Sự thay đổi đã đến gần
Luật Sư Trần Lâm
Đăng ngày 30/11/2009 lúc 16:23:05 EST
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4377
I. Mở đầu:
Chưa bao giờ như bây giờ, số người quan tâm đến hiện tình đất nướcngày một đông, lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân.
Có thể tóm lược: hiện ta có thể chống đỡ được Trung Quốc để khỏi trở thành như Triều Tiên, Miến Điện? Có phải chúng ta đang khủng hoảng nhiều mặt, thể chế hiện hành có thể chấn chỉnh để trụ được hay phải thay đổi triệt để mới mong có sức tồn tại và vươn lên?
Mặc dù trong kỳ Đại hội vừa rồi mọi góp ý đều không được lắng nghe, mọi người vẫn kỳ vọng vào đại hội sắp tới. Thời thế thay đổi, liệu tiếng nói của dân có giá trị gì? Xin hãy chờ xem!
II. Trung Quốc và Việt Nam
a. Nỗi sợ Trung Quốc:
Dù chỉ tiếp cận sơ qua, ai cũng thấy Trung Quốc thật đáng ngưỡng mộ: người đông vô kể, đất rộng như vô tận, thiên nhiên hùng vĩ và kỳ thú, những công trình xây dựng cũ mới thì đều đồ sộ đến mức khó ngờ. Sách nhiều vô kể, nội dung hay đến mức để đời. Qua lịch sử, khi loài người còn mông muội, Trung Quốc đã có nhiều phát minh…
Mấy chục năm nay, như có chiếc đũa thần, Trung Quốc vụt lên giàu có, nhiều ngành khoa học đạt mức thế giới, quân sự bùng phát. Trung Quốc như đang thách thức, như đang tranh giành ngôi đầu bảng thế giới.
Cái sợ hãi hơn là sợ não trạng con người Trung Quốc. Xem trong chuyện cổ, nhiều nghìn năm trước đến giờ, biết bao nhiêu gương mặt gian ngoan, mưu lược. Phụ nữ lại còn ghê gớm hơn, ngay cuối thế kỷ 20 mà Giang Thanh còn mưu mô làm Vua bà nước Tàu…
Các nhà phân tích kết luận: khi nàoTrung Quốc mạnh là Trung Quốc bành trướng. Bây giờ Trung Quốc đang muốn xuống Phương Nam. Cái cửa cần mở là Việt Nam, mà Việt Nam lại là cái gai khó gỡ.
Một nhà ngoại giao kỳ cựu đã chua chát: “Trung Quốc thì gian ngoan, mưu lược, còn chúng ta thì dại dột, cả tin. Các người đi trước và bản thân tôi đã nhiều lần bị họ lừa”. Chúng ta choáng ngợp, rồi tự ti, rồi lo sợ và cuối cùng bị khuất phục. Còn có ai đó bị bẫy sập để trở thành tôi tớ, xét cũng là điều dễ hiểu.
Trong lịch sử, Trung Quốc đã từng thôn tính nhiều đất đai, nhiều dân tộc để có được tầm vóc như ngày nay. Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam 4 lần và cũng bị Việt Nam nhiều lần đánh đuổi.
Ngay gần đây, các vị cầm đầu cũng cho Trung Quốc những đòn đau nhớ đời: diệt Pôn Pốt làm tan cái tiền đồn phương Nam của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình phát điên lên gọi “Việt Nam là bọn côn đồ”, doạ và thực hiện “cho Việt Nam một bài học”. Những người tham dự cuộc chiến tranh biên giới xác nhận là về mặt quân sự Việt Nam ở thế thắng. Rồi Việt Nam đuổi người Hoa. Lẽ dĩ nhiên họ ra đi không thể mang theo nhà cửa, đất đai…
Ta đăng ký thềm lục địa có nghĩa là đòi xác lập chủ quyền ở Biển Đông. Ta mua tàu bay, tàu ngầm, ta quan hệ với các nước để có liên minh quân sự…Ta chờ đón những phản ứng mãnh liệt từ phía Trung Quốc nhưng cuối cùng cũng chỉ có vài pha “tàu lạ”, vài lần Trung Quốc bắt nạt ngư dân thế cô, giữa biển khơi.
Ta sợ vì ta yếu, vì ta không có lực lượng. Lực lượng của ta là lòng dân, sức dân. Ta lại đang đối xử với dân có thể nói là tàn tệ. Chính ta tiêu diệt sức sống của bản thân ta.
“Người ta mạnh vì anh quỳ gối” – có lẽ đúng. Trung Quốc không phải muốn làm gì thì làm. Hãy thức tỉnh, hãy can đảm, hãy chấp nhận mọi giải pháp, dù thế nào miễn là giữ vững được chủ quyền đất nước.
b. Về việc giao tiếp cụ thể với Trung Quốc:
Đây không phải là phân tích, đánh giá, kết luận, chỉ là những việc xảy ra gần đây, được liệt kê để bàn soạn, chiêm nghiệm:
1. Việc bô xít Tây Nguyên: không nghe nói gì đến việc khởi động, làm con đường sắt 300 km có độ chênh 70m, làm cảng, làm kho, làm bể chứa bùn đỏ. Nếu làm, không biết 5 hay 7 năm có xong không? Thế mà hôm nay đã làm nhà máy, cái trước chưa làm, cái sau đã làm.
Liệu người ta có mang những thứ cũ kỹ thải loại sang lắp đặt tại Việt Nam rồi sau đó sản xuất theo lối thô sơ, thành phẩm chuyển về bằng đường giao thông, còn môi trường thì không quan tâm. Thành một việc đã rồi và sẽ có bô xít “thổ phỉ” Tây Nguyên như than “thổ phỉ” Quảng Ninh!
2. 1000 năm Thăng Long Hà Nội và 2010, năm hữu nghị Việt Trung: Nếu ông Đào nói nhỏ với ông Mạnh “chuyện cha ông chúng ta xung đột đã có từ lâu, nay khơi ra làm gì, nó ảnh hưởng đến 16 chữ vàng. Chi bằng làm vừa vừa thôi. Chúng ta tập trung vào làm cái “Năm hữu nghị…” thế mới là thực sự củng cố mối tình của chúng ta. Làm to vào, thiếu tiền Trung Quốc tài trợ. Chả có cách nào để ông Mạnh không chấp hành.
Trong một năm ngắn ngủi, dân Hà Nội vừa nghe tiếng voi gầm ngựa hí, vừa nghe tiếng lanh canh chạm cốc.
Biết đâu đấy, đây còn là cái “cân tiểu ly” của ông Đào để xem câu đồn đại: “Người Trung Quốc ghét người Mỹ và người Nhật nhưng ghét nhất là người Việt Nam. Còn Việt Nam ghét nhất người Trung Quốc” đúng sai đến mức nào?
3. Mở rộng Hà Nội: Nhiều người nói, không biết gì, kể cả ông chủ tịch Hội quy hoạch có người nói không có căn cứ. Có người bạo miệng: Việt Nam bị người xúi dại.
Các lãnh tụ Cộng sản đều ít nhiều mắc bệnh cuồng vĩ: Liên Xô biến sa mạc thành vườn nho, táo; Việt Nam có đường dây 500 KV, có đường Hồ Chí Minh… và cái gì cũng thấy “nhất” Đông Nam Á. Ta không có đủ tiền, không có kỹ thuật; lúc ấy Trung Quốc xui làm gấp, cho vay tiền, chẳng lẽ mình từ chối! Thế rồi người Trung Quốc đưa phong cách Trung Hoa vào, rồi người ta vận dụng câu nói của Tôn Văn: “Ở đâu có dấu ấn văn hoá Trung Hoa là đất đai của Trung Quốc”. Ta mất hay còn?
Không hiểu sao Myanma cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại đi vào xóm núi. Việt Nam cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại mở rộng gấp 4 lần. Hay là người ta muốn Việt Nam thiếu hụt bối rối và hỗn loạn?
4. “Hãy gác tranh chấp, hãy cùng nhau hợp tác khai thác”: Khẩu hiệu thật hay. Tôi tin là Trung Quốc đã đọc truyện Trạng Quỳnh, sẽ áp dụng mưu Trạng Quỳnh đối với bà Chúa Liễu trong chuyện bà Chúa có ruộng, Trạng Quỳnh có công trồng tỉa…Ta lấy lực đâu mà cùng khai thác? Cử ai đến cùng quản lý thì chắc một tuần là họ sẽ trở thành người Trung Quốc.
Nghĩ đến con đường huyết mạch Biển Đông với tài nguyên phong phú cũng thấy lo, cũng thấy Trung Quốc quyết liệt là dễ hiểu.
5. Việc đặt quan hệ đối tác giữa các tỉnh của hai bên biên giới: Thật là tốt đẹp! Ta rất cần việc này vì ta còn sản xuất nhỏ lẻ, việc quan hệ giữa hai tỉnh sẽ giản dị hoá quan hệ giữa hai quốc gia. Có tỉnh họ còn mạnh không kém gì nước ta. Liệu Trung Quốc có âm mưu chia cắt, thâm nhập rồi thôn tính từng phần? Các tỉnh của chúng ta có sức mấy mà chống đỡ được!
6. Người ta quan tâm đến Đại hội sắp tới sôi nổi hơn nhiều so với Đại hội đã qua. Quan tâm đến nhân sự đại hội xem có ai thân Tàu, ai là người của Tàu… coi đó là cái thước đo đất nước còn mất đến đâu.
c. Biết mình biết người:
Người xưa có câu: “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Người đời nay căn dặn: “Có những người sau khi gặp họ, bắt tay rồi phải xem lại tay ta có thiếu ngón nào không?”.
Việt Nam hiện nay làm việc gì cũng phải nghĩ đến Trung Quốc. Đó là một chỉ dẫn quan trọng. Đó là “biết người”. Có lẽ, mọi người Việt Nam cần đào sâu suy nghĩ: “Mình đứng cương vị gì, mình bảo vệ đất nước ra sao trước Trung Quốc?”. Còn nếu chấp nhận “nghèo thì hèn, mạnh thì được, yếu thì thua”, và hơn thế nữa “Cứu nhà hơn cứu nước! Cứu thân mình hơn cứu Chúa!”, thì coi như mất nước. Đó là “biết mình”.
III. Hãy nhìn lại mình
Ta luôn nói ta có nhiều thành tích. Nhưng nhiều năm qua ta vẫn bị xếp vào danh sách các nước nghèo nhất. Ta nên bình tĩnh xem lại chính mình. “Không nghe anh nói, hãy nhìn anh làm”.
Ta hãy có cái nhìn khái quát hiện tình trên một vài mặt:
a. Tam nông:
Trong tam nông có quá nhiều bê bối, người ta cho rằng do ta giữ quá lâu đạo luật: “đất đai là của toàn dân, do nhà nước quản lý”.
Đất đai sản xuất không có sở hữu rõ ràng, không mua, không bán được, không gom góp để đủ sản xuất lớn được, buộc phải sản xuất manh mún, kỹ thuật thô sơ, năng suất thấp, không chống được thiên tai nên vẫn đói và chán nản. Lại cộng thêm sinh đẻ không kế hoạch, giáo dục quá kém, không có tay nghề, nhân mãn và thất nghiệp tràn lan. Di cư tự do, không có việc làm, tệ nạn xã hội và phạm pháp phát sinh không ngăn nổi.
Nhiều nơi đã tự phát phá vỡ thế bí này. Phong trào “dồn điền đổi thửa” đã bước đầu đưa sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn hơn, tập trung hoá. Nhiều người nông dân góp tiền mua chung máy móc nông nghiệp. Có huyện tổ chức cho các nhóm nông dân vay tiền để mua ô tô, để đưa sản phẩm ra thành phố bán. Đã hé lộ những “ông Kim Ngọc đời mới”. Họ sẽ vứt bỏ đạo luật nói trên, rồi họ tạo ra nền sản xuất mới.
Nhiều người băn khoăn: công nghiệp hoá nông nghiệp bao nhiêu nước đã làm, có gì bí ẩn đâu sao ta không làm?
Có người tạm bằng lòng với lời giải thích: Trung Quốc chưa làm thì ta chưa làm; nông dân đông lắm, nguồn gốc của mọi biến động mà lịch sử đã ghi, phải giữ con chủ bài ruộng đất, như cái “mũ kim cô” mới mong an toàn trước họ… Nông dân làm chủ ruộng đất, những người có kỹ thuật, có vốn sẽ áp sát, đẻ ra một liên minh mới, thế thì lãnh đạo sao được?
Tình trạng này chính là nguyên nhân trực tiếp làm xuất hiện đội quân dân oan mất đất mất nhà ngày càng đông đảo trên phạm vi cả nước. Nguy cơ đảng mất nông dân đã là nhãn tiền.
Một hệ quả không ngờ ập tới: đất đai do nhà nước quản lý, thế là các cấp chính quyền thao túng. Đầu tư nước ngoài, đô thị hoá buộc phải có đất để phát triển. Thế là đẻ ra: thu hồi, định giá, đền bù, giải toả… Tiền nong như nước, tham nhũng trước nhỏ, sau to đến nay như bệnh không chữa nổi. Cái dây trói nông dân trở thành cái dây thít cổ các quan tham, làm điêu đứng Đảng và Nhà nước.
Hãy trả ruộng đất cho nông dân, mở đầu việc công nghiệp hoá nông nghiệp.
b. Không phát huy vai trò cá nhân, không dùng người tài, hội họp quá nhiều:
Tôi thuộc gia đình viên chức chế độ cũ, tôi lại có điều kiện tiếp xúc với bộ máy nhà nước vào các năm 1945, 1954, 1975 thế kỷ trước. Tất cả họ, ngành nào, cấp nào đều thành thạo nghiệp vụ, hiểu hết chức trách, cấp nào có bằng cấp học vị cấp ấy. Họ cũng có các thiếu sót như ta hiện nay nhưng dứt khoát là không có tình trạng: không làm được việc.
Tôi thấy qua các bước thăng trầm của đất nước: giành được độc lập, chiến tranh và xây dựng đất nước…bao giờ cũng gắn thành công hay thất bại vào một số người hay một người đứng đầu. Hiện nay ta mờ mịt: không biết việc này từ đâu đến, vì sao phải làm, luôn luôn ứng phó, luôn phải sửa sai và cũng không thiếu giấu giếm, đổ thừa.
Tôi tại thấy ở các nước, các nhà khoa học, các nhà bác học, các chuyên gia họ tập hợp theo ngành vào các tổ chức phi chính phủ. Họ theo dõi tình hình, họ tranh luận, họ đưa ra các kiến nghị, các biện pháp… Có tổ chức được nhà nước tài trợ. Ngoài ra các Viện hàn lâm, các viên nghiên cứu của các trường đại học cũng tham gia vào việc phản biện và đề xuất.
Không phải ta thiếu người để xây dựng ra bộ phận này nhưng chính là ta không biết làm, không chịu làm. Bộ phận lãnh đạo chính trị thì phe cánh, tranh chấp, không có người tài. Bộ phận khoa học kỹ thuật thì bị chèn ép. Người giỏi bị loại ra ngoài vòng, còn bị cấm đoán nên giữ miệng, kín tiếng. Còn bộ máy nhà nước thì nhiều bất cập, nhiều xấu xa, ai cũng biết.
Nguyên nhân tụt hậu đã rõ, bệnh đã định nhưng thuốc chưa có. Có lẽ phải bình tĩnh chấn chỉnh từ lãnh đạo, sao cho có người có tâm, có tầm để họ quy tụ các tài này, để họ chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước.
Sao nhiều phòng họp thế? Sao người ta cứ thay đổi kiểu ghế, mỗi ngày thêm oai vệ. Hôm nay Quốc hội họp, thấy các tay ghế to quá, chiếm nhiều diện tích và phản cảm. Thế rồi hội họp liên miên, cổ cồn, cà vạt, trang trọng không biết có cái gì mới, hay là người ngồi đấy mà hồn lang thang nơi đâu?
Cũng cần xem lại câu: “Đảng bao giờ cũng đúng, tập thể bao giờ cũng sáng suốt”. Cho nên lấy việc hội họp làm chính để rồi chỉ ăn và đi họp, còn cái sáng suốt không biết tìm ở đâu!
Có lẽ ta phải thay đổi: đề cao vai trò cá nhân, con người phải được đào tạo lại, phải đánh giá khác đi, phải sử dụng khác đi… có nghĩa là tất cả phải thay đổi.
Ông cha ta nói: ‘Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Nguyễn Mạnh Tường nói: “Tập thể là cái vô nghĩa”. Bà Hồ Xuân Hương thì bốp chát hơn: “Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông. Nó bảo nhau rằng ấy ái uông”. Còn Xê khốp thì chế diễu: “Những cái đầu rỗng tuếch ngồi sau những bộ bàn ghế bằng gỗ bồ đào”.
c. Xây dựng kinh tế các nhóm lợi ích:
Khi mở cửa, khi đón đầu tư nước ngoài, ai cũng nghĩ rằng: ta sẽ học, ta sẽ làm, ta sẽ có tất cả như các nước, ta tiến bộ, ta thừa sức theo kịp thiên hạ… Lúc đầu ta bàn nhiều đến cái thiếu sót, cái thua thiệt, coi đó là học phí với sự an ủi thầm kín. Đến nay, cũng đã nhiều năm: hãng Sony ra đi, ta không thấy nói gì đến ngành điện tử, ta có bao nhiêu hãng ô tô mà nay không thấy cái gì gọi là ô tô Việt Nam… Hoá ra xét tiến bộ đầu tư nước ngoài lấy số tiền đầu tư để đánh giá, còn nền công nghiệp của ta là một việc khác. Kết quả: mất đất, mất môi trường, sức lao động bị bán rẻ. Trong khi ấy, đồng ruộng cần máy móc nông nghiệp, phân bón; học sinh cần máy tính, người lớn cần điện thoại di động… thì tất cả của nước ngoài.
Những cái cũ ta có: gạo, café, cao su, bao nhiêu năm nay không giải quyết được ổn thoả việc thu mua, chế biến, tồn trữ cứ vẫn như xưa. Cái ta có ưu thế tuyệt đối thì cũng không ổn định.
Những cái có mới, không ít, có thể chia ra hai loại: loại làm ra vì mục đích chính trị, nhằm khoa trương, kèm theo câu “nhất Đông Nam Á” như đường Trường Sơn, đường dây 500KV, hay như điện nguyên tử đến nay chưa có số lượng nhân lực ban đầu… Có cái khác thì thấy ai có thì học theo như Hà Nội bên Sông Hồng và Hà Nội rộng gấp 4 lần…
Loại thứ hai là thiếu hiểu biết kỹ thuật, bỏ ngoài tai ý kiến của các nhà khoa học, tự cho “chính trị là thống soái”, rồi chống cả trời đất như việc quản lí đô thị: Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội: nạn ngập lụt người ta cảnh báo bao nhiêu năm, đã thấm đòn ở thành phố Hồ Chí Minh, đến nay lại xảy ra ở khu Mỹ Đình, nơi đỉnh cao của kiến trúc đô thị Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà không đi từ nông nghiệp, không công nghiệp hoá nông nghiệp, quy hoạch đô thị thì “treo”, không có luật nhập cư, công nghiệp hoá, xuất khẩu lao động thì bỏ rơi đào tạo nghề… Các việc này người ta làm ở Châu Âu từ thời kỳ Napoléon. Cái “Đảng bao giờ cũng sáng suốt”, “Tập thể bao giờ cũng đúng” đi đâu mất rồi? Thế mà cứ bô bô “Năm này, năm kia ta sẽ hiện đại hoá, công nghiệp hoá!”
Còn một điều vô cùng nhức nhối: làm gì cũng nói sẽ vay vốn ODA. Cứ vay rồi ai trả? Kinh tế thị trường mà không có vốn. Số nợ này là bao nhiêu? Ai biết?
Nếu chỉ có như trên thì đi một lẽ, nó lại có cái lẽ thứ hai, như rắn thêm chân:
Khi chúng ta còn bao cấp thì Philippin, Indonexia đã đi vào phát triển kinh tế. Các nhóm gọi là “nhóm lợi ích” đã ra đời. Nó là mối liên kết của những người kinh doanh, sản xuất với các người nắm quyền, họ đồng loã quyết định mọi việc, từ đó rút ruột nhà nước, chiếm đoạt tài sản quốc gia… Có khi đó là gia đình các nguyên thủ quốc gia như: Tổng thống Mác-cốt, tổng thống Su-hác-tô phải ra toà và ngồi tù là thế.
Ở ta thì những người thân quen, con cháu người cầm quyền từ TW đến cấp tỉnh đều núp bóng cha anh để làm ăn. Dân chỉ rõ công ty này là của ai, Công ty kia là của ai. Rồi những người có quyền chức ủng hộ cái này, diệt cái kia vì hối lộ… nền sản xuất bị chết từ trong trứng.
Indonexia, Philippin, Việt Nam có chung một bệnh. Philippin trước đây còn mạnh hơn ta mà nay suy thoái. Dù có nền dân chủ sơ khai mà không vực được nền kinh tế lên được.
Chưa hết, hiện nay Trung Quốc thâm nhập vào nền kinh tế Việt Nam, thâm nhập bằng cả quyền lực chính trị. Nếu như họ lại có trong tay các nhóm lợi ích hay là các nhóm lợi ích hai bên kết hợp với nhau thì có lẽ nền kinh tế Việt Nam đi đứt.
