản Hà Nội. Nguyên là giáo viên dậy Pháp ngữ tại trường Jean Jacques Rousseau ở Sài Gòn trước, Menras yêu mến dân tộc Việt. Song như nhiều trí thức ngây thơ khác, ông nghe lời đường mật và chọn đứng về phe Cộng sản Bắc Việt, có lẽ một phần vì tinh thần chống Mỹ của nhiều người Pháp quan tâm tới Việt Nam vào giữa thế kỷ trước, mà Hoa Kỳ lại là nước hỗ trợ chính phủ Mìền Nam trong việc ngăn chặn cuộc xâm lăng của Cộng sản.

Theo chiều kim đồng hồ, trên, trái: Andre Menras (Ảnh Facebook); Menras bắt tay Chủ tịch Nguyễn Minh Triết sau khi được nhận vô quốc tịch Việt (Ảnh Internet); Menras viết biểu ngữ cho cuộc biểu tình chống Trung Quốc chiếm Hòang Sa; và Menras cầm biểu ngữ, bên phải, với một số người tham gia biểu tình ở Việt Nam, tháng 5 năm 2011. (Ảnh Google Images, Collage TD).

Vào ngày 25 tháng 7 năm 1970, Menras và một người bạn, Jean Pierre Debris, tới Sài Gòn, với sứ mạng khuấy rối để tạo sự chú ý của dư luận quốc tế. Họ leo lên tượng Thủy Quân Lục Chiến trước tòa nhà Quốc Hội ở góc đường Tự Do và Lê Lợi hồi ấy treo cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Việt Cộng) và phân phối nhiều ngàn truyền đơn chống lại cuộc chiến Việt Nam. Họ bị chính quyền Việt Nam Cộng Hoà bắt và kết án tù, hai năm cho Menras và bốn năm cho Debris, và bị đưa đi Côn Đảo. Mãn hạn tù, Menras trở về Pháp và càng tích cực yểm trợ cuộc chiến tranh “giải phóng” của Hà Nội. Ông và Debris sau đó cùng xuất bản vào năm 1973 cuốn hồi ký dầy 93 trang, “Chúng tôi lên án: Hồi hương từ nhà tù Saigon” (“We Accuse: Back from Saigon’s Prisons”), nhằm tiếp tay với phong trào phản chiến đẩy mạnh cuộc xâm lăng Miền Nam đến chiến thắng cuối cùng của Hànội vào mùa xuấn năm 1975.

Menras ở đâu, làm gì kể từ sau chiến thắng 1975 của Cộng sản Việt Nam?
Không biết ông có nghe biết về những chuyến vượt biển kinh hoàng của hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam tìm đường lánh nạn Cộng sản?
Không biết ông có nghe biết về những chuyện trả thù man rợ của chính quyền Cộng sản Việt Nam đối với những người thuộc chế độ cũ?
Không biết ông có nghe biết về nạn đói đe dọa khi chính quyền CSVN nhất định áp đặt chế độ xã hội chủ nghĩa mong đẩy nhanh đẩy mạnh đất nước và dân tộc Việt đến với thiên đường Cộng sản cho lẹ, và đẩy thêm nhiều người Việt ra biển làm mồi cho sóng gió và hải tặc?
Để rồi cuối cùng họ đành phải đi theo con đường của Trung Cộng vào thập niên 1980, đó là áp dụng nền kinh tế thị trường của tư bản mà họ đã tốn bao xương máu của người dân lương thiện để chống lại?
Và kết quả là một nước Việt Nam đầu Ngô mình Sở: hào nhoáng bề ngoài, rỗng tuếch rỗng toác bên trong, một môi trường tan nát vì nạn ô nhiễm, lụt lội triền miên vì rừng đã bị khai quang để bán, tham nhũng từ trên xuống dưới, mua quan bán tước, với một dân tộc ngày càng tha hóa, dân tình hoang mang bất mãn cùng cực, đặc biệt từ ngày xẩy ra chuyện Hà Nội nhượng đất, đảo và cho Trung Cộng thuê rừng, nhưng người dân lại bị cấm không được biểu tình chống lại trước hiểm họa bị Bắc thuộc lần thứ tư?
Đấy là chưa kể tới những việc chính quyền Hà Nội đàn áp tôn giáo, bỏ tù những người đòi tự do dân chủ.
Tuyệt nhiên không thấy ông Menras lên tiếng, mặc dù những cựu đảng viên Cộng sản như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương, kẻ đào nhiệm, kẻ lưu vong đầy rẫy đường phố Paris của ông và đã lên tiếng tập thể “Chúng tôi lên án” một chế độ tàn bạo, tráo trở, vô luân và vô nhân.