Việc phân tách kinh tế Việt Nam với các mô thức, chỉ số, công thức xin dành cho các kinh tế gia, chưa chắc các kinh tế gia đã làm được vì lẽ tình hình bị che giấu.Thiếu nhìn xa trông rộng, không có quy hoạch, thiếu kiến thức, thiếu óc phân tích, không có các biện pháp phù hợp là một phía. Phía khác là nạn tham nhũng tràn lan, cùng với ý thức có quyền hành thì cứ làm, rồi che dấu, xuyên tạc, có thể là nguyên nhân của các nguyên nhân.
d. Hoàn toàn thất bại trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá:
Tôi bị bất ngờ: cùng một lúc nhiều người mà Đảng coi là tinh hoa, là tiêu biểu cho nền tư tưởng, văn hoá xã hội chủ nghĩa, đều lên tiếng phỉ báng Đảng. Có người đốt tác phẩm rồi nhịn ăn mà chết. Có người quên hết mình đã có những gì mà chỉ nhớ bài thơ, bài hát đầu đời khi chưa biết Đảng. Có người sau 30.4 gặp lại bạn văn thời xưa đã khóc mà nói là mình đã đóng kịch bao năm… Tóm lại họ tự nhân mình là “văn nô”. Trần Đức Thảo thì ra đi trong đau khổ; Nguyễn Khắc Viện thì giữ khoảng cách đầy kiêu hãnh; còn Nguyễn Mạnh Tường thì lạnh lùng rời bỏ. Họ là người được thế giới ngưỡng mộ, nhân dân yêu mến.
Triết học, văn học, nghệ thuật, các khoa học khác để lại là tác phẩm. Tác phẩm gắn với con người. Thế là ta không còn tác phẩm, không còn con người. Thế là ta mất hết.
Rồi đây các hồi ký, các di cảo của nhiều người còn nói lên nhiều nữa: Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên…
Cụ Tô Hoài theo Đảng, lúc Tây Bắc, lúc đồng bằng, ca ngợi Đảng hết lời, đột nhiên cho ra Ba người khác. Nếu cụ còn loại này, xin cụ kịp thời cho ra mắt bạn đọc để Đảng ghét cụ, cụ qua đời sẽ lờ cụ đi, mọi người sẽ đưa cụ đi an nghỉ nơi có côn trùng nỉ non, có hoa có lá, có trời xanh nước biếc và sẽ để bên cụ “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Cụ chậm chạp, Đảng vẫn mến mộ cụ. Cụ mất, sẽ đưa cụ vào Mai Dịch, rồi con cháu cụ xuất bản di cảo. Lúc ấy các vị nằm quanh cụ sẽ đánh đòn “hội chợ” cụ và mọi người sẽ cười cả Đảng, cả cụ, một trận cười vỡ bụng.
Thời Pháp thuộc, 80 năm mất 20 năm bình định, gần 10 năm vì chiến tranh thế giới, dân ta chỉ có 20 triệu… Lao động tay chân, hỏi lấy gì mà người Pháp xây dựng nổi Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, đường xuyên Việt, đường sắt Bắc Nam vươn tới Vân Nam… Phố Tây Hà Nội thiết kế cho xe ngựa, nay ô tô như kiến, không tắc, không ngập. Nhà hát lớn, Cầu Du me, phủ Toàn quyền, các công viên, bảo tàng sau hơn 100 năm vẫn bền vững, vẫn đẹp… Đẹp mà lại hợp lý… Còn ta, cũng cao, cũng to, cũng rộng… Còn hơn các cái cũ, nhưng không gây được ấn tượng nào. Vào trong, đi, đứng, làm việc gặp nhiều bất tiện. Đó là vì, đây là một ngành khoa học không phải có tiền là cứ xây, vừa xây xong thì ngập lụt… Một nghiên cứu nói rằng: từ xa xưa, từng lớp thống trị nào cũng xây dựng các công trình đồ sộ, coi như biểu tượng của chế độ. Ta có thể cũng ở vào tình thế này. Các tỉnh, huyện, các ngành nào của ta cũng có não trạng này. Kết luận này có cơ sở ở chỗ, người ta coi hình thức hơn nội dung, coi nhà cửa, phòng họp, hội trường quan trọng hơn con người. Con người không cập nhật với nhiệm vụ, với trách nhiệm. “Quan trí” cần phải nâng cao là lời nói cửa miệng của người dân.
Gần đây rầm rộ lên cái gọi là cấm phản biện công khai, rồi quản chặt báo chí. Người ta kêu trời vì sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Vấn đề quá dài, chưa thể đề cập nhưng phải nhận là đạo đức, là một mặt đời sống tinh thần, nó nở hoa hay méo mó cùng một nguyên nhân, cùng một kết quả với văn học, nghệ thuật.
Nguyên nhân của sự sa sút quá đáng của mặt văn hoá, tư tưởng của ta có phải là kết quả của sự lãnh đạo của Đảng: mọi việc phải theo ý lãnh đạo, một hình thức toàn trị về tinh thần, tư tưởng? Nó thui chột mọi sáng tạo cá nhân. Trước đây còn lờ mờ, nhưng nay đã lộ rõ.
Trước đây, văn học, nghệ thuật có phong trào, có chủ soái, có đấu tranh, có ngành phê bình như thơ mới chủ soái là Phan Khôi, Tự lực văn đoàn với Khái Hưng, Nhất Linh, họ sáng tác, họ tranh luận, họ phê bình… Có phong trào rộng khắp trong nhân dân. Thật kỳ lạ! Đó mới là thời kỳ nở rộ về văn hoá, lại xuất hiện trong thời kỳ thuộc địa, dân lại 95% không biết chữ. Phải chăng văn học, nghệ thuật được tự do mới bay bổng? Cái gọi là “tính Đảng”, “lề phải”, “lề trái” trong văn học nghệ thuật, trong thông tấn báo chí là thuốc độc. Có khác gì người uống rượu khen rượu làm cho họ hưng phấn, họ mạnh lên.
đ. Khủng hoảng lãnh đạo:
Lịch sử đã chứng minh, một đất nước vượt lên đều gắn liền với một cá nhân kiệt xuất. Napoleon khi đã là Hoàng đế, triệu tập chuyên gia để làm luật dân sự, sự hiểu biết của ông vê luật làm mọi người ngỡ ngàng. Ông giải thích: khi còn trẻ, là trung uý, đã bị phạt giam, trong phòng giam có sách, ông đọc thế rồi ông nhớ. Đạo luật “Sổ lao động” …là của Napoleon tồn tại đến giờ. Hồ Chí Minh, Lý Quang Diệu, Lý Thừa Vãn, Đặng Tiểu Bình, Tưởng Kinh Quốc đã minh định kết luận trên.
Với cái não trạng, cái lề lối làm việc của chúng ta hiện nay không thể chọn được người tài; ta lấy mục tiêu giữ vững chuyên chính, ai trung thành với ta thì ta chọn, chọn người thân cận, chọn người quanh ta…Người tài thì ở khắp nơi, họ đâu phục ta, quý ta, tin ta mà theo ta, rồi có theo ta lại nhiễm những thói xấu của ta, họ cũng thui chột. Cách của ta chỉ phù hợp với một chế độ đóng cửa, nghĩa là hàng chục năm mọi việc cứ năm sau như năm trước: không xuất cảnh, không Internet, không giao lưu, du học nước ngoài… mọi người câm nín. Giá Đảng Cộng sản Việt Nam giữ như Triều Tiên, Cu Ba…ông Fidel nghỉ, ông Ra-un thay; Ông Kim Nhật Thành mất, Ông In làm, có phải nhẹ nhàng, ăn chắc không!
Có điều rõ ràng nhất, chưa thấy một ai trong số 15 người khổng lồ, tỏ ra có các điều kiện của một chính khách: thiếu nhìn xa, trông rộng, không phân tích được tình hình để có kế sách phù hợp, làm hỏng rồi chữa, nói mãi mà không làm được. Thực ra chưa ai chuẩn bị cho mình thành chính khách, chưa ai đi theo một chính khách đích thực để làm học trò…
Ông Ôbama nói dài, viết dài, xem kỹ lại là các chuyện thời thơ ấu, các điều răn dạy làm người. Ông đi khắp nơi để bàn về hoà bình, sao không còn thấy ông lớn tiếng dài hơi… Cương lĩnh của ông chỉ có 3 chữ: “Phải thay đổi!”. Ông đẩy mạnh hoà bình, dân chủ bằng diễn đàn toàn cầu, bằng lời góp ý với các nước. Có gì rầm rộ đâu! Ông biết rằng chỉ có hoà bình mới ngăn chặn Trung Quốc làm liều, chỉ có dân chủ, nhân quyền người dân Trung Quốc mới đổi thay số phận. Ông không đến Việt Nam nhưng những việc ông làm là nỗi khát khao của Việt Nam: dân chủ và hoà bình. Dân chủ trong ôn hoà mới mong tránh được kiếp chư hầu. Ông Obama được giải thưởng Nobel là đúng. Vừa bước lên sân khấu nhưng giọng hát, lời ca đã đi ngay vào lòng người. Ông Ôbama chuẩn bị cuộc đời mình, cuộc đời của một chính khách xuất sắc, động thái đó hiển hiện ngay từ ngày đầu cầm quyền.
Hôm nay, ai cũng nhận định là tình hình đất nước nhiều bê bối. Nhiều người cho rằng xuất phát từ sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể là từ Bộ chính trị.
Nói cho rõ hơn là từ sau WTO, nếu ta cởi mở về chính trị thì tình hình có thể khác đi, nhưng ta vẫn giữ nguyên nếp cũ. Ngày hôm nay ta ngẫm lại xem, ta vẫn như xưa. Vẫn một nền nếp hội họp, ban hành các quyết định rồi cái thì làm được, cái thì làm được một nửa, có cái nói mà không làm hoặc nói một đàng làm một nẻo… Vẫn dài dòng, thiếu sức sống, cũng ngày càng thêm nặng nề. Nặng nề đến mức tự Bộ chính trị phải kêu ầm lên là suy thoái, nói cả đến việc sẽ bị “tự diễn biến” từ trong nội bộ. Có người nói, nền nếp lãnh đạo của ta 60 năm rồi vẫn thế.
Tình hình chính trị như vậy là do sức sống của Bộ chính trị. Bộ chính trị không có một người gọi là chủ soái, nhóm này hôm nay thiểu số, mai lại đa số, nên có người nói một chính thể mà hai đường lối… mà lại không giữa chừng thay được như người ta, phải chờ đến Đại hội. Đến Đại hội vẫn nhùng nhằng như vậy. Thế là suy thoái dài dài, ta tụt hậu sau các nước cùng cảnh ngộ trước đây nhiều chục năm.
Nói riêng từng người, đến hôm nay không một ai gây được cảm tình từ trong nhân dân, ấy là chưa kể đến có người bị người đời dè bỉu. Kể cũng tội, nhiều người được Cụ Mười, Cụ Anh tôn lên, mà hai Cụ nào có biết ai là người tài. Các Cụ có cái chuẩn là kẻ nào bảo được là trung thành với chế độ, đó là chuẩn số 1. Ai làm cũng được, nên đã có chức, có quyền là tự tin ngay. Đầy tự tin mà kém cỏi thì đúng là: “giao quyền hành cho kẻ kém cỏi, khác nào giao súng cho thằng điên”. Choáng ngợp trước quyền hành, giữ quyền hành đến cùng, nhưng lại không làm được việc, lại không tự giác thừa nhận, do đó bưng bít, tránh né. Và cuối cùng là nội bộ mâu thuẫn, nội bộ đã loại trừ nhau…Đất nước gánh chịu tất cả.
Đó là một cơ chế xây dựng quyền lực lạc hậu, nó kìm hãm sự phát triển. Cơ chế này, lúc này lại phải đối mặt với hai thách thức, cùng một lúc ập đến: ta phải hoà nhập với thế giới phương tây để phát triển. Trung Quốc thâm nhập nước ta, mối đe doạ ta phải phụ thuộc họ đã quá rõ ràng. Bộ máy lãnh đạo tối cao của ta như đang bó tay, thế là ta vừa lạc hậu, vừa nô lệ như một sức nặng đè ta nghẹt thở. Bộ máy lãnh đạo tối cao lúc này như đang nghĩ quẩn, trong một tình thế quẫn.
Tôi không hề oán giận các vị. Vì lẽ con người bị hoàn cảnh chi phối, nhào nặn là lẽ thường. Tiếc rằng các vị không ai được bồi đắp để trở thành chính khách, có quyền lại không có một cơ chế ràng buộc, kiểm soát thì tất yếu xảy ra tình hình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.
Có lẽ lúc này tìm cách để thay đổi, vớt vát lại. Cái gì cho bản thân, cái gì cho đất nước là con đường tốt nhất.
Gần đây việc dùng bạo lực tràn lan: bắt bớ, giam cầm, xét xử các nhà dân chủ, với các tội gán ghép; xô xát, đàn áp giáo dân, phật tử, tu sĩ; bịt miệng, mạt sát các trí thức, bắt bớ, xét xử các nhà báo… Có nghĩa là đánh tất cả. Không hiểu nhà nước, Đảng dựa vào ai để tồn tại? Hay là như người ta nói: khi sắp tan rã thường một chính quyền… tăng cường đàn áp?
Dựa vào công an để tồn tại? Không được, vì một khi trong Bộ chính trị đang có sự chia rẽ thì Công an nghe ai? Công an thi hành các mệnh lệnh đơn lẻ thì được, nhưng đại cục, lúc có biến động lớn thì không thể tin được. Nhân dân biểu tình, ngực đeo biển “Tôi là nhân dân”, tay họ cầm hoa… Liệu những người cầm súng có chúc mũi xuống đất như ta đã thấy khi bức tường Berlin bị rỡ bỏ không? Đó là cảm nhận của đông người.
Dựa vào Trung Quốc để tồn tại? Tôi chưa hiểu dựa như thế nào, không biết kịch bản Trung Quốc cứu sự đổ vỡ của Đảng và chính quyền Việt Nam ra sao. Tôi chỉ thấy con đường duy nhất: tồn tại trong thân phận tôi đòi cho Trung Quốc. Không thể nói là tồn tại mà phải nói là đã bán đứt linh hồn cho quỷ sứ.
Gần đây đã lộ rõ một đường lối của Phương Tây: cụm lại để kiềm chế Trung Quốc. Dù có nhiều điều không bằng lòng họ vẫn hồ hởi với Việt Nam, vì Việt Nam còn yếu, nhưng lại vì “ i giữ được Việt Nam, người ấy chiếm được thế giới!”. Có sai lầm không khi nói: Trung Quốc là một nước có nhiều cà rốt, một nước đã từng dạy Việt Nam về lễ nghi, về cách ứng xử nhưng sao lại dùng cách lấn át, lăng nhục, cướp bóc và tàn sát…Nếu Trung Quốc thật khoẻ còn khá, nếu chỉ là bề ngoài khoẻ thì khả năng Trung Quốc nắm phần thua là điều không thể không xẩy ra.
Trước mắt 15 người khổng lồ, cái bàn cờ độc lập và dân chủ đã bày rõ: đi với Trung Quốc thì mất nước, còn Đảng, còn quyền nhưng lại là đầy tớ; đi với Phương Tây thì mất quyền nhưng còn nước, chỉ mất thân phận tôi đòi. Mà đi với Phương Tây thì phải dân chủ, dân chủ thì phải phát động quần chúng, giao quyền cho quần chúng. Một sự lựa chọn khó khăn cho người này, rõ ràng, dứt khoát cho người kia.
Có thuyết đu đưa giữa hai thế lực và hình như chưa đâu áp dụng - một thuyết đưa hai thằng thông minh vào cuộc có lợi cho thằng dốt! Thế thì chúng ta chọn ra 2 người đi, đưa ông Ôbama và Ông Hồ Cẩm Đào vào cuộc để rồi cử một nhà ngoại giao Việt Nam đứng giữa để thu lợi cho Việt Nam. Thuyết đu đưa giữa 2 thế lực chỉ là cái thuật trong việc tranh chấp cụ thể, không thể đưa thành thuyết nọ, thuyết kia. Ông đại sứ Việt Nam ngồi vào HĐBA Liên Hợp Quốc tuyên bố xanh rờn: “Không phụ thuộc vào nước lớn”, trong khi Trung Quốc lấn át ta bằng đổ máu, bằng giành giật tài nguyên… Thật là cười ra nước mắt.
Đất nước lạc hậu kéo dài đến gần nửa thế kỷ, các việc ta làm đổ bể, mất mát nhiều hơn là được. Thế giới đang biến động mà ta chập chững, loay hoay. Con đường đi lên chỉ thấy khó khăn. Phải chăng ta bị ý thức hệ kìm hãm? Phải chăng chúng ta chỉ là người trưởng thành trong chiến tranh và bao cấp? Phải chăng hoàn cảnh quay lưng lại với chúng ta, hoàn cảnh đã vượt chúng ta, hoàn cảnh đã đào thải chúng ta?
e. Sự thay đổi đã đến gần:
Hay là dân chủ hoá đã đến gần. Hay đúng hơn: Dân chủ hoá là có thể. Xét trong phạm vi trong nước, nếu một lòng để Trung Quốc sai khiến thì coi như mất nước; mất một lúc cả độc lập, tự do, hạnh phúc. Có nghĩa là ta một lúc gạt bỏ lịch sử 4000 năm. Hậu quả là sẽ có biến động, bạo động, ly khai, nổi loạn ở trong nước… Đó là chắc chắn. Không cần biện luận. Đừng hòng có ai sống yên thân.
Xét trong phạm vi thế giới, cái hoạ Trung Quốc coi như cái hoạ toàn cầu, thiên hạ đã dứt khoát như thế. Có các động thái họ cụm lại, cụm để hạn chế Trung Quốc. Mà hạn chế Trung Quốc trước mắt phải giải quyết vấn đề Việt Nam. Ông Ôbama đi khắp nơi rao giảng hoà bình, cố gắng thu hẹp các lò lửa chiến tranh. Ông đang bàn thảo để khôi phục lại các căn cứ quân sự Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương. Thế là vừa lên sân khấu, khúc ca đầu tiên đã cuốn hút lòng người. Giải Nobel của ông không phải là vội vã mà là đích đáng. Các nước Asean lôi kéo Trung Quốc vào bàn đàm phán để hai bên cùng có lợi, ai ngờ việc đầu tiên lại là vấn đề Biển Đông. Thế là lời ông Dương Danh Dy: “phải chống Trung Quốc nhưng Việt Nam đừng chống một mình”. Thế giới đã nghe theo. Lời ông đúng là: “Bụt chùa nhà không thiêng”.
Dân chủ hoá lúc này là có thể. Người Việt Nam không bao giờ chịu làm nô lệ. Người Tàu với Việt Nam hình như bao đời không ưa nhau. Dân chủ hoá, chỉ có các quan tham ở hai nước phản đối vì lo sợ mất tài sản, lo bị trả thù… Một khi lòng yêu nước trỗi dậy họ chấp nhận dân chủ hoá, thế là 100% dân Việt Nam một lòng giữ nước. Các nước trên thế giới: Âu, Mỹ, Asean sẽ hoan nghênh vì trút khỏi nỗi sợ Trung Quốc. Trung Quốc đang bối rối nội bộ, đang che chắn chống phản kháng của thế giới, làm gì có cuộc “động binh” nào chiếm Việt Nam. Cái chủ bài là khống chế được 15 người khổng lồ, nay họ ra đi, thế là hết phép. Truyền thông thế giới nói ít đến khó khăn của Trung Quốc là chưa thoả đáng.
Nói riêng 15 vị khổng lồ, đến ngày hôm nay khi họ đã đánh tất cả các từng lớp nhân dân, công việc thì bê bối, nội bộ chia rẽ đến phải bộc lộ để dân biết, cố gắng bày ra việc này việc nọ, nhưng còn ai tin, ai nghe? Chứng nào, tật nấy: cứ toàn trị, cứ cấm đoán… đến nỗi biểu tình chống hàng Trung Quốc cũng chờ lệnh…Tự nhiên trong cuộc thi thể thao trong nhà lại dám liệt Đài Loan thuộc Trung Quốc, ngang Hồng Kông, Ma Cao…
Can đảm chấp nhận dân chủ hoá là con đường duy nhất. Có bàn cãi chăng chỉ là ở điểm: chuyển đổi như thế nào.
IV. Đảng tách ra làm hai – Một cuộc chỉnh đốn đảng đích thực
a. Hãy chấm dứt một cách hiểu sai lệch:
Cựu tổng thống Bin Clinton nói ở đại học Thanh Hoa: “Phản biện sinh ra chân lý”. Hai phe có những ý kiến khác nhau, đưa ra tranh luận để tìm ra ý kiến đúng nhất, hai bên chấp nhận và cùng nhau hợp tác thực hiện, làm cho mọi việc tốt lên.
Ở ta, nhiều người cho dân chủ là tranh luận để thắng thua… Dân chủ chỉ có đối lập mà không có đồng thuận, không có hợp tác và chung trách nhiệm, chữ đối kháng chữ đa nguyên coi như cấm kỵ ai nói tới điều này là phạm tội hình sự!
Đảng tách ra làm hai là làm theo đúng tiêu chí trên: chân lý, phản biện, đồng thuận, chia sẻ trách nhiệm, cùng hợp tác, cùng thực hiện chân lý, cùng phục vụ nhân dân. Bài học Thái Lan đã chỉ rõ: dân chủ là đấu tranh để tìm ra chân lý, cái phải đạt là đồng thuận, đồng thuận ở Thái Lan đến chậm chạp quá, khi đạt được phải trái, đúng sai, họ sẽ tiến lên. Bảo rằng họ đánh nhau có nghĩa là đa đảng không tốt. Đó là do không hiểu thế nào là dân chủ đa nguyên.
Đảng tách ra làm hai là Đảng vẫn còn, Đảng chấm dứt độc tài, độc đoán, độc quyền chân lý…Đảng sẽ là đảng của dân tộc, của nhân dân một cách đích thực. Đảng mạnh lên, đất nước phồn vinh, dân tộc có chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.
b. Chọn mô thức Đảng tách ra làm hai là một bó buộc:
Toàn trị thì tha hoá. Tha hoá thì suy yếu đi đến tan vỡ. Nói rằng “Đảng tự vỡ”, hôm nay không một ai phản bác nhưng tự vỡ như thế nào thì mọi người ngẩn ngơ.
Có cái gì như thầm lặng nói lên là Đảng ta tiếp tục cầm quyền là khiên cưỡng; không ai trong nhóm cầm quyền có những tố chất của một chính khách; toàn Đảng hiện nay lỏng lẻo đến mức chỉ còn là những người tham quyền. Bao nhiêu năm vẫn giữ đất nước trong vòng lạc hậu; nếu để tiếp tục cầm quyền thì nhất định nước ta sẽ bị nước ngoài thôn tính…Vì thế việc thay đổi như là một đòi hỏi sống còn.
Rà soát lại thì không còn hình thức chuyển đổi nào đã có tiền lệ trong lịch sử: không có phe đối lập để làm việc thay đổi; không có phe đối lập có thể dựa vào nước ngoài để gây ra một cuộc chuyển đổi, nếu có chỉ là một cuộc chuyển đổi để mà mất hết. Trong đội ngũ cầm quyền không có một người, một nhóm nào dám đứng lên để gạt bỏ đối phương để một mình lãnh đạo đất nước; lại không có thể có cuộc xâm lăng quân sự để có người anh hùng giải phóng dân tộc rồi làm vua, làm lãnh tụ…
Còn có những bó buộc khác: Đảng phải tập trung những người ưu tú của dân tộc. Hiện nay thành phần này và như gần hết nằm trong Đảng nhưng bị lép vế với bao nhiêu nỗi niềm đắng cay. Đảng là Đảng cầm quyền, những người có khả năng này là những người nằm trong Đảng, một khi cờ đến tay họ thì gió có yếu, cờ vẫn bay. Chúng ta còn có bao nhiêu người “cộng sản tử tế”, người vào Đảng để phục vụ nhân dân mà không hề băn khoăn cái gọi là ý thức hệ?
Nếu trong việc thực hiện, làm thật khéo léo, được mọi người ủng hộ, người muốn phản đối cũng thấy không có cái gì hơn đành tặc lưỡi chấp nhận, kẻ thù bên ngoài không có chỗ, không có cái lý để can thiệp, và cái yêu cầu nêu rất khiêm tốn, cần đạt được một điểm gốc chứ không đòi hỏi nhiều vì biết rằng dân chủ hoá là một quá trình, còn nhiều gian khổ… Có thể tóm lược các yêu cầu:
Có từ hai đảng, hai đảng kém, hơn hẳn một đảng xấu. Hai đảng thì có phản biện, có công khai, 4 năm một lần dân có thể thổi còi phạt góc, phạt 11m đến truất quyền thi đấu. Nhìn dần quen dần với vai trò làm chủ của mình, chính nhân dân hoàn thiện dần thể chế, có tham khảo những góp ý của các nhà chính trị, văn hoá để đi tới một nền dân chủ dần dần vững chắc.
Đảng viên là người lãnh đạo, đề ra quốc sách, ứng phó mọi cái… Thế thì phải thuộc về trí thức; mà trí thức ở nhiều lĩnh vực, với cái ý nghĩa trí thức là người giải quyết được mọi yêu cầu do cuộc sống của đất nước đặt ra. Vậy thì “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Một tỉnh có đảng bộ độ 50, 70 người, thành phố có 100 đến 200 người mà có tâm, có tầm, khoẻ bằng vạn đảng bộ có 4, 5 hàng con số… Có tâm, có tầm người ta sẽ làm, không gây hậu quả xấu, chỉ có kết quả tốt đẹp.
Việc chuyển đổi sẽ không gây biến động, không làm sáo trộn đất nước, êm ả mà chuyển đổi, chậm chạp và chắc chắn, bó buộc là không ai được để nước ngoài can thiệp, việc làm có tạo ra đồng thuận.
Không đặt ra việc tìm lý luận, đường lối, chủ thuyết. Đây chỉ là bước đi để hình thành tổ chức, cái việc này do tổ chức có chức năng làm. Lý thuyết về Đảng và Hội đã khá phổ biến trên thế giới rồi. Trước mắt phải có tổ chức, tổ chức… Thay đổi sao cho tương ứng với nhiệm vụ, với đặc điểm, đó là việc của từng đảng.
Hình thành tổ chức có thể hình dung: chính những người cộng sản thực hiện việc tách đảng, con người vẫn là cộng sản, không ai cướp quyền của Đảng. Lẽ dĩ nhiên có một số người ngoài Đảng xin gia nhập.
Phải coi việc tách đảng là một cuộc chỉnh đốn Đảng cộng sản hiện đang cầm quyền.
Đảng viên của Đảng đang cầm quyền sẽ chia ra: một số đi theo Đảng mới vừa thành lập, một số vẫn ở trong Đảng như hiện nay, một số sẽ ra khỏi Đảng vì rất nhiều lý do. Các Đảng mới sẽ tự hoạt động. Đảng đang cầm quyền nếu không tự tuyên bố giải thể mà vẫn tồn tại, vẫn hoạt động thì nên tổ chức việc kết nạp lại: những người nhiều tai tiếng, những người không thiết tha với Đảng họ sẽ không đăng ký xin kết nạp lại, thế là bớt đi một phiền nhiễu cả kẻ đi lẫn người ở lại. Các Đảng mới là cứ hoạt động theo một đạo luật mới, đều bình đẳng. Thế là thể chế đa đảng hình thành một cách êm ả.
Không quá coi trọng việc viết văn kiện, việc ra mắt. Cái chính là Quôc hội chấp nhận đại diện tham gia ứng cử Quốc hội lập hiến là mọi việc khai thông.
Giữ nguyên luật pháp hiện hành, luật mới ra đến đâu thì phủ định luật cũ đến đấy, chấp nhận có sự vênh giữa luật và thực tiễn, nhưng chỉ chấp nhận tồn tại thời gian tối thiểu.
Giữ nguyên bộ máy cũ và chấn chỉnh, sửa đổi dần dần, với một nguyên tắc: người cầm đầu phải là người giỏi nhất, người đứng ra chấn chỉnh ngành, chấn chỉnh từ trên xuống. Coi trọng vai trò người cầm đầu, giai đoạn đầu coi như họ tối hậu quyết định.
Giải quyết tham nhũng có ý kiến cần tiếp tục, có phản bác là giai đoạn vừa chuyển đổi, công việc bề bộn, nhân sự chưa ổn định không thể làm việc chống tham nhũng. Có ý khác là vẫn phải làm bằng mọi giá. Lại thêm có ý kiến chống tham nhũng sẽ rối loạn, sẽ không thiếu những đòi hỏi bức xúc, không riêng gì đối với chống tham nhũng và còn nhiều vấn đề của nhiều lĩnh vực khác. Có thể nên dành cho các Đảng được thành lập mở hội nghị bàn tròn để giải quyết.
V. Lộ trình tách đảng và ban vận động thành lập đảng
a. Thái độ của Bộ chính trị quyết định việc chuyển đổi:
Nếu bộ chính trị chưa cho rằng việc chuyển đổi là cần thiết và coi cuộc vận động là một hành vi phiến loạn rồi ra tay cấm đoán và đàn áp thì mọi việc cứ như hiện tình mà tiến bước, dành cho thời gian phân xử. Đó có thể là một sai lầm dẫn đến mất nước, khác gì là Lê Chiêu Thống? Nếu Bộ chính trị nhận thức được tình hình thế giới hiện nay các cường quốc đã quy về một mối. Trung Quốc gặp khó, không thể muốn làm gì Việt Nam thì làm. Nhân cơ hội này Việt Nam chuyển đổi thể chế thì Trung Quốc đành bó tay. Thế là ta thoát nạn và một thế lâu dài được mở ra. Trường hợp này chỉ cần Bộ chính trị mặc nhiên để cuộc chuyển đổi êm ả diễn ra và cao hơn nữa là mở hội nghị bàn tròn giữa Đảng và các tổ chức vừa hình thành bàn bạc. Việc chuyển đổi do quyết định đa phương phác ra. Khi chuyển đổi thể chế ở Ba Lan, Ba Lan đã phải họp 25 cuộc họp liên tịch, có nhiều cuộc kéo dài, thời gian đến nửa năm.
Ở Việt Nam đây là đóng cửa bàn chuyện nhà. Sau khi bàn soạn kéo dài, đưa ra tuyên bố giữ đảng và chính phủ với các đại biểu nhân dân về cuộc thay đổi thể chế.
Công việc trong nước không hề thay đổi. Từ trên mọi việc thay đổi dần dần. Có tuyên bố tin này đến nhân dân. Một số người sẽ không vui nhưng vẫn phải bằng lòng. Cuộc thay đổi trong tinh thần cả nước một lòng, gác lại quá khứ, toàn dân giữ nước, toàn dân một lòng xây dựng tương lai.
b. Tình hình hiện nay:
Trong tình hình chính trị đất nước hiện nay, cảm thấy là khó có người nào đó đứng ra hiệu triệu thành lập một Đảng chính trị, càng khó hơn ai dám bí mật tập hợp một số người để lập Đảng… Dù rằng bản thân người ấy đã là những đảng viên, những quan chức cỡ lớn, có tự tin là mình được nhiều người ái mộ, là mình làm một cuộc dấn thân vì nhân dân. Đây là hạn chế rất lớn. Làm sao để vượt qua? Có thể chấp nhận một bước đi quá độ, một bước thăm dò, một giải pháp để vượt rào có thể thu xếp như sau:
Một số người tự đứng ra vận động thành lập một đảng “Đồng thuận”, có tính Đa nguyên, tự xác định nhiệm vụ, lề lối như sau:
Thành phần là những đảng viên, cán bộ đã làm việc lâu năm trong tổ chức Đảng và tổ chức Nhà nước. Tức là có sự am hiểu nhất định về việc và người. Số người này xác định các đối tượng có thể là nòng cốt cho Đảng cần tổ chức để bàn soạn việc chung và riêng.
Ban vận động cần mời được đủ từ 30 đến 50 đối tượng thì coi như hoàn thành nhiệm vụ. Khi mời được người thứ 5, thứ 7 thì những người được mời dĩ nhiên trở thành thành viên Ban vận động.
Khi con số lên đến 30, 50 thì Ban vận động tự giải thể. Ban phụ trách lâm thời của Đảng được ra đời. Từ ấy, mọi việc là của Ban phụ trách lâm thời.
Ban vận động xét cho cùng là một tổ chức “ lobby chính trị”, một ban liên lạc, một ban thăm dò. Các thành phần trong Ban vận động sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lấy thời điểm các ban phụ trách lâm thời các Đảng làm nhiệm vụ thì tự giải thể. Các thành viên Ban vận động dù có khả năng cũng không được tham gia các ban bệ của Đảng mới.
Việc Bộ chính trị không ngăn chặn, không cấm đoán, không khủng bố những người trong Ban vận động thì mặc nhiên có sự ra đời các Đảng mới, thực chất là các Đảng viên hiện nay tách ra coi như Bộ chính trị bật đèn xanh cho việc chuyển đổi thể chế.
c. Cái mô thức dân chủ hoá có thể bị dập tắt trong quá trình thực hiện vì không có sự đồng thuận của đa số trong Bộ chính trị:
Ngược lại mô thức này thành công ở thời điểm luật Bầu cử Quốc hội được ban bố và các Đảng cử đại biểu tham dự mà không bị cản trở. Cái chốt đã được vứt bỏ, chúng ta không cần bàn nhiều, có biết bao nhiêu tài năng được cởi trói, mọi việc có thể tiến hành rất nhanh ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Cái não trạng tự mình hù doạ mình sẽ được gột rửa.
VI. Vài dòng kết thúc
Trung Quốc hình như đã đi quá đà: thế kỷ 19 là của Anh, thế kỷ 20 là của Mỹ, thế kỷ 21 là của Trung Quốc, nhiều người nói thế và các dấu hiệu đã có. “Trung Quốc là con hổ ngủ”, điều này khi tôi còn nhỏ đã được nghe. Có đến gần 100 năm rồi nhưng vội nói rằng có thể chiếm Việt Nam trong 31 ngày, có thể đánh chiếm Ấn Độ và diệt cả Mỹ… rồi đòi chia đôi biển Thái Bình Dương với Mỹ lấy Hawai làm mốc… Nói thật hay hù doạ. Tôi tin là đã sa đà vào thế đang lên thành ra ngoa ngôn. Các trí thức thế giới hãy nghiên cứu kỹ Trung Quốc để có sự thống nhất nhận định, chỉ đạo cho mọi suy nghĩ và hành động của nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam có lẽ là người xếp hàng số 1 để có được tài liệu này. Người ta còn nghĩ rằng Trung Quốc đang đi vào con đường của Liên Xô.
Một tình thế mới đang hé lộ: các nước lớn đã thấy mối đe doạ của Trung Quốc, họ như đang cụm lại để ngăn chặn Trung Quốc, cả các nước Asean cũng đã đòi tham gia giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông… Khủng hoảng về tài chính cũng làm cho Trung Quốc bị tổn thương, chưa rõ mức độ, khác với trước đây là đa cực nay hình thành như có hai cực… Điều này là một cái may, là một vận hội chưa bao giờ có. Nếu thế giới ngăn chặn được Trung Quốc thì Trung Quốc không thể chèn ép quá mức Việt Nam. Lúc này là lúc Việt Nam nên có thái độ rõ ràng. Thế giới phải giữ Việt Nam. Trung Quốc phải chiếm được Việt Nam. Trung Quốc mạnh hay thế giới mạnh, thời điểm một mất một còn, dù chon lựa gì thì cũng phải theo Phương Tây, mất Đảng còn nước. Theo Phương Đông mất nước, Đảng còn nhưng là cái xác không hồn, thế là mất cả Đảng cả nước, rồi dẫn đến Hán hoá là mất cả dân tộc. Một sự lựa chon không cần phải bàn cãi. Lúc này là lúc dứt điểm. Còn đối với Trung Quốc vẫn giữ hoà hảo như xưa, không sợ quá mức, hãy xem Trung Quốc gần đây đã hạ giọng rồi… Ta cũng phải kiên trì 16 chữ vàng vì đã nói là “chữ” thì chữ bao giờ cũng đúng. Cái sai là giải thích sai, cái sai là lớn hơn, là thực hiện sai. Ta nên lấy 16 chữ vàng để buộc Trung Quốc phải thực thi. Ta phải giao quyền lực cho Quốc hội để làm chỗ dựa đối nhau với Trung Quốc và luôn nhớ rằng ta không biết tự vệ là thiếu sót của ta.
Lúc này hãy nghiêng hẳn về Phương Tây, lúc này chớp thời cơ để dân chủ hoá, Trung Quốc đang lúng túng, chưa thể “động binh” để diệt ta. Đánh lẻ, ăn chắc trong cái thế toàn cục đang chưa ổn định. Phải chăng là điều có thể?
Đất nước ta hôm nay như trong tình trạng nước sôi lửa bỏng: Trước Đại hội X, mong mỏi của nhân dân là mở rộng dân chủ cho dễ thở, có lực để phát triển và chống được tham nhũng. Trước Đại hội sắp tới, việc Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam quá rõ ràng. Mọi suy nghĩ chuyển thành làm sao giữ được độc lập. Tất cả tập trung hy vọng vào việc dân chủ hoá. Dân chủ hoá sẽ giải quyết được việc trước mắt là độc lập, nhưng cũng một lúc giải quyết tham nhũng và mở đường cho phát triển.
Thế là trở lại khẩu hiệu: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” của năm 1945. Dân chủ hoá! Hai chữ ngắn gọn mà ngọt ngào, lại là tất cả trong lúc này.
Luật Sư Trần Lâm
Tháng 11/2009
© Thông Luận 2009
Monday, November 30, 2009
HỌC GIẢ QUỐC TẾ PHÊ PHÁN "ĐƯỜNG LƯỠI BÒ" của TRUNG QUỐC
Học giả quốc tế phê phán đường lưỡi bò của Trung Quốc
Tác giả: Phương Loan
Bài đã được xuất bản.: 30/11/2009 09:00 GMT+7
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-29-hoc-gia-quoc-te-phe-phan-duong-luoi-bo-cua-tq
Trong khi quan điểm của các học giả Trung Quốc đưa ra tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông được xem là "không có gì mới", "vẫn là luận điệu cũ đòi ôm trọn Biển Đông", thì các học giả quốc tế đều lên tiếng phê phán tuyên bố chủ quyền cũng như cách hành xử của Trung Quốc trên Biển Đông.
VietNamNet ghi nhận ý kiến của các học giả quốc tế bên lề Hội thảo quốc tế về Biển Đông diễn ra tại Hà Nội tuần qua. Đáng tiếc, các học giả Trung Quốc tham gia hội thảo viện nhiều lí do đã từ chối trả lời phỏng vấn của báo giới Việt Nam.
Mập mờ, thiếu nghiêm túc
GS Mark J. Valencia (Mỹ):
Tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền với Biển Đông rất mập mờ. Trung Quốc không làm rõ thực ra đường chữ U đó là gì. Khi được đề nghị giải thích về ý nghĩa của đường ranh giới này, là đường biên giới hay là gì khác, họ rất mập mờ: có thể thế, có thể không. Nó cũng giống như cách Mỹ trả lời việc có hay không chuyện Mỹ giúp Đài Loan trong trường hợp Trung Quốc đại lục tấn công. Họ cứ để mập mờ, với cách giải thích mềm như vậy, để người khác phải đoán, còn họ thì cố gắng đạt lợi ích tối đa.
GS Ramses Amer (Thụy Điển):
Trong khi Việt Nam có tuyên bố rõ ràng về từng khu vực chủ quyền và quyền chủ quyền, cơ sở cho từng tuyên bố đó, có định nghĩa pháp lý rõ ràng cho từng khái niệm trong tuyên bố của mình thì tuyên bố của Trung Quốc lại không rõ ràng: từ khu vực tuyên bố chủ quyền tới cơ sở cho tuyên bố của họ.
Có ý kiến nói rằng về mặt hồ sơ, tư liệu, Trung Quốc có sự chuẩn bị tốt hơn. Thực ra, chỉ có tuyên bố chủ quyền mang tính lịch sử mới có thể chuẩn bị tài liệu giấy tờ. Thềm lục địa thì không thể chỉ trên văn bản, mà là thực địa. Dù anh có tuyên bố bao nhiêu vùng biển thuộc chủ quyền của mình thì đó cũng chỉ là tuyên bố mà thôi.
Thế nhưng, thực tế, cũng giống như vấn đề biên giới trên bộ, cuối cùng, các bên phải có cách tiếp cận chung. Cuối cùng, đó là vấn đề của đàm phán, thảo luận.
Sẽ là bất khả thi để đi đến đàm phán nếu như Trung Quốc vẫn không làm rõ tuyên bố của mình.
Đường lưỡi bò không giá trị
GS Lokshin G. Mikhailovich (Nga)
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với tất cả các đảo trên Biển Đông. Họ muốn biến Biển Đông thành hồ của Trung Quốc. Điều đó là không thể chấp nhận được với bất kì nước nào.
Khi còn trẻ, là một phiên dịch, có dịp dịch cho đoàn quan chức Việt Nam tới thăm Liên Xô và có đề cập tới vấn đề Hoàng Sa. Chính sách của Trung Quốc lúc đó rất cứng rắn. Họ lấy lí do là qua nghiên cứu khảo cổ, họ đã phát hiện xương người Trung Quốc ở các đảo thuộc quần đảo này, và do đó, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với quần đảo. Lãnh đạo Việt Nam khi đó đã đáp lời Trung Quốc, hãy tới khảo cổ ở gò Đống Đa và các khu vực xung quanh Hà Nội, họ sẽ tìm thấy nhiều xương của người Trung Quốc hơn nữa.
Rõ ràng, quan điểm của Trung Quốc là hết sức thiếu nghiêm túc, chỉ mang tính tuyên truyền hơn là dựa trên lôgic, và tính pháp lý.