Công dân Hồ Cương Quyết

Thế rồi ông bỗng trở lại Việt Nam vào đầu thế kỷ 21, không rõ vì lý do gì. Tôi vốn thích nghĩ tốt về người khác trước khi có được những thông tin chi tiết về họ để vẽ một chân dung chính xác hơn về đương sự. Do đấy tôi nghĩ có thể vấn đề mất mát biển đảo ở Việt Nam đã khiến ông quan tâm? Thêm vào đó là tâm trạng tự nhiên của một người lớn tuổi có khuynh hướng tìm về dĩ vãng, mà dĩ vãng đầy lý tưởng của đảng viên Cộng sản Menras cũng đáng để vuốt ve lắm chứ.

André Menras phỏng vấn gia đình ông Nguyễn Việt cho phim “Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát”. Ông Việt có người con trai tên Nguyễn Thanh Biên đi biển bị quân Trung Quốc bắt ở Hoàng Sa năm 2009, bị tịch thu hết thuyền bè, và còn bị đòi tiền chuộc. Hiện giờ gia đình vẫn còn nợ khoảng 220 triệu đồng VN tiền chuộc, có giấy chứng nhận của quân đội Trung Quốc và cả của… chính quyền Việt Nam địa phương. (Ảnh Trùng Dương, chụp từ phim tài liệu “Hoàng Sa Việt Nam”)

Không biết ông đã thấy những gì, đã đi những đâu, đã tiếp xúc với những ai với khả năng tiếng Việt khá lưu loát của ông, không những nói mà cả viết. Rồi ông ngỏ ý muốn xin nhập tịch Việt Nam. Cũng có thể vì chỉ có cách nhập tịch mới tạo cho ông điều kiện thích hợp để tiếp tay xây dựng một Việt Nam mà ông đã “phải lòng” từ hồi còn trẻ, như mối tình đầu và có lẽ là cuối, chăng? Tuy vậy, ông vẫn muốn là dù nhập tịch Việt song ông vẫn giữ quốc tịch của mẫu quốc. Rồi ông được toại nguyện khi chính quyền Việt Nam chấp nhận song tịch. Và vào tháng 11 năm 2009, ông chính thức trở thành người Việt Nam với hộ chiếu và căn cước hẳn hoi, với tên Hồ Cương Quyết, nghe nói cho có vẻ cùng giòng họ với Hồ Chủ tịch kính yêu vô vàn.

Đã hẳn là báo chí Việt Nam coi đấy là tin lớn. Chẳng gì đây là lần đầu tiên có “sự cố” như thế này vì từ bao nhiêu thập niên nay chỉ thấy người Việt đi nhập tịch tứ phương thiên hạ, con số nay cũng lên tới cả hai, ba triệu, và có triển vọng tăng nữa. Chứ có ai thấy người nước ngoài nhập tịch Việt Nam đâu. Xin mở/đóng ngoặc đơn ở đây: Trường hợp nhạc sĩ Phạm Duy là ngoại lệ, vì tuy ông là người Mỹ nhập tịch Việt Nam nhưng cái gốc của ông vẫn là người Việt, là… khúc-ruột-ngàn-dặm, mặc dù hồi ấy báo chí nhà nước CSVN cũng khua chiêng gõ trống um xùm.

Vài khuôn mặt trong “Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát” do André Menras thực hiện, từ trái: Em Lê thị Thanh Thanh, cư dân đảo Lý Sơn, có cha là Lê Minh Tâm, đi biển chết mất xác; Bà Lê thị Sanh, cư dân đảo Lý Sơn, có chồng là Nguyễn Hoàng, đi biển mất tích với năm người khác, đề lại cho bà ba đứa con không một phương tiện sinh nhai; ông Võ Hiển Đạt, 80t, gia đình sống nhiều đời trên đảo Lý Sơn, nói Hoàng Sa thuộc về Việt Nam từ trước cả thời Vua Gia Long, và ông còn giữ nhiều tài liệu liên hệ. (Ảnh Trùng Dương, chụp từ phim tài liệu “Hoàng Sa”)