Các nước đã rất nỗ lực để giải quyết vấn đề Biển Đông, thế nhưng tiến trình đã bị ngưng trệ, bởi Trung Quốc áp dụng chính sách 3 không: nói không với quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, nói không với đối thoại đa phương, nói không với bất kì cơ quan thứ 3 nào can dự giải quyết vấn đề Biển Đông. Chính sách đối ngoại 3 không này khiến cho xung đột Biển Đông không có hướng giải quyết.
Điều này gây quan ngại cho nước Nga, bởi nhiều người nghĩ nước Nga xa Biển Đông, nằm ngoài khu vực tranh chấp này. Thực tế không phải như vậy. Nga có lợi ích và mối quan tâm ở Biển Đông, có sự kết nối với khu vực này và là thành viên của một khu vực lớn hơn: khu vực châu Á - TBD. Chúng tôi muốn một khu vực ổn định và hòa bình, đảm bảo tự do thông thương, vận tải và an ninh khu vực...
GS Ian Townsend-Gault (Canada):
Các nước không cần phải lo ngại về đường lưỡi bò mà Trung Quốc đưa ra gần như bao trọn Biển Đông, vì khi Trung Quốc phê chuẩn Công ước Luật Biển của LHQ (UNCLOS), đường lưỡi bò đó trở nên không có giá trị vì theo Công ước, chủ quyền quốc gia được tính từ đường cơ sở ven biển vươn ra bao nhiêu hải lý đã được qui định rõ.
Hơn nữa đường lưỡi bò mà Trung Quốc vẽ không được giới luật gia công nhận. UNCLOS là một văn bản luật quốc tế hiện đại. Một khi phê chuẩn có nghĩa là Trung Quốc phải từ bỏ việc đòi chủ quyền trong đường lưỡi bò.
Nazery Khalid (Malaysia):
Theo đánh giá của giới quan sát, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc có cơ sở pháp lý và lịch sử yếu nhất trong số các nước đưa ra tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Từ góc độ pháp lý, yêu sách của Trung Quốc không phù hợp với bất kì quy định nào của UNCLOS.
"Nên từ bỏ tuyên bố đường ranh giới 9 đoạn"
Tướng Daniel Schaeffer (Pháp):
Năm 1947, cùng với việc chiếm đóng đảo Itu Aba (đảo Ba Bình), lần đầu tiên đ]ường ranh giới trên biển đã xuất hiện trong bản đồ tư nhân, không phải là bản đồ chính thức của Trung Quốc. Bản đồ đó đã vẽ một đường gần như bao trọn Biển Đông. Lúc này đường không vẽ đứt khúc 9 đoạn mà vẽ liền.
Sau đó, vào những năm 1950, đường ranh giới này lại được chia tách thành 11 đoạn và thành đường ranh giới 9 đoạn từ thời Thủ tướng Chu Ân Lai nắm quyền, sau khi xóa bỏ 2 đoạn ở khu vực Vịnh Bắc Bộ.
Điều quan trọng là, thậm chí ngay cả khi đường 9 đoạn này tiếp tục được in trong các bản đồ của Trung Quốc, và khi Trung Quốc luôn bảo vệ những gì mà nước này đã yêu sách chủ quyền với Biển Đông trong khu vực bao quanh bởi 9 đoạn này, cho đến nay, Chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra bất kì một văn bản pháp lý chính thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực được khoanh bởi 9 đoạn này.
Chưa bao giờ được giải thích bởi bất kì một cơ quan, tổ chức nào một cách rõ ràng, chắc chắn, vì thế, bản đồ này hoàn toàn không hợp lệ.
Đường 9 đoạn của Trung Quốc là yếu tố then chốt đầu độc liên tục mối quan hệ liên khu vực xung quanh vùng biển này.
Cùng với việc đưa ra bản đồ này, Trung Quốc đã gây ra sự mơ hồ và lạc lối cho những nhà quan sát trong việc giải thích đúng đắn sự tồn tại của đường ranh giới này.
Để biện hộ cho sự đúng đắn của việc duy trì sự tồn tại của đường ranh giới 9 đoạn, Trung Quốc nói rằng đường này có khoảng cách đều giữa bờ biển của các nước liền kề và các đảo mà Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền.
Bằng cách này, Trung Quốc đang đi ngược lại UNCLOS, khi Công ước quy định cơ chế xác định đường cơ sở này chỉ áp dụng với các quốc gia biển đảo, không phải với các đảo.
Cách thức Trung Quốc định nghĩa vùng lãnh thổ bên ngoài đại lục, ở đại dương không phải cách ứng xử vì hòa bình và ổn định.
Có các luồng quan điểm khác nhau ở Trung Quốc giải thích cho đường ranh giới 9 đoạn này. Có quan điểm của cho rằng Biển Đông là vùng lãnh hải. Thực tế là đường 9 đoạn này đã được vẽ trước khi UNCLOS ra đời. Đó là một thực tế lịch sử. Lại có một số ý kiến cho rằng Biển Đông là vùng nước lịch sử của Trung Quốc.
Cả hai quan điểm này đều không chấp nhận được bởi vì theo như UNCLOS n của LHQ, không có cái được gọi là vùng nước lịch sử. Các vịnh lịch sử thì có, nhưng vùng nước lịch sử thì không.
Coi Biển Đông là vùng lãnh hải cũng không có ý nghĩa bởi lẽ khoảng cách từ bờ biển đến đường ranh giới Trung Quốc tuyên bố gấp nhiều lần khoảng cách cho phép được quy định bởi UNCLOS liên quan đến vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, và thậm chí là thềm lục địa.
Hơn nữa, tuyên bố này theo cách nào đó cũng đối lập với tuyên bố của Trung Quốc cho rằng tất cả các đảo thuộc lãnh thổ Trung Quốc và xem đường cơ sở mà nước này định nghĩa hoặc tưởng tượng xung quanh những đảo như là của một quốc gia biển đảo.
Đường 9 đoạn của Trung Quốc không tương thích với bất kỳ điểm nào của UNCLOS và do đó, không thể áp dụng theo Luật biển.
Hơn nữa, bằng việc tuyên bố chủ quyền trên hầu hết diện tích Biển Đông, Trung Quốc đã không đưa ra một bức tranh về sự nghiêm túc với toàn thế giới. Muốn nhận được sự tôn trọng và được lắng nghe từ cộng đồng quốc tế, Trung Quốc tốt nhất nên từ bỏ đường ranh giới 9 đoạn của mình.
Quan điểm cũng đã được đưa ra bởi GS Zhao Lihai, ĐH Bắc Kinh, người mà sau thời gian bảo vệ cho đường ranh giới 9 đoạn đã nhận ra rằng việc bảo vệ yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông gây tác động ngược với điều mà Trung Quốc đang tìm kiếm: được lắng nghe để thu lợi lớn nhất.
Đơn phương
GS Stein Tonnesson (NaUy):
Quyết định cấm đánh bắt cá của Trung Quốc xuất phát từ mục đích tốt: bảo tồn nguồn cá, đảm bảo nguồn cung cấp cá to lớn, lâu dài cho hàng triệu cư dân sống ở khu vực Biển Đông. Tuy nhiên, vấn đề là Trung Quốc lại thực hiện đơn phương.
Đáng ra, Trung Quốc nên cùng với các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia... thảo luận và thiết lập một cơ chế cấm đánh bắt cá chung. Khi đó, quy định sẽ có hiệu quả thực tế hơn và cũng không làm căng thẳng tình hình Biển Đông.
Đường lưỡi bò không có cơ sở pháp lý
HOÀNG VIỆT
Chủ Nhật, 29/11/2009, 08:40 (GMT+7)
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=350268&ChannelID=3
TT - Mặc dù còn rất nhiều điều chưa kịp nói hoặc kịp tranh luận nhưng hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông đã diễn ra như một nỗ lực lớn của nước chủ nhà trong việc tìm kiếm những gợi ý cho một giải pháp đối với biển Đông từ các nhà khoa học uy tín trên thế giới.
Đây thật sự là một sự kiện quan trọng khi lật lại lịch sử tìm hiểu các cuộc thương lượng để giải quyết căng thẳng trong tranh chấp biển Đông những năm trước (sau này các bên cho ra đời Tuyên bố về các quy tắc ứng xử giữa các bên liên quan trong biển Đông năm 2002) đều được bắt đầu từ các cuộc hội thảo giống như hội thảo này.
Ngoài các tham luận được trình bày rất công phu, những trao đổi giữa các học giả cũng diễn ra hết sức sôi nổi và thú vị. Một trong những vấn đề trao đổi giữa các học giả là đường lưỡi bò (đường chữ U).
Trong tham luận của học giả Trung Quốc Ji Guoxing, mặc dù với chủ đề “Các vấn đề pháp lý biển và hợp tác an ninh trên biển Đông”, ông cũng nhắc tới đường chữ U và nhắc lại rằng vùng nước bên trong đường chữ U đó là “vùng nước lịch sử” của Trung Quốc và Trung Quốc có một “danh nghĩa lịch sử” đối với các đảo, đá trong vùng đó.
Tiếp sau đó, tham luận của đại diện VN là tiến sĩ Trần Công Trục (nguyên trưởng Ban biên giới Chính phủ) khẳng định rằng VN có đầy đủ bằng chứng cả về lịch sử lẫn pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển Đông, còn Trung Quốc gần như không có lập luận pháp lý nào ngoài việc sử dụng sức mạnh.
Ha Djim Djalam, học giả Indonesia, nhắc lại rằng ngay từ một hội thảo năm 1994 về biển Đông, ông đã chất vấn các học giả Trung Quốc về quy chế pháp lý của đường lưỡi bò này là gì và ông vẫn chưa nhận được lời đáp từ các học giả Trung Quốc.
Sau đó, GS Li Jinming (học giả Trung Quốc) có trình bày rằng nhiều người hiểu sai về đường chữ U, chính quyền Trung Quốc chỉ yêu sách rằng các đảo, đá trong đường chữ U này là thuộc quyền Trung Quốc, coi đường này như một đường quy thuộc các đảo và hiện nay các học giả Trung Quốc vẫn chưa thống nhất được tính chất pháp lý của đường chữ U này như thế nào.
GS Yann Huei Song (một học giả Đài Loan nổi tiếng nghiên cứu về đường chữ U) cho rằng đường chữ U này thật ra không có cơ sở pháp lý nào cả, nó không phải là một lập luận phản ánh cơ sở pháp lý mà chỉ đơn thuần thể hiện ý chí chính trị của lãnh đạo Trung Quốc trong tham vọng muốn trở thành cường quốc.
GS Ramses Amer (Thụy Điển) cho rằng đường chữ U hoàn toàn không có cơ sở pháp lý nào trong luật pháp quốc tế, một đường mà hoàn toàn không ổn định, không có gì để xác định đường ấy một cách chính xác cả, chưa kể tới việc nó thay đổi từ 11 đoạn còn 9 đoạn thì thật là không chấp nhận được đối với một đường biên giới quốc tế.
Học giả của Philippines cho rằng yêu cầu của Trung Quốc đòi hỏi cho mỗi đảo thuộc Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý là không thể được, bởi vì tất cả các đảo này đều quá nhỏ, không đủ điều kiện cho con người sinh sống trên đó, nên không thể gọi là đảo theo quy định trong điều 121 Công ước luật biển năm 1982.
Học giả Nga Voronin cho rằng luận điểm tìm thấy các đồ vật khảo cổ trên một số đảo nào đó ở biển Đông, rồi từ đó khẳng định chủ quyền đối với các đảo đó là không khoa học một chút nào. Ông ví dụ nếu đào trong điện Kremlin ở Matxcơva lên thấy mấy khẩu thần công của quân đội Napoleon, để rồi từ đó khẳng định vùng đất đó thuộc chủ quyền của Pháp thì hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Tất cả học giả đều đồng ý với nhau một số điểm. Thứ nhất, vai trò của biển Đông đối với an ninh và sự phát triển của khu vực là rất lớn, vì vậy không nên để xảy ra tình trạng xung đột trên biển Đông, như vậy ảnh hưởng rất lớn đến tình hình thế giới. Thứ hai, biện pháp khả thi nhất cho giải quyết tranh chấp là hợp tác phát triển chung giữa các quốc gia liên quan, trong đó hợp tác về nhiều mặt từ khai thác tài nguyên biển đến chống cướp biển, chống ô nhiễm môi trường biển...
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng đầu tiên trong việc hợp tác phát triển chung là phải xây dựng được lòng tin giữa các bên liên quan. Việc xây dựng lòng tin có thể khởi đầu thông qua các hội thảo khoa học diễn ra tại nhiều nước trong khu vực. Đây là điểm khởi đầu quan trọng để đưa ra ý tưởng cho việc giải quyết tranh chấp biển này. Thứ ba, ngoại trừ các học giả Trung Quốc, các nhà khoa học các nước đều phản đối và không chấp nhận yêu sách về đường lưỡi bò của Trung Quốc, bởi vì nó hoàn toàn không có cơ sở pháp lý nào cả.
HOÀNG VIỆT
Thạc sĩ Hoàng Việt (giảng viên Khoa luật, đại học Quốc gia TP.HCM) là một trong số các học giả VN vừa tham dự hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông.
Tham luận của ông có chủ đề “ASEAN với triển vọng giải quyết tranh chấp biển Đông” đã được trình bày tại phiên sáng 27-11.
Kết thúc hội thảo, ông có bài này gửi Tuổi Trẻ ghi nhận ý kiến của các học giả quốc tế về những điều vô lý trong yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông (đường lưỡi bò).
Tác giả: Phương Loan
Bài đã được xuất bản.: 30/11/2009 09:00 GMT+7
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-29-hoc-gia-quoc-te-phe-phan-duong-luoi-bo-cua-tq
Trong khi quan điểm của các học giả Trung Quốc đưa ra tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông được xem là "không có gì mới", "vẫn là luận điệu cũ đòi ôm trọn Biển Đông", thì các học giả quốc tế đều lên tiếng phê phán tuyên bố chủ quyền cũng như cách hành xử của Trung Quốc trên Biển Đông.
VietNamNet ghi nhận ý kiến của các học giả quốc tế bên lề Hội thảo quốc tế về Biển Đông diễn ra tại Hà Nội tuần qua. Đáng tiếc, các học giả Trung Quốc tham gia hội thảo viện nhiều lí do đã từ chối trả lời phỏng vấn của báo giới Việt Nam.
Mập mờ, thiếu nghiêm túc
GS Mark J. Valencia (Mỹ):
Tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền với Biển Đông rất mập mờ. Trung Quốc không làm rõ thực ra đường chữ U đó là gì. Khi được đề nghị giải thích về ý nghĩa của đường ranh giới này, là đường biên giới hay là gì khác, họ rất mập mờ: có thể thế, có thể không. Nó cũng giống như cách Mỹ trả lời việc có hay không chuyện Mỹ giúp Đài Loan trong trường hợp Trung Quốc đại lục tấn công. Họ cứ để mập mờ, với cách giải thích mềm như vậy, để người khác phải đoán, còn họ thì cố gắng đạt lợi ích tối đa.
GS Ramses Amer (Thụy Điển):
Trong khi Việt Nam có tuyên bố rõ ràng về từng khu vực chủ quyền và quyền chủ quyền, cơ sở cho từng tuyên bố đó, có định nghĩa pháp lý rõ ràng cho từng khái niệm trong tuyên bố của mình thì tuyên bố của Trung Quốc lại không rõ ràng: từ khu vực tuyên bố chủ quyền tới cơ sở cho tuyên bố của họ.
Có ý kiến nói rằng về mặt hồ sơ, tư liệu, Trung Quốc có sự chuẩn bị tốt hơn. Thực ra, chỉ có tuyên bố chủ quyền mang tính lịch sử mới có thể chuẩn bị tài liệu giấy tờ. Thềm lục địa thì không thể chỉ trên văn bản, mà là thực địa. Dù anh có tuyên bố bao nhiêu vùng biển thuộc chủ quyền của mình thì đó cũng chỉ là tuyên bố mà thôi.
Thế nhưng, thực tế, cũng giống như vấn đề biên giới trên bộ, cuối cùng, các bên phải có cách tiếp cận chung. Cuối cùng, đó là vấn đề của đàm phán, thảo luận.
Sẽ là bất khả thi để đi đến đàm phán nếu như Trung Quốc vẫn không làm rõ tuyên bố của mình.
Đường lưỡi bò không giá trị
GS Lokshin G. Mikhailovich (Nga)
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với tất cả các đảo trên Biển Đông. Họ muốn biến Biển Đông thành hồ của Trung Quốc. Điều đó là không thể chấp nhận được với bất kì nước nào.
Khi còn trẻ, là một phiên dịch, có dịp dịch cho đoàn quan chức Việt Nam tới thăm Liên Xô và có đề cập tới vấn đề Hoàng Sa. Chính sách của Trung Quốc lúc đó rất cứng rắn. Họ lấy lí do là qua nghiên cứu khảo cổ, họ đã phát hiện xương người Trung Quốc ở các đảo thuộc quần đảo này, và do đó, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với quần đảo. Lãnh đạo Việt Nam khi đó đã đáp lời Trung Quốc, hãy tới khảo cổ ở gò Đống Đa và các khu vực xung quanh Hà Nội, họ sẽ tìm thấy nhiều xương của người Trung Quốc hơn nữa.
Rõ ràng, quan điểm của Trung Quốc là hết sức thiếu nghiêm túc, chỉ mang tính tuyên truyền hơn là dựa trên lôgic, và tính pháp lý.
Các nước đã rất nỗ lực để giải quyết vấn đề Biển Đông, thế nhưng tiến trình đã bị ngưng trệ, bởi Trung Quốc áp dụng chính sách 3 không: nói không với quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, nói không với đối thoại đa phương, nói không với bất kì cơ quan thứ 3 nào can dự giải quyết vấn đề Biển Đông. Chính sách đối ngoại 3 không này khiến cho xung đột Biển Đông không có hướng giải quyết.
Điều này gây quan ngại cho nước Nga, bởi nhiều người nghĩ nước Nga xa Biển Đông, nằm ngoài khu vực tranh chấp này. Thực tế không phải như vậy. Nga có lợi ích và mối quan tâm ở Biển Đông, có sự kết nối với khu vực này và là thành viên của một khu vực lớn hơn: khu vực châu Á - TBD. Chúng tôi muốn một khu vực ổn định và hòa bình, đảm bảo tự do thông thương, vận tải và an ninh khu vực...
GS Ian Townsend-Gault (Canada):
Các nước không cần phải lo ngại về đường lưỡi bò mà Trung Quốc đưa ra gần như bao trọn Biển Đông, vì khi Trung Quốc phê chuẩn Công ước Luật Biển của LHQ (UNCLOS), đường lưỡi bò đó trở nên không có giá trị vì theo Công ước, chủ quyền quốc gia được tính từ đường cơ sở ven biển vươn ra bao nhiêu hải lý đã được qui định rõ.
Hơn nữa đường lưỡi bò mà Trung Quốc vẽ không được giới luật gia công nhận. UNCLOS là một văn bản luật quốc tế hiện đại. Một khi phê chuẩn có nghĩa là Trung Quốc phải từ bỏ việc đòi chủ quyền trong đường lưỡi bò.
Nazery Khalid (Malaysia):
Theo đánh giá của giới quan sát, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc có cơ sở pháp lý và lịch sử yếu nhất trong số các nước đưa ra tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Từ góc độ pháp lý, yêu sách của Trung Quốc không phù hợp với bất kì quy định nào của UNCLOS.
"Nên từ bỏ tuyên bố đường ranh giới 9 đoạn"
Tướng Daniel Schaeffer (Pháp):
Năm 1947, cùng với việc chiếm đóng đảo Itu Aba (đảo Ba Bình), lần đầu tiên đ]ường ranh giới trên biển đã xuất hiện trong bản đồ tư nhân, không phải là bản đồ chính thức của Trung Quốc. Bản đồ đó đã vẽ một đường gần như bao trọn Biển Đông. Lúc này đường không vẽ đứt khúc 9 đoạn mà vẽ liền.
Sau đó, vào những năm 1950, đường ranh giới này lại được chia tách thành 11 đoạn và thành đường ranh giới 9 đoạn từ thời Thủ tướng Chu Ân Lai nắm quyền, sau khi xóa bỏ 2 đoạn ở khu vực Vịnh Bắc Bộ.
Điều quan trọng là, thậm chí ngay cả khi đường 9 đoạn này tiếp tục được in trong các bản đồ của Trung Quốc, và khi Trung Quốc luôn bảo vệ những gì mà nước này đã yêu sách chủ quyền với Biển Đông trong khu vực bao quanh bởi 9 đoạn này, cho đến nay, Chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra bất kì một văn bản pháp lý chính thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực được khoanh bởi 9 đoạn này.
Chưa bao giờ được giải thích bởi bất kì một cơ quan, tổ chức nào một cách rõ ràng, chắc chắn, vì thế, bản đồ này hoàn toàn không hợp lệ.
Đường 9 đoạn của Trung Quốc là yếu tố then chốt đầu độc liên tục mối quan hệ liên khu vực xung quanh vùng biển này.
Cùng với việc đưa ra bản đồ này, Trung Quốc đã gây ra sự mơ hồ và lạc lối cho những nhà quan sát trong việc giải thích đúng đắn sự tồn tại của đường ranh giới này.