Với tư cách là công dân Hồ Cương Quyết, ông Menras đã viết nhiều bài có tính xây đựng đối với quê hương thứ hai là Việt Nam này. Một trong những bài đó, khá dài, có tựa là “Con người cần có ô-xy, ánh sáng và không gian” đăng trên boxitvn.net, cho thấy ông còn muốn cứu vãn cả đảng Cộng sản Việt Nam đang suy thoái hết thuốc chữa nữa cơ. Nhà văn Nguyễn Huệ Chi, trong bài giới thiệu bài viết bằng tiếng Việt của công dân Hồ Cương Quyết, đã viết ngắn, gọn, và thâm trầm, như sau:
“Là một người Việt mới nhập quốc tịch Việt Nam, tuy vậy ông André Menras luôn có một cái nhìn thực tiễn sắc bén hiếm thấy. Ngòi bút phê phán của ông trước các vấn đề cụ thể đang diễn ra trên đất nước mà đối tượng là người cầm chịch vận mạng của dân tộc, bao giờ cũng đích đáng. Song trong khi ở Pháp, Đảng Cộng sản Pháp đang vỡ ra từng mảng thì ông lại có một niềm tin rất đáng yêu về một triển vọng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không chóng thì chầy từ nguy cơ suy thoái đang hiển hiện trước mắt lại có thể trở lại trong sạch như pha lê bởi đó là Đảng Cộng sản của người Việt Nam, một dân tộc với những phẩm chất mà ông yêu quý tự đáy lòng. Lão Tử cho rằng trở về với bản tính hồn nhiên của ‘anh nhi’ -- trẻ thơ/ngây thơ – là vươn đến đỉnh cao trong phương thức sống của một triết nhân đạt đạo. Cầu chúc cho công dân Việt Nam Hồ Cương Quyết tìm được bí quyết đó trong tư duy như Lão Tử khuyên dạy.”

Chẳng biết Đảng CSVN có lắng nghe công dân Hồ Cương Quyết quyết lòng làm sạch đảng hay không, nhưng Đảng đã chỉ thị cho truyền thông Đảng nắm trong tay quyền sinh sát làm những gì cần làm. Khi công dân Hồ Cương Quyết tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm chiếm biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam hồi giữa năm, lại còn viết bài “Hãy lên tiếng, dõng dạc và minh bạch” dài trên 2,000 chữ và đưa cho báo nhà nước Tuần Việt Nam đăng tải, ban biên tập biết phải làm gì. Chẳng những họ cắt bài của ông đi gần nửa, lại còn sửa đổi nội dung, đến cả cái tựa cũng viết lại, thành “Biển Đông: Sợ hãi không đẩy lui hiểm họa”. Họ quên là họ đang sống ở thời đại Internet. Nhiều báo điện tử, trong đó có Tiền Vệ, tienve.org, đã đưa vụ này, đầy đủ, lên Mạng cho cả thế giới chiêm ngưỡng.(**)

Chưa hết, Đảng lại vừa tặng cho công dân Hồ Cương Quyết một đòn còn ngoạn mục hơn, đó là bóp chết đứa con tinh thần mang nặng đẻ đau của ông nữa.

Phim tài liệu ‘Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát’

Phải công bằng mà nhận rằng đây là một phim tài liệu có giá trị, cả về hình thức lẫn nội dung. Về nội dung, đó là một loạt những phỏng vấn người dân chài chất phác, thực thà, những sự việc thật, không thêm thắt. Menras đảm trách phần phỏng vấn bằng tiếng Việt và dẫn giải trong ấn bản tiếng Pháp, và một giọng nữ dẫn trong ấn bản tiếng Việt. Cả hai dẫn bằng một giọng bình dị, như người kể chuyện, rỉ rả, không lên giọng kết án ai, kể cả quân Trung Quốc hiện đang trấn đóng vùng biển Hoàng Sa vốn thuộc về Việt Nam từ trước cả thời Gia Long, và là động lực gây ra một số chết chóc, bắt bớ, tịch thu tài sản của dân chài và họ còn bị đòi tiền chuộc nữa, diễn ra từ các năm giữa tới cuối thập niên 2000. Tóm lại, đó là một cuốn phim phóng sự có giá trị tài liệu, trình bầy không thêm thắt những mảnh đời dân chài ít người Việt có dịp biết đến, nếu không nhờ nhóm quay phim cất công về tận nơi, ra tận đảo (Lý Sơn) để quay phim và phỏng vấn.

Cái làm người xem động lòng thương tâm, và có lẽ là cái làm cho chế độ CSVN nhột nhạt, là những ngưởi dân chất phác hiền lành chịu đựng mọi rủi ro, tai ương thiên nhiên cũng như thời thế nhân tạo, hoàn toàn trong sự cô đơn, không có một an ủi, vỗ về, chứ đừng nói tới bênh vực, từ những người đại diện chinh quyền. Phải chăng đây chính là sự thiếu xót của phim, đó là đã không có phần phỏng vấn các viên chức địa phương, hoặc muốn mà không thực hiện được, vì chẳng ai dại gì ra mặt?