Để biện hộ cho sự đúng đắn của việc duy trì sự tồn tại của đường ranh giới 9 đoạn, Trung Quốc nói rằng đường này có khoảng cách đều giữa bờ biển của các nước liền kề và các đảo mà Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền.
Bằng cách này, Trung Quốc đang đi ngược lại UNCLOS, khi Công ước quy định cơ chế xác định đường cơ sở này chỉ áp dụng với các quốc gia biển đảo, không phải với các đảo.
Cách thức Trung Quốc định nghĩa vùng lãnh thổ bên ngoài đại lục, ở đại dương không phải cách ứng xử vì hòa bình và ổn định.
Có các luồng quan điểm khác nhau ở Trung Quốc giải thích cho đường ranh giới 9 đoạn này. Có quan điểm của cho rằng Biển Đông là vùng lãnh hải. Thực tế là đường 9 đoạn này đã được vẽ trước khi UNCLOS ra đời. Đó là một thực tế lịch sử. Lại có một số ý kiến cho rằng Biển Đông là vùng nước lịch sử của Trung Quốc.
Cả hai quan điểm này đều không chấp nhận được bởi vì theo như UNCLOS n của LHQ, không có cái được gọi là vùng nước lịch sử. Các vịnh lịch sử thì có, nhưng vùng nước lịch sử thì không.
Coi Biển Đông là vùng lãnh hải cũng không có ý nghĩa bởi lẽ khoảng cách từ bờ biển đến đường ranh giới Trung Quốc tuyên bố gấp nhiều lần khoảng cách cho phép được quy định bởi UNCLOS liên quan đến vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, và thậm chí là thềm lục địa.
Hơn nữa, tuyên bố này theo cách nào đó cũng đối lập với tuyên bố của Trung Quốc cho rằng tất cả các đảo thuộc lãnh thổ Trung Quốc và xem đường cơ sở mà nước này định nghĩa hoặc tưởng tượng xung quanh những đảo như là của một quốc gia biển đảo.
Đường 9 đoạn của Trung Quốc không tương thích với bất kỳ điểm nào của UNCLOS và do đó, không thể áp dụng theo Luật biển.
Hơn nữa, bằng việc tuyên bố chủ quyền trên hầu hết diện tích Biển Đông, Trung Quốc đã không đưa ra một bức tranh về sự nghiêm túc với toàn thế giới. Muốn nhận được sự tôn trọng và được lắng nghe từ cộng đồng quốc tế, Trung Quốc tốt nhất nên từ bỏ đường ranh giới 9 đoạn của mình.
Quan điểm cũng đã được đưa ra bởi GS Zhao Lihai, ĐH Bắc Kinh, người mà sau thời gian bảo vệ cho đường ranh giới 9 đoạn đã nhận ra rằng việc bảo vệ yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông gây tác động ngược với điều mà Trung Quốc đang tìm kiếm: được lắng nghe để thu lợi lớn nhất.
Đơn phương
GS Stein Tonnesson (NaUy):
Quyết định cấm đánh bắt cá của Trung Quốc xuất phát từ mục đích tốt: bảo tồn nguồn cá, đảm bảo nguồn cung cấp cá to lớn, lâu dài cho hàng triệu cư dân sống ở khu vực Biển Đông. Tuy nhiên, vấn đề là Trung Quốc lại thực hiện đơn phương.
Đáng ra, Trung Quốc nên cùng với các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia... thảo luận và thiết lập một cơ chế cấm đánh bắt cá chung. Khi đó, quy định sẽ có hiệu quả thực tế hơn và cũng không làm căng thẳng tình hình Biển Đông.
Đường lưỡi bò không có cơ sở pháp lý
HOÀNG VIỆT
Chủ Nhật, 29/11/2009, 08:40 (GMT+7)
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=350268&ChannelID=3
TT - Mặc dù còn rất nhiều điều chưa kịp nói hoặc kịp tranh luận nhưng hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông đã diễn ra như một nỗ lực lớn của nước chủ nhà trong việc tìm kiếm những gợi ý cho một giải pháp đối với biển Đông từ các nhà khoa học uy tín trên thế giới.
Đây thật sự là một sự kiện quan trọng khi lật lại lịch sử tìm hiểu các cuộc thương lượng để giải quyết căng thẳng trong tranh chấp biển Đông những năm trước (sau này các bên cho ra đời Tuyên bố về các quy tắc ứng xử giữa các bên liên quan trong biển Đông năm 2002) đều được bắt đầu từ các cuộc hội thảo giống như hội thảo này.
Ngoài các tham luận được trình bày rất công phu, những trao đổi giữa các học giả cũng diễn ra hết sức sôi nổi và thú vị. Một trong những vấn đề trao đổi giữa các học giả là đường lưỡi bò (đường chữ U).
Trong tham luận của học giả Trung Quốc Ji Guoxing, mặc dù với chủ đề “Các vấn đề pháp lý biển và hợp tác an ninh trên biển Đông”, ông cũng nhắc tới đường chữ U và nhắc lại rằng vùng nước bên trong đường chữ U đó là “vùng nước lịch sử” của Trung Quốc và Trung Quốc có một “danh nghĩa lịch sử” đối với các đảo, đá trong vùng đó.
Tiếp sau đó, tham luận của đại diện VN là tiến sĩ Trần Công Trục (nguyên trưởng Ban biên giới Chính phủ) khẳng định rằng VN có đầy đủ bằng chứng cả về lịch sử lẫn pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển Đông, còn Trung Quốc gần như không có lập luận pháp lý nào ngoài việc sử dụng sức mạnh.
Ha Djim Djalam, học giả Indonesia, nhắc lại rằng ngay từ một hội thảo năm 1994 về biển Đông, ông đã chất vấn các học giả Trung Quốc về quy chế pháp lý của đường lưỡi bò này là gì và ông vẫn chưa nhận được lời đáp từ các học giả Trung Quốc.
Sau đó, GS Li Jinming (học giả Trung Quốc) có trình bày rằng nhiều người hiểu sai về đường chữ U, chính quyền Trung Quốc chỉ yêu sách rằng các đảo, đá trong đường chữ U này là thuộc quyền Trung Quốc, coi đường này như một đường quy thuộc các đảo và hiện nay các học giả Trung Quốc vẫn chưa thống nhất được tính chất pháp lý của đường chữ U này như thế nào.
GS Yann Huei Song (một học giả Đài Loan nổi tiếng nghiên cứu về đường chữ U) cho rằng đường chữ U này thật ra không có cơ sở pháp lý nào cả, nó không phải là một lập luận phản ánh cơ sở pháp lý mà chỉ đơn thuần thể hiện ý chí chính trị của lãnh đạo Trung Quốc trong tham vọng muốn trở thành cường quốc.
GS Ramses Amer (Thụy Điển) cho rằng đường chữ U hoàn toàn không có cơ sở pháp lý nào trong luật pháp quốc tế, một đường mà hoàn toàn không ổn định, không có gì để xác định đường ấy một cách chính xác cả, chưa kể tới việc nó thay đổi từ 11 đoạn còn 9 đoạn thì thật là không chấp nhận được đối với một đường biên giới quốc tế.
Học giả của Philippines cho rằng yêu cầu của Trung Quốc đòi hỏi cho mỗi đảo thuộc Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý là không thể được, bởi vì tất cả các đảo này đều quá nhỏ, không đủ điều kiện cho con người sinh sống trên đó, nên không thể gọi là đảo theo quy định trong điều 121 Công ước luật biển năm 1982.
Học giả Nga Voronin cho rằng luận điểm tìm thấy các đồ vật khảo cổ trên một số đảo nào đó ở biển Đông, rồi từ đó khẳng định chủ quyền đối với các đảo đó là không khoa học một chút nào. Ông ví dụ nếu đào trong điện Kremlin ở Matxcơva lên thấy mấy khẩu thần công của quân đội Napoleon, để rồi từ đó khẳng định vùng đất đó thuộc chủ quyền của Pháp thì hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Tất cả học giả đều đồng ý với nhau một số điểm. Thứ nhất, vai trò của biển Đông đối với an ninh và sự phát triển của khu vực là rất lớn, vì vậy không nên để xảy ra tình trạng xung đột trên biển Đông, như vậy ảnh hưởng rất lớn đến tình hình thế giới. Thứ hai, biện pháp khả thi nhất cho giải quyết tranh chấp là hợp tác phát triển chung giữa các quốc gia liên quan, trong đó hợp tác về nhiều mặt từ khai thác tài nguyên biển đến chống cướp biển, chống ô nhiễm môi trường biển...
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng đầu tiên trong việc hợp tác phát triển chung là phải xây dựng được lòng tin giữa các bên liên quan. Việc xây dựng lòng tin có thể khởi đầu thông qua các hội thảo khoa học diễn ra tại nhiều nước trong khu vực. Đây là điểm khởi đầu quan trọng để đưa ra ý tưởng cho việc giải quyết tranh chấp biển này. Thứ ba, ngoại trừ các học giả Trung Quốc, các nhà khoa học các nước đều phản đối và không chấp nhận yêu sách về đường lưỡi bò của Trung Quốc, bởi vì nó hoàn toàn không có cơ sở pháp lý nào cả.
HOÀNG VIỆT
Thạc sĩ Hoàng Việt (giảng viên Khoa luật, đại học Quốc gia TP.HCM) là một trong số các học giả VN vừa tham dự hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông.
Tham luận của ông có chủ đề “ASEAN với triển vọng giải quyết tranh chấp biển Đông” đã được trình bày tại phiên sáng 27-11.
Kết thúc hội thảo, ông có bài này gửi Tuổi Trẻ ghi nhận ý kiến của các học giả quốc tế về những điều vô lý trong yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông (đường lưỡi bò).
KHI NHà Văn PHẠM ĐÌNH TRỌNG Vĩnh Biệt ĐẢNG CỘNG SẢN
Khi nhà văn Phạm Đình Trọng vĩnh biệt đảng Cộng sản
Bùi Tín viết riêng cho VOA
30/11/2009
http://www.voanews.com/vietnamese/2009-11-30-voa11.cfm
Nhà văn Phạm Đình Trọng vừa tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản. Tin này đang làm xôn xao hàng ngũ các nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh và anh chị em trí thức, sinh viên và học sinh ở trong nước. Vì Phạm Đình Trọng là một khuôn mặt được quen biết rộng rãi, một nhà văn của quần chúng, một nhà báo gắn liền với thời sự quê hương, một nhà thơ có cốt cách dân gian, được tuổi trẻ ngưỡng mộ, gần đây được cư dân bloggers trong nước quý mến.
Tôi quen biết Phạm Đình Trọng từ cuối những năm 70, khi anh là sỹ quan thông tin, thỉnh thoảng gửi tin và lời bình luận cho báo Quân đội Nhân dân.
Trọng rất chịu khó đi, đi nhiều và đi xa, có mặt ở những địa điểm hiểm yếu, ít người đến được. Anh từng đi dọc Trường Sơn, cả phía Đông và phía Tây, xuống tận Hòn Khoai, đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, ra tận Trường Sa, rồi lên tận Vị Xuyên, Hà Giang khi còn nặng mùi thuốc súng. Tôi còn nhớ những sổ ghi chép dày của anh và chiếc máy ảnh khoác vai; một nhà báo xông xáo nhưng trầm tư, con người sống sâu sắc, lại rất tình cảm.
Tôi cũng có dịp ghé quê anh, ở huyện Tiên Lữ, Hưng Yên, quê của nhãn lồng, nhãn tiến, với những đầm sen thơm nức, và làng Thiện Phiến của Trọng, nổi tiếng về táo, quả táo ta tròn mọng, thơm béo, xâu từng chuỗi dài, đông khách mua ở cổng trường trung học.
Trọng học Đại học Văn, từng qua Trường Viết Văn Nguyễn Du, rồi về làm báo ở Thời báo Tài chính. Trọng có những tác phẩm gây tiếng vang, do tính ngay thật của anh, "dọc đường thấy chuyện bất bình chẳng tha"...
Cuốn "Rừng và Biển" và "Sự Tích Đảo" kết hợp khoa học với trữ tình được bạn đọc trẻ ưa thích. Cuốn "Thời nghịch lý" tô đậm thời sự nóng hổi đất nước gây nhiều tranh cãi. Bài báo "Tiếng Hà Nội " của anh làm xôn xao giới giáo dục và học sinh. Nhưng bài báo dài gây phản ứng mạnh, đồng tình mạnh mẽ mà phản ứng cũng gay gắt là "Ăn Mày Dĩ Vãng "trên mạng Talawas, đề cập đến cuộc vận động học tập đạo đức Hồ Chí Minh mà tác giả cho là giả dối, một vở kịch suy đồi, đầy tính chất đạo đức giả.
Phạm Đình Trọng gần đây trở thành một gương mặt kẻ sỹ Bắc Hà mang bản chất phản biện khá quyết liệt.
Con người của Trọng có tư chất đấu tranh sâu sắc còn ở chỗ anh là một chiến sỹ, một "con nhà võ" có nòi, vì quê anh có nhiều lò võ cổ truyền, bản thân anh rất sùng võ nghệ, anh từng luyện võ gian khổ, thành một võ sư quyền thuật cổ truyền.
Ngày 3-3-2009, nhà báo Phạm Đình Trọng gửi lá thư cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng góp ý, kiến nghị, chất vấn, nhân danh một công dân, về những chuyện lớn lao của quốc gia, từ chống tham nhũng đến bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo của tổ quốc, về chủ trương nguy hiểm tệ hại khai thác bô-xít trên Tây Nguyên...
Ngày 20-11-2009, khi Phạm Đình Trọng tuyên bố công khai vĩnh biệt đảng Cộng sản sau gần 40 năm trong đảng, tôi cho là một bước tất yếu.
Cũng như ông Trần Độ từ bỏ hết danh nghĩa hão huyền trung tướng, hàng tá huân chương vô duyên, danh nghĩa đảng viên mai mỉa, để trở về với quần chúng và lẽ phải, đòi lại quyền tự do cho bà con mình; như ông Hoàng Minh Chính từ bỏ đảng cộng sản để trở về xây dựng đảng dân chủ (mới) của thế kỷ 21, như hàng trăm ngàn đảng viên từ bỏ sinh hoạt đảng cộng sản, ngấm ngầm vĩnh biệt đảng, quay lưng lại với đảng.
Hãy nghe ông tổng bí thư Nông Đức Mạnh và ông trưởng ban tuyên gíáo Tô Huy Rứa la trời lên về hiện tượng "nhạt lý tưởng", "nhạt đảng" lan tràn trong đảng, về hiện tượng đảng bị suy yếu, xói mòn, khinh thị và chê bai bởi nhân dân, về nguy cơ mà bộ chính trị cộng sản gọi là "tự diễn biến hoà bình", nghĩa là tự nó rã rời, rữa nát, tự nó phá nó từ nhũng căn bệnh hiểm nghèo trong lục phủ ngũ tạng, nặng nề nhất là bệnh quan liêu, tham nhũng, cướp đất cướp của của dân, cậy quyền thế áp bức hà hiếp dân đen, kết bè phái để làm giàu trên tiền của của đất nước và nhân dân.
Cái danh nghĩa "đảng viên cộng sản" càng thêm tủi nhục khi trong thế giới văn minh đã kết luận rành rọt rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội hiện thực (bao gốm toàn phe XHCN trước đây mà đảng CS Việt nam là một thành viên) là tội ác lớn nhất, là sai lầm lịch sử lớn nhất trong thế kỷ 20.
Xin hãy nghe ông Đặng Quốc Bảo, từng là trung tướng, uỷ viên trung ương đảng Cộng sản, trưởng ban Khoa giáo trung ương đảng, từng từ bỏ chức Bí thư thứ nhất Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí Minh, phát biểu đầu năm nay: "Sai lầm lớn nhất của Đoàn thanh niên CS năm 2008 là đã giới thiệu 15 vạn thanh niên vào đảng cộng sản, mà đều không phải là thanh niên ưu tú, lại toàn là thanh niên cơ hội, vào đảng chỉ do động cơ vụ lợi cá nhân"...Một nhận định sâu sắc, điểm đúng huyệt, từ bên trong.
Cho nên nhà văn Phạm Đình Trọng chào vĩnh biệt đảng Cộng sản đâu là chuyện lạ. Sẽ còn nhiều, rất nhiều đảng viên Cộng sản vỡ mộng, tự trọng, kiên cường chọn cho mình con đường danh dự mà lương tâm và lòng yêu nước trong sáng mách bảo.
Từ Pháp, nhân danh người từng quen biết anh, cũng từng vỡ mộng từ trong đảng Cộng sản để trở thành nhà báo tự do của nhân dân, tôi xin ngả mũ kính chào anh, một nhà văn tự do cao quý!
------------------------------------------
Nhà văn Phạm Đình Trọng: Thông báo về việc từ bỏ đảng tịch đảng viên Đảng Cộng sản (bauxite Vietnam)
Thông báo về việc từ bỏ đảng tịch đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam (thông luận)
Nhà văn Phạm Đình Trọng sinh năm 1944 tại Hải Phòng, hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Một số tác phẩm của ông đã xuất bản bao gồm: Rừng và biển (1981), Một sự nổi tiếng (1987), Sự tích đảo (1993), Cuộc gặp gỡ muộn màng (1994), Ve ve nói chẳng thèm nghe (1995), Niềm vui lớn của mẹ (2004), Một thuở (2008)…Bài liên quan:
• “Thư gửi Thủ tướng về vấn đề khai thác bauxit Tây Nguyên” . Thông Luận, ngày 07/03/2009.
• “Ăn mày dĩ vãng – thực chất cuộc vận động học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”. Thông Luận, ngày 14/07/2009.
• “Thời nghịch lí”. Thông Luận, ngày 30/09/2009.
CÔNG AN KHÁNH HOÀ TRỤC XUẤT TĂNG NI BÁT NHÃ KHỎI CHÙA TỪ ĐỨC
Tại Việt Nam, Công an tỉnh Khánh Hòa trục xuất tăng ni Bát Nhã tạm trú ở chùa Từ Đức
Tú Anh
Bài đăng ngày 30/11/2009 - Cập nhật lần cuối ngày 30/11/2009 15:52 TU
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/119/article_5878.asp
Theo nguồn tin gởi đi từ chùa Từ Đức, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, chiều 29/11/2009, công an địa phương đã đến chùa Từ Đức bắt 1 nam tu sĩ và 19 ni cô Bát Nhã rời khỏi chùa. Vào lúc 20g15, tất cả phải lên xe dưới sự theo dõi của công an mặc sắc phục và thường phục.
20 tăng ni này là một bộ phận của tăng thân Bát Nhã bị nhà nước dùng bạo lực đuổi khỏi tu viện Bát Nhã, tỉnh Lâm Đồng hôm 27 tháng 9 , cách nay 2 tháng. Các tu sĩ này được Thượng tọa Giác Viên, trụ trì chùa Từ Đức ở Khánh Hòa đón nhận để có nơi tiếp tục tu thiền.
Dựa theo công văn 037 và 429 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam , cho phép « các vị trụ trì trực thuộc giáo hội bảo lãnh tăng thân Bát Nhã, và chính quyền địa phương phải tạo điều kiện giúp đỡ », Thượng tọa Giác Viên đã làm thủ tục đăng ký bảo lãnh cư trú và tu học cho 20 tăng ni xin về chùa Từ Đức.
Thế nhưng sự kiện trên đây cho thấy Công an thay vì « tạo điều kiện thuận lợi » cho người xuất gia thì họ lại áp lực.
Cũng theo nguồn tin từ tăng thân Bát Nhã đang tạm trú ở Khánh Hòa thì họ không rõ trong những ngày tới những tu sĩ tuy quê quán ở Khánh Hòa nhưng không thuộc huyện Cam Lâm có bị buộc phải rời chùa Từ Đức hay không ? Chủ trương của nhà nước buộc tăng ni Bát Nhã về địa phương phải chăng là bước thứ hai buộc người xuất gia phải cởi áo cà sa ?
Hiện nay, có tin Hòa thượng Minh Nghĩa trụ trì tu viện Toàn Giác ở Đồng Nai và Thượng tọa Viên Thanh trụ trì tu viện Vạn Hạnh tại Đà Lạt xin bảo lãnh tăng thân Bát Nhã đang lánh nạn tại chùa Phước Huệ nhưng đơn xin vẫn chưa được trả lời.
Công an trục xuất Tăng Ni ra khỏi chùa Từ Đức
PSN - 29.11.2009
http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/PNBN_3/116_cong-an.htm
[CAM LÂM-KHÁNH HÒA] Vào lúc 19:00 (VN) hôm nay (29.11.09) Công an Khánh Hòa đã áp lực trục xuất một thầy và 19 ni cô đang tị nạn tại chùa Từ Đức, huyện Cam Lâm tỉnh Khánh Hòa ra khỏi chùa. Đúng 20:15 tất cả đã phải lên xe rời chùa trong nước mắt thương khổ vì nhân quyền bị chà đạp, người tu không được tu nơi mình chọn lựa...
Hiện đang có nhiều công an mặc sắc phục, cũng như mặc thường phục (công an chìm) đang lai vãng trước cổng chùa.
Được biết, đây là một bộ phận của tăng thân Bát Nhã đã bị đánh bật khỏi tu viện của chính họ hôm 27.9.09, họ đã xin về chùa Từ Đức, một ngôi chùa do Sư Bá của họ là Thượng tọa Thích Giác Viên làm Trụ trì, để tiếp tục con đường lý tưởng và hạnh nguyện độ sinh...
Thượng tọa Trụ trì Từ Đức đã làm đủ mọi thủ tục đăng ký về cư trú cũng như tu học đúng theo quy định của luật pháp nhà nước và quy chế của GHPGVN, và đúng theo tinh thần Công văn 037 và 429 của Hội Đồng Tị Sự TW-GHPGVN: tạo điều kiện giúp đỡ
Nhưng, ... sự kiện vừa xảy ra cho thấy Chính quyền tỉnh Khánh Hòa đã không tạo điều kiện giúp đỡ mà còn gây áp lực trục xuất tu sinh ra khỏi chùa.
Với tình hình này, không biết trong những ngày sắp tới, những tu sĩ Bát Nhã khác gốc Khánh Hòa nhưng không thuộc huyện Cam Lâm có phải bị chính quyền đuổi ra khỏi chùa Từ Đức nữa hay không? Tương tự như thế, số phận của số đông tăng, ni đã bị chính quyền các tỉnh "vận động" về địa phương trong 2 tháng qua sẽ như thế nào, họ có được tiếp tục tu học hay phải cởi áo về nhà?
Chúng tôi đang theo dõi tin này, sẽ kịp thời phổ biến khi có chuyển biến mới, xin đừng quên xem tin tức mới trên hai websites song hành với Phù Sa là: Hồi Trống Bát Nhã và Pháp Nạn Bát Nhã.
Tú Anh
Bài đăng ngày 30/11/2009 - Cập nhật lần cuối ngày 30/11/2009 15:52 TU
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/119/article_5878.asp
Theo nguồn tin gởi đi từ chùa Từ Đức, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, chiều 29/11/2009, công an địa phương đã đến chùa Từ Đức bắt 1 nam tu sĩ và 19 ni cô Bát Nhã rời khỏi chùa. Vào lúc 20g15, tất cả phải lên xe dưới sự theo dõi của công an mặc sắc phục và thường phục.
20 tăng ni này là một bộ phận của tăng thân Bát Nhã bị nhà nước dùng bạo lực đuổi khỏi tu viện Bát Nhã, tỉnh Lâm Đồng hôm 27 tháng 9 , cách nay 2 tháng. Các tu sĩ này được Thượng tọa Giác Viên, trụ trì chùa Từ Đức ở Khánh Hòa đón nhận để có nơi tiếp tục tu thiền.
Dựa theo công văn 037 và 429 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam , cho phép « các vị trụ trì trực thuộc giáo hội bảo lãnh tăng thân Bát Nhã, và chính quyền địa phương phải tạo điều kiện giúp đỡ », Thượng tọa Giác Viên đã làm thủ tục đăng ký bảo lãnh cư trú và tu học cho 20 tăng ni xin về chùa Từ Đức.
Thế nhưng sự kiện trên đây cho thấy Công an thay vì « tạo điều kiện thuận lợi » cho người xuất gia thì họ lại áp lực.
Cũng theo nguồn tin từ tăng thân Bát Nhã đang tạm trú ở Khánh Hòa thì họ không rõ trong những ngày tới những tu sĩ tuy quê quán ở Khánh Hòa nhưng không thuộc huyện Cam Lâm có bị buộc phải rời chùa Từ Đức hay không ? Chủ trương của nhà nước buộc tăng ni Bát Nhã về địa phương phải chăng là bước thứ hai buộc người xuất gia phải cởi áo cà sa ?
Hiện nay, có tin Hòa thượng Minh Nghĩa trụ trì tu viện Toàn Giác ở Đồng Nai và Thượng tọa Viên Thanh trụ trì tu viện Vạn Hạnh tại Đà Lạt xin bảo lãnh tăng thân Bát Nhã đang lánh nạn tại chùa Phước Huệ nhưng đơn xin vẫn chưa được trả lời.
Công an trục xuất Tăng Ni ra khỏi chùa Từ Đức
PSN - 29.11.2009
http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/PNBN_3/116_cong-an.htm
[CAM LÂM-KHÁNH HÒA] Vào lúc 19:00 (VN) hôm nay (29.11.09) Công an Khánh Hòa đã áp lực trục xuất một thầy và 19 ni cô đang tị nạn tại chùa Từ Đức, huyện Cam Lâm tỉnh Khánh Hòa ra khỏi chùa. Đúng 20:15 tất cả đã phải lên xe rời chùa trong nước mắt thương khổ vì nhân quyền bị chà đạp, người tu không được tu nơi mình chọn lựa...
Hiện đang có nhiều công an mặc sắc phục, cũng như mặc thường phục (công an chìm) đang lai vãng trước cổng chùa.
Được biết, đây là một bộ phận của tăng thân Bát Nhã đã bị đánh bật khỏi tu viện của chính họ hôm 27.9.09, họ đã xin về chùa Từ Đức, một ngôi chùa do Sư Bá của họ là Thượng tọa Thích Giác Viên làm Trụ trì, để tiếp tục con đường lý tưởng và hạnh nguyện độ sinh...
Thượng tọa Trụ trì Từ Đức đã làm đủ mọi thủ tục đăng ký về cư trú cũng như tu học đúng theo quy định của luật pháp nhà nước và quy chế của GHPGVN, và đúng theo tinh thần Công văn 037 và 429 của Hội Đồng Tị Sự TW-GHPGVN: tạo điều kiện giúp đỡ
Nhưng, ... sự kiện vừa xảy ra cho thấy Chính quyền tỉnh Khánh Hòa đã không tạo điều kiện giúp đỡ mà còn gây áp lực trục xuất tu sinh ra khỏi chùa.
Với tình hình này, không biết trong những ngày sắp tới, những tu sĩ Bát Nhã khác gốc Khánh Hòa nhưng không thuộc huyện Cam Lâm có phải bị chính quyền đuổi ra khỏi chùa Từ Đức nữa hay không? Tương tự như thế, số phận của số đông tăng, ni đã bị chính quyền các tỉnh "vận động" về địa phương trong 2 tháng qua sẽ như thế nào, họ có được tiếp tục tu học hay phải cởi áo về nhà?
Chúng tôi đang theo dõi tin này, sẽ kịp thời phổ biến khi có chuyển biến mới, xin đừng quên xem tin tức mới trên hai websites song hành với Phù Sa là: Hồi Trống Bát Nhã và Pháp Nạn Bát Nhã.
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TỊ NẠN VIỆT NAM
Sơ Lược Lịch Sử Tị Nạn Việt Nam
GIAO CHỈ
Việt Báo Thứ Hai, 11/30/2009, 12:00:00 AM
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=152648
Ngay sau khi đệ II Thế Chiến 1939-1945 chấm dứt, thế giới hòa bình lại là lúc dân tộc Việt Nam bắt đầu bước vào một cuộc tranh đấu mới. Cuộc đấu tranh dành độc lập đưa đến những khổ nạn của cả dân tộc.
Trong suốt 30 năm, từ năm 1945 đến 1975, đầy những xung đột can qua đã làm cho dân Việt Nam 2 miền Nam Bắc đều phải tản cư, di cư, tỵ nạn rồi tạm cư và định cư. Biết bao nhiêu gia đình ly tán, chia cắt và biết bao nhiêu tan tác đau thương.
Suốt 30 năm sống trong hận thù chiến tranh, nồi da nấu thịt, cuộc nội chiến khoác chiêu bài ý thức hệ- vì độc lập, vì tự do dân chủ để sau cùng gần 2 triệu người hy sinh, 1 triệu dân tị nạn trên quê hương từ Bắc vào Nam sau, Hiệp định Geneve 1954 và sau cùng 3 triệu dân lưu vong sau Hiệp định Paris 1973.
1.Cuộc di cư thứ nhất sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước
Một triệu người Bắc vào Nam từ 1954 đến 1956, đồng thời 130,000 dân miền Nam tập kết ra Bắc. Người Bắc vào Nam bằng tàu Mỹ và Pháp. Người Nam ra Bắc trên tàu Ba Lan và Nga Sô.
2.Tản cư trong chiến tranh
Sau đó, trong chiến tranh, ở miền Nam dân quê có hàng trăm ngàn người đã phải di tản, nhiều nhất là vùng hỏa tuyến. Tại miền Bắc trong các trận không tập đầu thập niên 70 của Hoa Kỳ, dân thành phố gần 3 triệu người phải chạy về các miền quê.
3.Di tản tháng 4-1975
Hiệp định Paris đình chiến năm 1973, hai năm sau Saigon thất thủ, miền Nam có 130,000 người di tản, đa số định cư tại Hoa Kỳ. đây là kết quả của đạo luật khẩn cấp Indochina Migration and Refugee Act 1975 do tổng thống Ford ban hành.
4.Trại tù cải tạo
Sau khi miền Bắc chiến thắng, thống nhất đất nước, tại miền Nam, trên 1 triệu quân cán chính phải đi học tập trong các trại cải tạo. Tuỳ theo hoàn cảnh và cấp bậc, từ vài tuần, vài tháng đến nhiều năm. Có người bị giam lâu nhất là 17 năm. Nhiều người đã qua đời trong trại cải tạo. Gia đình của tù cải tạo phải tái định cư ở các khu kinh tế mới.
5.Tống xuất Hoa Kiều
Trong khi đó kể từ năm 1978, người Hoa tại Việt Nam bắt đầu bị thanh trừng và cùng một lúc các chuyến vượt biên của người Việt bằng thuyền khởi sự để rồi thành một phong trào từ 1979 kéo dài đến đầu thập niên 1990. Một số 250,000 Việt gốc Hoa miền Bắc đã tìm đường tị nạn tại Trung Hoa.
6.Thuyền nhân
Vào cuối năm 1978 đã có hơn 60,000 thuyền nhân tại các trại tị nạn đông Nam Á. Từ các thuyền đánh cá mong manh chở 1 gia đình 5 người đến Thái Lan cho tới con tàu trên 2,500 người đến Mã Lai như trường hợp tàu Hải Hồng.
7.Làn sóng vượt biên lên cao, Đông Nam Á từ chối
Riêng tháng 6-1979 đã có 54,000 thuyền nhân đến các trại. Nếu cho rằng chỉ có 50% thành công thì đã có 100,000 người ra đi trong một tháng. Cũng vào cuối tháng 6, các quốc gia đông Nam á gồm Indonesia, Mã Lai, Phi, Singapore và Thái Lan đã họp khẩn và tuyên bố sẽ đẩy thuyền ra biển.
Liền lập tức tháng 7-1979, đã có biết bao nhiêu thảm kịch xẩy ra. Thái Lan công khai dung dưỡng cho hải tặc hoành hành. Mã Lai kéo tàu vượt biển ra khơi cho chết chìm. Tiếng kêu khóc của người vượt biển thấu Trời xanh, Liên Hiệp Quốc họp khẩn, viện trợ tiền bạc nuôi dân tị nạn, xin thêm cấp khoản định cư trên thế giới và thậm chí cầu khẩn để Cộng Sản Việt Nam giữ cho dân đừng liều chết ra đi.
8.Giải pháp ODP, Orderly Departure Program: Ra đi có trật tự
Để giải quyết vấn đề thuyền nhân qua khía cạnh nhân đạo, thế giới tự do và Hoa Kỳ đưa ra chương trình ODP. Tại Mỹ, The Refugee Act 1980 ra đời và chương trình ra đi có trật tự bắt đầu. Chương trình này kéo dài đến ngày 14-9-1994 thì chấm dứt. Các thành phần còn lại được đưa qua các chương trình đoàn tụ gia đình thường lệ của luật di trú Hoa Kỳ.
9.Con đường định cư, Niềm đau thương trong máu và nước mắt
Từ thảm kịch tháng 7-1979 cho đến tháng 7-1982, nỗ lực 3 năm đã định cư được 623,000 người trên thế giới mà đa số là tại Hoa Kỳ. Và cũng do hậu quả của thảm kịch Biển đông liều chết ra đi trăm ngàn người một tháng, mà tháng 5-1979 Chương Trình Ra đi Có Trật Tự được soạn thảo. Phải đến năm 1984 thì bài toán mới có đáp số vì lúc này tổng kết ghi nhận năm đầu tiên con số vượt biển ít hơn số người ra đi ODP. Năm 1984, con số ODP lên đến 29 ngàn người và thuyền nhân ra đi hạ xuống chỉ còn 24,800 người.
10. Tổn thất trên Biển Đông
Thảm kịch thuyền nhân Biển đông đã tạo ra rất nhiều vấn nạn mà trước đây thế giới không hề xẩy ra.
a.Từ các dân đánh cá hiền lành, tất cả ngư dân Thái Lan lần lượt trở thành hải tặc điên cuồng suốt 2 thập niên
b.Hàng ngàn thương thuyền trên biển đông hoàn toàn không tuân thủ luật lệ đạo đức hành hải vì tất cả đã làm ngơ cho thuyền nhân chết trên biển cả.
c.Không ai có thể xác định được số tổn thất của thuyền nhân trên biển, từ 20% đến 40% số người vượt biển đến các trại tỵ nạn.
d.Lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới có chính phủ Việt Nam công khải tổ chức cho dân vượt biên để thu góp toàn bộ tài sản để lại.
e.Các quốc gia đông Nam Á đóng vai trò rất phức tạp vừa nhân đạo và bất nhân tùy giai đoạn và đã khai thác tối đa những ngân khoản lớn lao của thế giới về tỵ nạn.
11. Vượt biên đường bộ
Sau một thời gian lắng dịu năm 1984, số tị nạn lại gia tăng trên đường bộ qua Cam Bốt vào năm 1987. Một số lớn không có điều kiện ODP đã tìm lối đi qua Thái Lan từ miền Nam và qua Hong Kong từ miền Bắc.Năm 1988 đã có 18,000 người vào Hong Kong và mặt khác Mã Lai lại bắt đầu kéo tàu ra biển vào năm 1989.
12. Cứu người vượt biển
Từ Pháp, Úc, Canada và Hoa Kỳ các tổ chức tư nhân, các bác sĩ ngoại quốc và Việt Nam đã lần lượt tổ chcừ các chuyến ra khơi cứu người vượt biển. Phong trào này đã tạo ra nhiều hy vọng và đã cứu được hàng ngàn thuyền nhân trên biển đông. Một cuộc biểu tình thắp nến trước Bạch Cung đã được tổng thống Carter đáp ứng và ra lệnh cho đệ thất hạm đội tiếp tay cứu thuyền nhân vượt biển.
13. Biện pháp mới
Cuối thập niên 80 các đợt sóng thuyền nhân mới gia tăng khi các nước cắt bớt cấp khoản định cư. Các trại tị nạn đông Nam Á trở thành ứ đọng. Các quốc gia Biển đông quyết định một ngày định mệnh, đó là ngày 14/3/1989. Thuyền nhân đến trại sau ngày 14/3/1989 sẽ bị thanh lọc. Và chữ thanh lọc- “đậu hay xù” trở thành ngôn ngữ của thuyền nhân trên đảo, đã lấy đi biết bao máu, mồ hôi và nước mắt của dân Việt trên Biển đông.
14. Vấn đề con lai, Ameriasian Home Coming Act 1987
Người Mỹ đã bắt đầu tìm đến di sản chiến tranh của chiến binh Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam và mở rộng vòng tay đón nhận 25,000 hồ sơ con lai với gia đình thân quyến tổng cộng 100,000 người.
15. Cựu tù chính trị
Ngày 30/7/1989 Hoa Kỳ và Việt Nam ký thỏa hiệp để cho cựu tù chính trị ra đi có trật tự cùng gia đình. Chiến dịch này đã gia tăng ODP lên đến 86,451 người riêng vào năm 1991 gồm cả 21,500 cựu tù chính trị và 18,000 con lai.
Thoả ước Việt Mỹ về tù chính trị đã mở cửa trại tù cải tạo cho 109,000 chiến hữu VNCH trở về với gia đình và một số lớ đã làm giấy tờ xin định cư tại Hoa Kỳ.
16. Cưỡng bách hồi hương
Bắt đầu từ 1989, từ thanh lọc bị loại, Phủ Cao Ủy và các quốc gia đông Nam Á phối hợp với chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đầu cho cưỡng bách hồi hương. Hàng trăm cuộc biểu tình tuyệt thực tổ chức tại các trại và nhiều người tự tử hay tự gây thương tích để phản đối.
17. Tự nguyện hồi hương
Một chương trình của Liên Hiệp Quốc là khích lệ thuyền nhân ở trại tự nguyện hồi hương. Con số này đã lên đến 56,000 người. Mỗi gia đình được lãnh từ 300 Mỹ kim đến nhiều nhất là $20,000 Mỹ Kim làm vốn tái định cư. Thành phần tự nguyện hồi hương sau đó đã có cơ hội xin đi Hoa Kỳ và có một số lớn hiện đã qua Mỹ.
18. Trẻ em tị nạn
Trong số hàng trăm ngàn dân tị nạn đã có nhiều trẻ em không có thân nhân. Một thể thức đặc biệt đã được áp dụng và sau này hàng ngàn trẻ em không có thân nhân hay cha mẹ chết trên đường vượt biên đã được định cư tại Hoa Kỳ do các gia đình bảo trợ.
19. Các con số thống kê
Tổng kết từ năm 1975 đến 1995 con số thuyền nhân Việt Nam đã đến trại tị nạn là 796,310 người và tị nạn qua đường bộ là 42,918 người.
Trong số này đã có 822,977 người định cư tại Hoa Kỳ và 2 quốc gia UÔc và Canada, có đồng đều mỗi nước có 137,000 thuyền nhân tị nạn.
Có thể nói là cứ hai người tị nạn tại Hoa Kỳ đã có 1 người nếm mùi gia khổ trên biển đông tại các trại tị nạn.
20. Thuyền nhân tật nguyền
Các quốc gia nhỏ bé nhưng đầy tình nhân đạo như Thụy Sĩ, Thụy điển đã cử phái đoàn đến chỉ nhận bảo trợ cho các gia đình thuyền nhân tật nguyền, các trẻ em bất hạnh chậm lớn. Những thành phần bất hạnh, vô thừa nhận của thảm kịch biển đông đã vui mừng chứa chan hạnh phúc khi được bồng bế nhau đi định cư ở Tây Âu gồm cả xe lăn và nhiều người nằm trên cáng trên đường đến xứ tự do.
21. Đợt sóng cuối cùng
Câu chuyện thuyền nhân tại Phi Luật Tân được coi như đợt sóng cuối cùng. Trong khi tất cả các trại tỵ nạn đông Nam Á đóng cửa thì chỉ còn lại câu chuyện về các thuyền nhân tại Phi Luật Tân. Trải qua các đợt cưỡng bách hồi hương, tình nguyện hồi hương, sau cùng trại Palowan của Phi đóng cửa năm 1997.
Hàng ngàn người Việt tỵ nạn tại Phi được giáo hội Thiên Chúa nhận định cư và thành lập Làng Việt Nam. Hàng triệu Mỹ kim của đồng hương trên thế giới quyên góp để xây dựng cho một quê hương Việt trên đất Phi. Kế hoạch không thành vì nhu cầu sinh kế người Việt tỵ nạn phải phân tán kiếm sống trên đất Phi. Dân làng ở lại rất ít.
Hồ sơ tỵ nạn đợt cuối cùng bàn giao từ thế kỷ 20 qua thế kỷ 21. Sau cùng nhờ sự đấu tranh bền bỉ của một luật sư trẻ gốc Việt từ bên Úc tên là Trịnh Hội, Hoa Kỳ bắt đầu nhận phần còn lại vào Mỹ. Sau 18 năm chờ đợi, các gia đình tỵ nạn đã tới Mỹ tháng 10 năm 2005.
Bốn năm trước, với đợt thuyền nhân cuối cùng đến Mỹ từ Phi Luật Tân để chào mừng Thanksgiving năm 2005 tại Hoa Kỳ, một trang sử tỵ nạn Việt Nam chính thức đóng lại. Chúng ta ước mong sẽ khép lại được một quá khứ đau buồn và cùng cầu nguyện cho một tương lai tốt đẹp hơn cho một thế giới không còn tỵ nạn. Chẳng biết đến bao giờ.
Giao Chỉ , San Jose 2009
GHI CHÚ: Những con tàu lịch sử
Tàu Tự Do ra đi từ Phú Quốc chở 39 người, tháng 9-1977, vượt qua vịnh Thái Lan và đến Mã Lai. được tiếp tế rồi đi tiếp với phương tiện rất giới hạn đã đến Darwin, Úc Châu tháng 11-1977, vượt trên 6,000 miles.
Tàu Tự Do hiện thuộc về viện bảo tàng hàng hải của Úc.
Tàu Cam Ranh. dài 35 foot chở 35 người. Sau 10 ngày vượt biển được tàu chiến của Hoa Kỳ vớt ngày15-05-84 ngoài khơi đông Bắc Cam Ranh 350 miles. tất cả định cư tại Mỹ. Tàu Cam Ranh sau khi vớt người đã được phá hủy trên biển đông.