Với tôi, sức mạnh của một bài phóng sự, phim tài liệu, là thái độ thản nhiên trình bầy, không dùng những tiếng tĩnh tự hay trạng tự -- tiếng báo chí Mỹ gọi là “show, don’t tell” --, không mao tôn cương, không cả dùng những tiếng nhạc dồn dập, khích động, những xảo thuật điện ảnh, như trong một số phim tài liệu về Việt Nam, kể cả của người ở hải ngoại thực hiện mà tôi đã có dịp xem gần đây. Hãy tôn trọng độc/khán giả và để họ tự rút ra kết luận của riêng mình. “Hoàng Sa Việt Nam: Niềm đau mất mát” đã hoàn thành sứ mệnh đó. Có lẽ vì thế mà nó bị cấm?

Trong cái rủi ro thường bao giờ cũng có cái may, tiếng Mỹ là “silver lining”. Nhờ bị cấm đoán của chính quyền mà cuốn phim tài liệu “Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát” đã tìm đường lên Internet, được posted trên YouTube, và chúng ta ở hải ngoại đã được dịp xem. (Bạn đọc nào sử dụng Real Player ấn bản mới, miễn phí, có thể tải nguyên cuốn phim 59 phút này xuống máy computer của mình để xem offline hoặc chia sẻ với bằng hữu.)

Công bố sự có mặt của cuốn phim tài liệu tại YouTube, Menras vừa viết trên boxitvn.net, ngày 20 tháng 12 vừa qua, như sau:

“Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát” đã có phiên bản tiếng Việt

Các bạn thân mến,

Tôi rất vui mừng báo tin với các bạn rằng, nhờ sự hỗ trợ kỹ thuật của một số thân hữu của tôi, kể từ hôm nay, các bạn có thể vào youtube để xem trọn bộ phim “Hoàng Sa Việt Nam: La Meurtrissure, Painfull loss, Nỗi đau mất mát”, phiên bản tiếng Việt. Xin các bạn truy cập theo đường link sau đây:
http://www.youtube.com/watch?v=FaWNlxJ9OZo

Bất chấp việc cấm đoán thô bạo của chính quyền ở TP. HCM, và sau đó là thái độ im lặng khó hiểu của họ khi tôi đề nghị được giải thích, bất chấp việc tôi không thể nào tiếp cận được với các giới chức đã trì hoãn buổi chiếu phim của tôi ở Hà Nội, cuối cùng bộ phim cũng được phổ biến rộng rãi cho mọi người Việt Nam trong nước cũng như trên toàn thế giới.

Không ai có thể ngăn chận mãi tiếng nói của sự thật!

Tôi hy vọng bộ phim mà tôi đã hoàn thành với tất cả tâm huyết này sẽ mang đến cho mọi người cái nhìn khái quát và chân thật về tình cảnh khốn khó và đầy hiểm nguy mà các ngư dân cùng người thân của họ đang phải đối mặt từng ngày, từ đó các bạn sẽ có hành động hỗ trợ về tinh thần cũng như vật chất, nhằm góp phần xoa dịu nỗi đau thương mất mát của đồng bào ta.

Về phía mình, tôi long trọng cam kết sẽ là nhịp cầu nối đáng tin cậy cho hoạt động tương thân tương ái này, với sự đảm bảo và giúp sức tận tình của các bạn bè của tôi…
Hồ Cương Quyết – André Menras

Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu một ngày nào đó công dân Hồ Cương Quyết bị tống xuất khỏi Việt Nam, như chàng thanh niên André Menras đã bị trục xuất khỏi Sàigòn cách đây gần 40 năm. Liệu ông có sẽ viết một cuốn hồi ký tựa là “J’accuse…”?

(TD, 12/2011)

-------------------------------------

Chú thích:

* Nghe tường thuật của đài Á Châu Tự do về buổi ra mắt phim “Hoàng Sa Việt Nam: niềm đau mất mát” bị cấm, tại http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/andr-menr-film-prohib-in-saigon-11302011122915.html/11302011-andr-menr-film-prohib-in-saigon.mp3

** André Menras, “Hãy lên tiếng, dõng dạc và minh bạch”: http://tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&artworkId=12889

Nguyễn Tôn Hiệt, “Báo Tuần Việt Nam đã kiểm duyệt bài viết của André Menras Hồ Cương Quyết như thế nào?” http://www.tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&artworkId=12890

.
.
.