GIAO CHỈ
Việt Báo Thứ Hai, 11/30/2009, 12:00:00 AM
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=152648
Ngay sau khi đệ II Thế Chiến 1939-1945 chấm dứt, thế giới hòa bình lại là lúc dân tộc Việt Nam bắt đầu bước vào một cuộc tranh đấu mới. Cuộc đấu tranh dành độc lập đưa đến những khổ nạn của cả dân tộc.
Trong suốt 30 năm, từ năm 1945 đến 1975, đầy những xung đột can qua đã làm cho dân Việt Nam 2 miền Nam Bắc đều phải tản cư, di cư, tỵ nạn rồi tạm cư và định cư. Biết bao nhiêu gia đình ly tán, chia cắt và biết bao nhiêu tan tác đau thương.
Suốt 30 năm sống trong hận thù chiến tranh, nồi da nấu thịt, cuộc nội chiến khoác chiêu bài ý thức hệ- vì độc lập, vì tự do dân chủ để sau cùng gần 2 triệu người hy sinh, 1 triệu dân tị nạn trên quê hương từ Bắc vào Nam sau, Hiệp định Geneve 1954 và sau cùng 3 triệu dân lưu vong sau Hiệp định Paris 1973.
1.Cuộc di cư thứ nhất sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước
Một triệu người Bắc vào Nam từ 1954 đến 1956, đồng thời 130,000 dân miền Nam tập kết ra Bắc. Người Bắc vào Nam bằng tàu Mỹ và Pháp. Người Nam ra Bắc trên tàu Ba Lan và Nga Sô.
2.Tản cư trong chiến tranh
Sau đó, trong chiến tranh, ở miền Nam dân quê có hàng trăm ngàn người đã phải di tản, nhiều nhất là vùng hỏa tuyến. Tại miền Bắc trong các trận không tập đầu thập niên 70 của Hoa Kỳ, dân thành phố gần 3 triệu người phải chạy về các miền quê.
3.Di tản tháng 4-1975
Hiệp định Paris đình chiến năm 1973, hai năm sau Saigon thất thủ, miền Nam có 130,000 người di tản, đa số định cư tại Hoa Kỳ. đây là kết quả của đạo luật khẩn cấp Indochina Migration and Refugee Act 1975 do tổng thống Ford ban hành.
4.Trại tù cải tạo
Sau khi miền Bắc chiến thắng, thống nhất đất nước, tại miền Nam, trên 1 triệu quân cán chính phải đi học tập trong các trại cải tạo. Tuỳ theo hoàn cảnh và cấp bậc, từ vài tuần, vài tháng đến nhiều năm. Có người bị giam lâu nhất là 17 năm. Nhiều người đã qua đời trong trại cải tạo. Gia đình của tù cải tạo phải tái định cư ở các khu kinh tế mới.
5.Tống xuất Hoa Kiều
Trong khi đó kể từ năm 1978, người Hoa tại Việt Nam bắt đầu bị thanh trừng và cùng một lúc các chuyến vượt biên của người Việt bằng thuyền khởi sự để rồi thành một phong trào từ 1979 kéo dài đến đầu thập niên 1990. Một số 250,000 Việt gốc Hoa miền Bắc đã tìm đường tị nạn tại Trung Hoa.
6.Thuyền nhân
Vào cuối năm 1978 đã có hơn 60,000 thuyền nhân tại các trại tị nạn đông Nam Á. Từ các thuyền đánh cá mong manh chở 1 gia đình 5 người đến Thái Lan cho tới con tàu trên 2,500 người đến Mã Lai như trường hợp tàu Hải Hồng.
7.Làn sóng vượt biên lên cao, Đông Nam Á từ chối
Riêng tháng 6-1979 đã có 54,000 thuyền nhân đến các trại. Nếu cho rằng chỉ có 50% thành công thì đã có 100,000 người ra đi trong một tháng. Cũng vào cuối tháng 6, các quốc gia đông Nam á gồm Indonesia, Mã Lai, Phi, Singapore và Thái Lan đã họp khẩn và tuyên bố sẽ đẩy thuyền ra biển.
Liền lập tức tháng 7-1979, đã có biết bao nhiêu thảm kịch xẩy ra. Thái Lan công khai dung dưỡng cho hải tặc hoành hành. Mã Lai kéo tàu vượt biển ra khơi cho chết chìm. Tiếng kêu khóc của người vượt biển thấu Trời xanh, Liên Hiệp Quốc họp khẩn, viện trợ tiền bạc nuôi dân tị nạn, xin thêm cấp khoản định cư trên thế giới và thậm chí cầu khẩn để Cộng Sản Việt Nam giữ cho dân đừng liều chết ra đi.
8.Giải pháp ODP, Orderly Departure Program: Ra đi có trật tự
Để giải quyết vấn đề thuyền nhân qua khía cạnh nhân đạo, thế giới tự do và Hoa Kỳ đưa ra chương trình ODP. Tại Mỹ, The Refugee Act 1980 ra đời và chương trình ra đi có trật tự bắt đầu. Chương trình này kéo dài đến ngày 14-9-1994 thì chấm dứt. Các thành phần còn lại được đưa qua các chương trình đoàn tụ gia đình thường lệ của luật di trú Hoa Kỳ.
9.Con đường định cư, Niềm đau thương trong máu và nước mắt
Từ thảm kịch tháng 7-1979 cho đến tháng 7-1982, nỗ lực 3 năm đã định cư được 623,000 người trên thế giới mà đa số là tại Hoa Kỳ. Và cũng do hậu quả của thảm kịch Biển đông liều chết ra đi trăm ngàn người một tháng, mà tháng 5-1979 Chương Trình Ra đi Có Trật Tự được soạn thảo. Phải đến năm 1984 thì bài toán mới có đáp số vì lúc này tổng kết ghi nhận năm đầu tiên con số vượt biển ít hơn số người ra đi ODP. Năm 1984, con số ODP lên đến 29 ngàn người và thuyền nhân ra đi hạ xuống chỉ còn 24,800 người.
10. Tổn thất trên Biển Đông
Thảm kịch thuyền nhân Biển đông đã tạo ra rất nhiều vấn nạn mà trước đây thế giới không hề xẩy ra.
a.Từ các dân đánh cá hiền lành, tất cả ngư dân Thái Lan lần lượt trở thành hải tặc điên cuồng suốt 2 thập niên
b.Hàng ngàn thương thuyền trên biển đông hoàn toàn không tuân thủ luật lệ đạo đức hành hải vì tất cả đã làm ngơ cho thuyền nhân chết trên biển cả.
c.Không ai có thể xác định được số tổn thất của thuyền nhân trên biển, từ 20% đến 40% số người vượt biển đến các trại tỵ nạn.
d.Lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới có chính phủ Việt Nam công khải tổ chức cho dân vượt biên để thu góp toàn bộ tài sản để lại.
e.Các quốc gia đông Nam Á đóng vai trò rất phức tạp vừa nhân đạo và bất nhân tùy giai đoạn và đã khai thác tối đa những ngân khoản lớn lao của thế giới về tỵ nạn.
11. Vượt biên đường bộ
Sau một thời gian lắng dịu năm 1984, số tị nạn lại gia tăng trên đường bộ qua Cam Bốt vào năm 1987. Một số lớn không có điều kiện ODP đã tìm lối đi qua Thái Lan từ miền Nam và qua Hong Kong từ miền Bắc.Năm 1988 đã có 18,000 người vào Hong Kong và mặt khác Mã Lai lại bắt đầu kéo tàu ra biển vào năm 1989.
12. Cứu người vượt biển
Từ Pháp, Úc, Canada và Hoa Kỳ các tổ chức tư nhân, các bác sĩ ngoại quốc và Việt Nam đã lần lượt tổ chcừ các chuyến ra khơi cứu người vượt biển. Phong trào này đã tạo ra nhiều hy vọng và đã cứu được hàng ngàn thuyền nhân trên biển đông. Một cuộc biểu tình thắp nến trước Bạch Cung đã được tổng thống Carter đáp ứng và ra lệnh cho đệ thất hạm đội tiếp tay cứu thuyền nhân vượt biển.
13. Biện pháp mới
Cuối thập niên 80 các đợt sóng thuyền nhân mới gia tăng khi các nước cắt bớt cấp khoản định cư. Các trại tị nạn đông Nam Á trở thành ứ đọng. Các quốc gia Biển đông quyết định một ngày định mệnh, đó là ngày 14/3/1989. Thuyền nhân đến trại sau ngày 14/3/1989 sẽ bị thanh lọc. Và chữ thanh lọc- “đậu hay xù” trở thành ngôn ngữ của thuyền nhân trên đảo, đã lấy đi biết bao máu, mồ hôi và nước mắt của dân Việt trên Biển đông.
14. Vấn đề con lai, Ameriasian Home Coming Act 1987
Người Mỹ đã bắt đầu tìm đến di sản chiến tranh của chiến binh Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam và mở rộng vòng tay đón nhận 25,000 hồ sơ con lai với gia đình thân quyến tổng cộng 100,000 người.
15. Cựu tù chính trị
Ngày 30/7/1989 Hoa Kỳ và Việt Nam ký thỏa hiệp để cho cựu tù chính trị ra đi có trật tự cùng gia đình. Chiến dịch này đã gia tăng ODP lên đến 86,451 người riêng vào năm 1991 gồm cả 21,500 cựu tù chính trị và 18,000 con lai.
Thoả ước Việt Mỹ về tù chính trị đã mở cửa trại tù cải tạo cho 109,000 chiến hữu VNCH trở về với gia đình và một số lớ đã làm giấy tờ xin định cư tại Hoa Kỳ.
16. Cưỡng bách hồi hương
Bắt đầu từ 1989, từ thanh lọc bị loại, Phủ Cao Ủy và các quốc gia đông Nam Á phối hợp với chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đầu cho cưỡng bách hồi hương. Hàng trăm cuộc biểu tình tuyệt thực tổ chức tại các trại và nhiều người tự tử hay tự gây thương tích để phản đối.
17. Tự nguyện hồi hương
Một chương trình của Liên Hiệp Quốc là khích lệ thuyền nhân ở trại tự nguyện hồi hương. Con số này đã lên đến 56,000 người. Mỗi gia đình được lãnh từ 300 Mỹ kim đến nhiều nhất là $20,000 Mỹ Kim làm vốn tái định cư. Thành phần tự nguyện hồi hương sau đó đã có cơ hội xin đi Hoa Kỳ và có một số lớn hiện đã qua Mỹ.
18. Trẻ em tị nạn
Trong số hàng trăm ngàn dân tị nạn đã có nhiều trẻ em không có thân nhân. Một thể thức đặc biệt đã được áp dụng và sau này hàng ngàn trẻ em không có thân nhân hay cha mẹ chết trên đường vượt biên đã được định cư tại Hoa Kỳ do các gia đình bảo trợ.
19. Các con số thống kê
Tổng kết từ năm 1975 đến 1995 con số thuyền nhân Việt Nam đã đến trại tị nạn là 796,310 người và tị nạn qua đường bộ là 42,918 người.
Trong số này đã có 822,977 người định cư tại Hoa Kỳ và 2 quốc gia UÔc và Canada, có đồng đều mỗi nước có 137,000 thuyền nhân tị nạn.
Có thể nói là cứ hai người tị nạn tại Hoa Kỳ đã có 1 người nếm mùi gia khổ trên biển đông tại các trại tị nạn.
20. Thuyền nhân tật nguyền
Các quốc gia nhỏ bé nhưng đầy tình nhân đạo như Thụy Sĩ, Thụy điển đã cử phái đoàn đến chỉ nhận bảo trợ cho các gia đình thuyền nhân tật nguyền, các trẻ em bất hạnh chậm lớn. Những thành phần bất hạnh, vô thừa nhận của thảm kịch biển đông đã vui mừng chứa chan hạnh phúc khi được bồng bế nhau đi định cư ở Tây Âu gồm cả xe lăn và nhiều người nằm trên cáng trên đường đến xứ tự do.
21. Đợt sóng cuối cùng
Câu chuyện thuyền nhân tại Phi Luật Tân được coi như đợt sóng cuối cùng. Trong khi tất cả các trại tỵ nạn đông Nam Á đóng cửa thì chỉ còn lại câu chuyện về các thuyền nhân tại Phi Luật Tân. Trải qua các đợt cưỡng bách hồi hương, tình nguyện hồi hương, sau cùng trại Palowan của Phi đóng cửa năm 1997.
Hàng ngàn người Việt tỵ nạn tại Phi được giáo hội Thiên Chúa nhận định cư và thành lập Làng Việt Nam. Hàng triệu Mỹ kim của đồng hương trên thế giới quyên góp để xây dựng cho một quê hương Việt trên đất Phi. Kế hoạch không thành vì nhu cầu sinh kế người Việt tỵ nạn phải phân tán kiếm sống trên đất Phi. Dân làng ở lại rất ít.
Hồ sơ tỵ nạn đợt cuối cùng bàn giao từ thế kỷ 20 qua thế kỷ 21. Sau cùng nhờ sự đấu tranh bền bỉ của một luật sư trẻ gốc Việt từ bên Úc tên là Trịnh Hội, Hoa Kỳ bắt đầu nhận phần còn lại vào Mỹ. Sau 18 năm chờ đợi, các gia đình tỵ nạn đã tới Mỹ tháng 10 năm 2005.
Bốn năm trước, với đợt thuyền nhân cuối cùng đến Mỹ từ Phi Luật Tân để chào mừng Thanksgiving năm 2005 tại Hoa Kỳ, một trang sử tỵ nạn Việt Nam chính thức đóng lại. Chúng ta ước mong sẽ khép lại được một quá khứ đau buồn và cùng cầu nguyện cho một tương lai tốt đẹp hơn cho một thế giới không còn tỵ nạn. Chẳng biết đến bao giờ.
Giao Chỉ , San Jose 2009
GHI CHÚ: Những con tàu lịch sử
Tàu Tự Do ra đi từ Phú Quốc chở 39 người, tháng 9-1977, vượt qua vịnh Thái Lan và đến Mã Lai. được tiếp tế rồi đi tiếp với phương tiện rất giới hạn đã đến Darwin, Úc Châu tháng 11-1977, vượt trên 6,000 miles.
Tàu Tự Do hiện thuộc về viện bảo tàng hàng hải của Úc.
Tàu Cam Ranh. dài 35 foot chở 35 người. Sau 10 ngày vượt biển được tàu chiến của Hoa Kỳ vớt ngày15-05-84 ngoài khơi đông Bắc Cam Ranh 350 miles. tất cả định cư tại Mỹ. Tàu Cam Ranh sau khi vớt người đã được phá hủy trên biển đông.
CÔNG AN ĐÀN ÁP THÔ BẠO THÀNH VIÊN KHỐI 8406 tại SÀI GÒN
Tin nhanh từ Sài Gòn
Vụ đàn áp thô bạo tối ngày 29/11/2009 của công an CSVN đối với anh chị em thuộc khối 8406 và Phong trào đấu tranh dân chủ !
Hồ Thị Bích Khương
Hồi 01 giờ 15 phút ngày 30/11/20
http://www.anhduong.info/index.php?option=com_content&task=view&id=5329&Itemid=1
Tối nay hồi 18 giờ 20 phút ngày chủ nhật 29/11/2009, hơn 20 công an cộng sản Việt Nam thuộc TP – Sài Gòn, quận Phú Nhuận…vv...đã vô cớ xông vào tiến hành giải tán bắt bớ, đàn áp rất thô bạo các nhà dân chủ tranh đấu dân chủ là thành viên của khối 8406. Trong số nạn nhân mới bị trấn áp lần này có kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại một cảm tình viên của Khối 8406 từ tháng 8/2009 cũng bị bắt giữ đưa về công an phường 9, quận Phú Nhuận để thẩm vấn. Sự việc bắt đầu từ tuần trước qua theo dõi nghe trộm điện thoại nên bộ máy an ninh CS thành phố đã biết được từ mấy hôm trước kỹ sư Đỗ Nam Hải trong ban điều hành khối 8406 đã được kỹ sư Nguyễn Đại liên hệ từ khi anh trở về thành phố sau chuyến ra miền Bắc thăm gia đình và đã có cuộc gặp với anh chị em dân chủ tại Hà Nội do nhà báo Nguyễn Khắc Toàn tổ chức. Anh Hải và Đại có hẹn nhau hôm nay sẽ gặp mặt ăn tối cùng hai thành viên nữ khác của khối 8406 là các chị Lư Thị Thu Trang và Lư Thị Thu Duyên. Còn cô Vũ Thanh Phương cũng là một thành viên của Phong trào đấu tranh do biết tin muộn về cuộc gặp mặt không đến kịp giờ nên khi xảy ra cuộc bố ráp để phá hoại buổi ăn tối này của anh chị em dân chủ do công an gây ra, vì thế nên không trở thành nạn nhân của bộ máy an ninh CS vào tối nay.
Khi 4 người trên vừa ngồi vào Tiệm ăn được khoảng 15 – 20 phút thì toán công an đông đảo đủ loại đã vô cớ xông vào giải tán họ. Chúng xô vào cưỡng bức kỹ sư Nguyễn Đại đi trước, buộc anh phải lên xe ô tô công an biển số màu xanh và không rõ chúng đưa đi đâu để thẩm vấn. Còn kỹ sư Đỗ Nam Hải bị nhiều công an xông vào xốc nách, bẻ quặt hay tay ra sau để lôi đi và anh đã lớn tiếng tố cáo hành vi thô bạo của chúng gây ra cho mình và các anh chị em khác. Một số đông công an khác bất chấp 2 chị em nhà họ Lư là phụ nữ vẫn xông vào đánh đập, đá đạp tới tấp 2 chị em các cô ngay tại tiệm ăn để chúng cưỡng buộc họ lên xe đưa về đồn công an phường 1, quận Gò Vấp. Khi đưa được 2 chị em lên xe rồi, toán công an du côn và bặm trợn kia vẫn ra sức tấn công thô bạo các phụ nữ này. Vì chứng kiến tận mắt tội ác của công an CSVN đang hành hung vô cớ 2 chị em nhà họ Lư nên anh Đỗ Nam Hải đã tuyên bố thẳng thắn với chúng : “ Các cậu nên nên kiếm nghề khác mà làm đi nghề này nhục nhã lắm không hay ho gì đâu. Cái chế độ này quá tàn ác và nhục nhã vì người ta mời nhau ăn tối thôi mà vô cớ kéo đến đánh đập thì còn ra cái thể thống gì nữa không ? Các cậu ỷ thế nam giới, đàn ông, đông người đánh đập 2 chị em người ta là phụ nữ thì có gì xấu hổ và nhục nhã hơn nữa không ?”… Mặc cho anh chị em đấu tranhn kháng cự phản đối quyết liệt đám công an lâu la đông đúc vẫn xông vào lôi kéo, túi bụi đá, đạp giải tán bữa ăn tối của mọi người làm tất cả các khách hàng tại đây náo loạn và rất bất bình. Lúc diễn ra sự vụ đó là vào khoảng gần 19 giờ tối tại quán cà phê “Vườn Nhà Ai” , ở địa điểm số 3, đường Hoàng Minh Giám, thuộc phường 9, quận Phú Nhuận, Sài Gòn. Biển số xe công an chúng chở mọi người đi trong cuộc đàn áp thô bạo là : 51B-0450.
Anh Đỗ Nam Hải bị giam giữ trái phép tại công an quận Phú Nhuận suốt từ đó, nhưng với bản lĩnh kiên cường, với kinh nghiệm và thời gian đấu tranh đã dài nên khi vào đồn công an anh không ngớt lên tiếng tố cáo công an cộng sản vi phạm thô bạo nhân quyền và quyền công dân sơ đẳng. Đến gần 21 giờ đêm chúng đã thả anh Đỗ Nam Hải sau gần 2 tiếng đồng hồ tạm giữ trái phép. Sau đó khoảng một tiếng các cô Lư Thị Thu Duyên và Lư Thị Thu Trang cũng được thả ra khỏi đồn công an phường 9, quận Gò Vấp. Như vậy chúng đã tạm giữ vô cớ các cô sau 3 giờ liền. Còn kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại cho đến gần 23 giờ đêm chúng cũng thả anh ra khỏi đồn công an phường 9, quận Phú Nhuận. Khi về tới nhà kỹ sư Đại đã gọi điện thông tin cho nhà báo Nguyễn Khắc Toàn tại Hà Nội cho anh biết cụ thể tình tiết cuộc vây giáp, thô bạo trắng trợn của công an CS Sài Gòn vào tối nay. Kỹ sư Nguyễn Đại là thành viên mới của Phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam, anh đã ghi tên vào Khối đấu tranh 8406 từ tháng 8/2009 nên khi bị thẩm vấn trong công an, chúng đã sử dụng lực lượng đông đảo để trấn áp khủng bố người bạn trẻ trí thức này khá căng thẳng… Theo anh Hải cho biết thì mục đích của cuộc trấn áp tối nay là chủ yếu nhằm vào kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại vì chúng muốn anh phải kinh hãi, khiếp sợ trước sự đàn áp của bộ máy đàn áp để từ bỏ ý chí đấu tranh đòi dân chủ và không tham gia Phong trào nữa mà thôi.
Ngoài ra theo anh Nguyễn Khắc Toàn từ Hà Nội cho tôi biết là, nội dung cuộc thẩm vấn với kỹ sư Nguyễn Đại là công an CS Sài Gòn muốn anh không liên lạc với anh Đỗ Nam Hải cũng như các thành viên đấu tranh dân chủ khác nữa tại thành phố này. Công an CSVN còn buộc anh phải từ bỏ rút tên ra khỏi Khối 8046 và tự mình viết thư yêu cầu các trang website hải ngoại phải gỡ bỏ bài viết đầu tiên về Dân chủ mà người trí thức này vừa phổ biến công khai trên mạng. Trước áp lực đó kỹ sư Nguyễn Đại nói không chấp nhận việc đòi hỏi các trang website đã đăng bài của mình bỏ ra khỏi các trang báo điện tử như yêu cầu vô lý của công an CSVN. Trước khi thả anh ra khỏi đồn sau hơn 4 giờ bị bắt giữ, công an bảo vệ chính trị của CSVN đã tuyên bố tạm giữ chiếc simrcacd điện thoại của kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại và hẹn thứ 3 tuần tới sẽ trả lại. Đây chính là chiếc simcar anh đang dùng và có ghi số của nó dưới bài viết đầu tiên đã được phổ biến rộng rãi trên mạng internet mới đây. Mục đích của việc tạm giữ chiếc simcard điện thoại của kỹ sư Đại là công an CSVN muốn ngăn chặn cuộc phỏng vấn do đài phát thanh SaiGon Đalat từ tiểu bang Tetxat Hoa Kỳ gọi về vào 9 giờ sáng mai và các liên hệ khác của công luận quốc tế, hải ngoại và bạn đọc muốn chia sẻ kể từ khi anh cho công khai phổ biến bài viết bày tỏ dân chủ của mình hôm 25/11/2009.
Điều này đã thể hiện rõ khả năng công an cộng sản đang rất muốn trấn áp khủng bố kỹ sư trẻ Nguyễn Đại một cách điên cuồng nhằm ngăn chặn sự phát triển rộng ra hơn nữa của Phong trào đấu tranh trong nước đang ngày một lan tỏa rất khó lòng ngăn cản được.
Tôi được biết kỹ sư Nguyễn Đại từ sau ngày hết án ra tù, nói chính xác là sau khi tôi bị tai nạn giao thông bí ẩn tại Thanh Hóa và được anh Nguyễn Khắc Toàn viết bài kêu gọi giúp đỡ công bố trên Mạng toàn cầu. Từ khi biết được thông tin, địa chỉ, số điện thoại cụ thể của gia đình và của tôi qua bài viết của anh Nguyễn Khắc Toàn như vậy nên chúng tôi vẫn thường hay trao đổi trò chuyện với nhau rất nhiều trong một thời gian khá dài mấy tháng qua. Tôi biết kỹ sư Đại là một trí thức trẻ, kiêm một doanh nhân rất thành đạt trong công việc. Anh cũng là công dân có tinh thần yêu nước, nên anh rất cảm kích trước những hoạt động và tấm lòng của các thành viên khối 8406. Qua thời gian trao đổi trò chuyện với tôi, anh đã từng có ý nguyện tham gia khối 8406 và nói sẽ có thể nghỉ kinh doanh để đến với phong trào đấu tranh trong nước. Chính vì thế tôi đã giới thiệu anh đến với các nhà tranh đấu dân chủ tại quốc nội như các anh Nguyễn Khắc Toàn, Đỗ Nam Hải, Linh mục Phan Văn Lợi… và một số nhà dân chủ khác để anh tìm hiểu cách thức và học hỏi kinh nghiệm đấu tranh của họ. Vừa rồi khi ra miền Bắc anh đã gặp nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, nhà văn Hoàng Tiến, anh Lê Thanh Tùng, kỹ sư Nguyễn Trung Lĩnh, chị Dương Thị Xuân, cụ bà Hoàng Minh Chính… cùng một số anh chị em đấu tranh nhà dân chủ khác tại Hà Nội. Tôi còn được biết anh đã từng tham gia diễn đàn X-Cafe và đã viết các bài đưa lên diễn đàn đó. Cùng một số bài viết về tự do dân chủ tại Việt Nam anh gửi cho riêng tôi và sau đó tôi đã từng phổ biến cho nhân dân quê tôi rất có sức thuyết được nhân dân ủng hộ rất tốt.
Về vụ đàn áp khốc liệt để bắt giữ các kỹ sư Nguyễn Đại, Đỗ Nam Hải, các cô Thu Duyên, Thu Trang tối ngày hôm nay xảy ra là hành vi không thể chấp nhận được của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, vì nó vừa vi phạm pháp luật trong nước rất trắng trận, vì nó đã xâm phạm nhân quyền rất trầm trọng và hết sức thô bạo mà công luận cần cực lực tố cáo. Đó là các hành vi tấn công giầy xéo vào quyền tự do hội họp, tự do tụ họp của công dân Việt Nam rất thô bỉ của bộ máy an ninh CSVN gây ra đối với người dân trong nước mà không thể tha thứ được.
Tôi viết và đưa bản tin này đưa lên để dư luận đồng thanh phản đối hành vi đê hèn này của công an cộng sản Việt Nam và mong mọi người hãy cùng lên tiếng thật mạnh mẽ để lên án hành vi chà đạp quyền con người như đã nói trên của công an cộng sản việt Nam !!!
Xóm 2, xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
Hồi 01 giờ 15 phút ngày 30/11/2009
Hồ Thị Bích Khương
ĐT: 0984 – 980 – 597
Emai liên lạc : thegioivihoabinh@gmail.com
Vụ đàn áp thô bạo tối ngày 29/11/2009 của công an CSVN đối với anh chị em thuộc khối 8406 và Phong trào đấu tranh dân chủ !
Hồ Thị Bích Khương
Hồi 01 giờ 15 phút ngày 30/11/20
http://www.anhduong.info/index.php?option=com_content&task=view&id=5329&Itemid=1
Tối nay hồi 18 giờ 20 phút ngày chủ nhật 29/11/2009, hơn 20 công an cộng sản Việt Nam thuộc TP – Sài Gòn, quận Phú Nhuận…vv...đã vô cớ xông vào tiến hành giải tán bắt bớ, đàn áp rất thô bạo các nhà dân chủ tranh đấu dân chủ là thành viên của khối 8406. Trong số nạn nhân mới bị trấn áp lần này có kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại một cảm tình viên của Khối 8406 từ tháng 8/2009 cũng bị bắt giữ đưa về công an phường 9, quận Phú Nhuận để thẩm vấn. Sự việc bắt đầu từ tuần trước qua theo dõi nghe trộm điện thoại nên bộ máy an ninh CS thành phố đã biết được từ mấy hôm trước kỹ sư Đỗ Nam Hải trong ban điều hành khối 8406 đã được kỹ sư Nguyễn Đại liên hệ từ khi anh trở về thành phố sau chuyến ra miền Bắc thăm gia đình và đã có cuộc gặp với anh chị em dân chủ tại Hà Nội do nhà báo Nguyễn Khắc Toàn tổ chức. Anh Hải và Đại có hẹn nhau hôm nay sẽ gặp mặt ăn tối cùng hai thành viên nữ khác của khối 8406 là các chị Lư Thị Thu Trang và Lư Thị Thu Duyên. Còn cô Vũ Thanh Phương cũng là một thành viên của Phong trào đấu tranh do biết tin muộn về cuộc gặp mặt không đến kịp giờ nên khi xảy ra cuộc bố ráp để phá hoại buổi ăn tối này của anh chị em dân chủ do công an gây ra, vì thế nên không trở thành nạn nhân của bộ máy an ninh CS vào tối nay.
Khi 4 người trên vừa ngồi vào Tiệm ăn được khoảng 15 – 20 phút thì toán công an đông đảo đủ loại đã vô cớ xông vào giải tán họ. Chúng xô vào cưỡng bức kỹ sư Nguyễn Đại đi trước, buộc anh phải lên xe ô tô công an biển số màu xanh và không rõ chúng đưa đi đâu để thẩm vấn. Còn kỹ sư Đỗ Nam Hải bị nhiều công an xông vào xốc nách, bẻ quặt hay tay ra sau để lôi đi và anh đã lớn tiếng tố cáo hành vi thô bạo của chúng gây ra cho mình và các anh chị em khác. Một số đông công an khác bất chấp 2 chị em nhà họ Lư là phụ nữ vẫn xông vào đánh đập, đá đạp tới tấp 2 chị em các cô ngay tại tiệm ăn để chúng cưỡng buộc họ lên xe đưa về đồn công an phường 1, quận Gò Vấp. Khi đưa được 2 chị em lên xe rồi, toán công an du côn và bặm trợn kia vẫn ra sức tấn công thô bạo các phụ nữ này. Vì chứng kiến tận mắt tội ác của công an CSVN đang hành hung vô cớ 2 chị em nhà họ Lư nên anh Đỗ Nam Hải đã tuyên bố thẳng thắn với chúng : “ Các cậu nên nên kiếm nghề khác mà làm đi nghề này nhục nhã lắm không hay ho gì đâu. Cái chế độ này quá tàn ác và nhục nhã vì người ta mời nhau ăn tối thôi mà vô cớ kéo đến đánh đập thì còn ra cái thể thống gì nữa không ? Các cậu ỷ thế nam giới, đàn ông, đông người đánh đập 2 chị em người ta là phụ nữ thì có gì xấu hổ và nhục nhã hơn nữa không ?”… Mặc cho anh chị em đấu tranhn kháng cự phản đối quyết liệt đám công an lâu la đông đúc vẫn xông vào lôi kéo, túi bụi đá, đạp giải tán bữa ăn tối của mọi người làm tất cả các khách hàng tại đây náo loạn và rất bất bình. Lúc diễn ra sự vụ đó là vào khoảng gần 19 giờ tối tại quán cà phê “Vườn Nhà Ai” , ở địa điểm số 3, đường Hoàng Minh Giám, thuộc phường 9, quận Phú Nhuận, Sài Gòn. Biển số xe công an chúng chở mọi người đi trong cuộc đàn áp thô bạo là : 51B-0450.
Anh Đỗ Nam Hải bị giam giữ trái phép tại công an quận Phú Nhuận suốt từ đó, nhưng với bản lĩnh kiên cường, với kinh nghiệm và thời gian đấu tranh đã dài nên khi vào đồn công an anh không ngớt lên tiếng tố cáo công an cộng sản vi phạm thô bạo nhân quyền và quyền công dân sơ đẳng. Đến gần 21 giờ đêm chúng đã thả anh Đỗ Nam Hải sau gần 2 tiếng đồng hồ tạm giữ trái phép. Sau đó khoảng một tiếng các cô Lư Thị Thu Duyên và Lư Thị Thu Trang cũng được thả ra khỏi đồn công an phường 9, quận Gò Vấp. Như vậy chúng đã tạm giữ vô cớ các cô sau 3 giờ liền. Còn kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại cho đến gần 23 giờ đêm chúng cũng thả anh ra khỏi đồn công an phường 9, quận Phú Nhuận. Khi về tới nhà kỹ sư Đại đã gọi điện thông tin cho nhà báo Nguyễn Khắc Toàn tại Hà Nội cho anh biết cụ thể tình tiết cuộc vây giáp, thô bạo trắng trợn của công an CS Sài Gòn vào tối nay. Kỹ sư Nguyễn Đại là thành viên mới của Phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam, anh đã ghi tên vào Khối đấu tranh 8406 từ tháng 8/2009 nên khi bị thẩm vấn trong công an, chúng đã sử dụng lực lượng đông đảo để trấn áp khủng bố người bạn trẻ trí thức này khá căng thẳng… Theo anh Hải cho biết thì mục đích của cuộc trấn áp tối nay là chủ yếu nhằm vào kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại vì chúng muốn anh phải kinh hãi, khiếp sợ trước sự đàn áp của bộ máy đàn áp để từ bỏ ý chí đấu tranh đòi dân chủ và không tham gia Phong trào nữa mà thôi.
Ngoài ra theo anh Nguyễn Khắc Toàn từ Hà Nội cho tôi biết là, nội dung cuộc thẩm vấn với kỹ sư Nguyễn Đại là công an CS Sài Gòn muốn anh không liên lạc với anh Đỗ Nam Hải cũng như các thành viên đấu tranh dân chủ khác nữa tại thành phố này. Công an CSVN còn buộc anh phải từ bỏ rút tên ra khỏi Khối 8046 và tự mình viết thư yêu cầu các trang website hải ngoại phải gỡ bỏ bài viết đầu tiên về Dân chủ mà người trí thức này vừa phổ biến công khai trên mạng. Trước áp lực đó kỹ sư Nguyễn Đại nói không chấp nhận việc đòi hỏi các trang website đã đăng bài của mình bỏ ra khỏi các trang báo điện tử như yêu cầu vô lý của công an CSVN. Trước khi thả anh ra khỏi đồn sau hơn 4 giờ bị bắt giữ, công an bảo vệ chính trị của CSVN đã tuyên bố tạm giữ chiếc simrcacd điện thoại của kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại và hẹn thứ 3 tuần tới sẽ trả lại. Đây chính là chiếc simcar anh đang dùng và có ghi số của nó dưới bài viết đầu tiên đã được phổ biến rộng rãi trên mạng internet mới đây. Mục đích của việc tạm giữ chiếc simcard điện thoại của kỹ sư Đại là công an CSVN muốn ngăn chặn cuộc phỏng vấn do đài phát thanh SaiGon Đalat từ tiểu bang Tetxat Hoa Kỳ gọi về vào 9 giờ sáng mai và các liên hệ khác của công luận quốc tế, hải ngoại và bạn đọc muốn chia sẻ kể từ khi anh cho công khai phổ biến bài viết bày tỏ dân chủ của mình hôm 25/11/2009.
Điều này đã thể hiện rõ khả năng công an cộng sản đang rất muốn trấn áp khủng bố kỹ sư trẻ Nguyễn Đại một cách điên cuồng nhằm ngăn chặn sự phát triển rộng ra hơn nữa của Phong trào đấu tranh trong nước đang ngày một lan tỏa rất khó lòng ngăn cản được.
Tôi được biết kỹ sư Nguyễn Đại từ sau ngày hết án ra tù, nói chính xác là sau khi tôi bị tai nạn giao thông bí ẩn tại Thanh Hóa và được anh Nguyễn Khắc Toàn viết bài kêu gọi giúp đỡ công bố trên Mạng toàn cầu. Từ khi biết được thông tin, địa chỉ, số điện thoại cụ thể của gia đình và của tôi qua bài viết của anh Nguyễn Khắc Toàn như vậy nên chúng tôi vẫn thường hay trao đổi trò chuyện với nhau rất nhiều trong một thời gian khá dài mấy tháng qua. Tôi biết kỹ sư Đại là một trí thức trẻ, kiêm một doanh nhân rất thành đạt trong công việc. Anh cũng là công dân có tinh thần yêu nước, nên anh rất cảm kích trước những hoạt động và tấm lòng của các thành viên khối 8406. Qua thời gian trao đổi trò chuyện với tôi, anh đã từng có ý nguyện tham gia khối 8406 và nói sẽ có thể nghỉ kinh doanh để đến với phong trào đấu tranh trong nước. Chính vì thế tôi đã giới thiệu anh đến với các nhà tranh đấu dân chủ tại quốc nội như các anh Nguyễn Khắc Toàn, Đỗ Nam Hải, Linh mục Phan Văn Lợi… và một số nhà dân chủ khác để anh tìm hiểu cách thức và học hỏi kinh nghiệm đấu tranh của họ. Vừa rồi khi ra miền Bắc anh đã gặp nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, nhà văn Hoàng Tiến, anh Lê Thanh Tùng, kỹ sư Nguyễn Trung Lĩnh, chị Dương Thị Xuân, cụ bà Hoàng Minh Chính… cùng một số anh chị em đấu tranh nhà dân chủ khác tại Hà Nội. Tôi còn được biết anh đã từng tham gia diễn đàn X-Cafe và đã viết các bài đưa lên diễn đàn đó. Cùng một số bài viết về tự do dân chủ tại Việt Nam anh gửi cho riêng tôi và sau đó tôi đã từng phổ biến cho nhân dân quê tôi rất có sức thuyết được nhân dân ủng hộ rất tốt.
Về vụ đàn áp khốc liệt để bắt giữ các kỹ sư Nguyễn Đại, Đỗ Nam Hải, các cô Thu Duyên, Thu Trang tối ngày hôm nay xảy ra là hành vi không thể chấp nhận được của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, vì nó vừa vi phạm pháp luật trong nước rất trắng trận, vì nó đã xâm phạm nhân quyền rất trầm trọng và hết sức thô bạo mà công luận cần cực lực tố cáo. Đó là các hành vi tấn công giầy xéo vào quyền tự do hội họp, tự do tụ họp của công dân Việt Nam rất thô bỉ của bộ máy an ninh CSVN gây ra đối với người dân trong nước mà không thể tha thứ được.
Tôi viết và đưa bản tin này đưa lên để dư luận đồng thanh phản đối hành vi đê hèn này của công an cộng sản Việt Nam và mong mọi người hãy cùng lên tiếng thật mạnh mẽ để lên án hành vi chà đạp quyền con người như đã nói trên của công an cộng sản việt Nam !!!
Xóm 2, xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
Hồi 01 giờ 15 phút ngày 30/11/2009
Hồ Thị Bích Khương
ĐT: 0984 – 980 – 597
Emai liên lạc : thegioivihoabinh@gmail.com
HÀNG RONG HÀ NỘI (thơ)
Hàng rong Hà Nội
Bắc Phong
30.11.2009
http://damau.org/archives/10134
đất nghìn năm văn vật
sao người dân đầu tắt mặt tối
vẫn không có đủ ăn
sắp nghìn năm Thăng Long
thủ đô vẫn nhếch nhác hàng rong
làm cho quan chướng mắt
lệnh công an đánh dẹp
chạy từ phố này sang phố khác
nhiều khi mất hết hàng
vốn mỏng càng thêm mỏng
miếng ăn mỗi ngày một khó kiếm
con bữa đói bữa no
thời kinh tế đổi mới
nhà nước quy hoạch đủ các ngành
trừ buôn thúng bán bưng
cấm đẩy xe gánh gồng
bạn hàng rong nhìn nhau than thở
cùng đinh thành cùng đường
cái khó bó cái khôn
chẳng ai muốn gió sương phơi mặt
mà cũng phải đành thôi
phải lo đứng lo ngồi
sợ xe đâm sợ công an phạt
trôi dạt khắp hè đường
xin tha để kiếm cơm
cho con mình có ăn đi học
khổ nhục mấy cũng cam
sẽ tốn bao tỷ đồng
ăn mừng thủ đô thiên niên kỷ
nghèo giấu sau cờ xí
dân chỉ mơ giản dị
có cái ăn cái mặc ra hồn
tươm tất với quê hương
ôi cái kiếp bần dân
bao giờ đủ ấm no mà nhớ
chuyện vua mơ thấy rồng
Bắc Phong
30.11.2009
http://damau.org/archives/10134
đất nghìn năm văn vật
sao người dân đầu tắt mặt tối
vẫn không có đủ ăn
sắp nghìn năm Thăng Long
thủ đô vẫn nhếch nhác hàng rong
làm cho quan chướng mắt
lệnh công an đánh dẹp
chạy từ phố này sang phố khác
nhiều khi mất hết hàng
vốn mỏng càng thêm mỏng
miếng ăn mỗi ngày một khó kiếm
con bữa đói bữa no
thời kinh tế đổi mới
nhà nước quy hoạch đủ các ngành
trừ buôn thúng bán bưng
cấm đẩy xe gánh gồng
bạn hàng rong nhìn nhau than thở
cùng đinh thành cùng đường
cái khó bó cái khôn
chẳng ai muốn gió sương phơi mặt
mà cũng phải đành thôi
phải lo đứng lo ngồi
sợ xe đâm sợ công an phạt
trôi dạt khắp hè đường
xin tha để kiếm cơm
cho con mình có ăn đi học
khổ nhục mấy cũng cam
sẽ tốn bao tỷ đồng
ăn mừng thủ đô thiên niên kỷ
nghèo giấu sau cờ xí
dân chỉ mơ giản dị
có cái ăn cái mặc ra hồn
tươm tất với quê hương
ôi cái kiếp bần dân
bao giờ đủ ấm no mà nhớ
chuyện vua mơ thấy rồng
PHỎNG VẤN NHÀ ĐẤU TRANH NHÂN QUYỀN : VÕ VĂN ÁI (1)
Phỏng vấn nhà thơ , nhà đấu tranh nhân quyền : Thi Vũ - Võ Văn Ái
lê thị huệ,
chủ biên gio-o.com thực hiện
http://www.gio-o.com/LeThiHuePhongVanThiVuVoVanAi1.htm
Tờ Quê Mẹ ở Pháp do ông tạo dựng cùng với tờ Người Việt Tự Do của sinh viên Ngô Chí Dũng ở Nhật là hai cánh cổng lớn mở đường cho biểu tượng trí thức Việt hải ngoại dấn thân từ năm 1975 đến nay. Giờ đã là những ngày tháng về muộn cuối năm 2009, Võ Văn Ái và Quê Mẹ vẫn là một trong những thủ lĩnh nòng cốt chỉ huy các đấu trường Nhân Quyền Quốc Tế cho người Việt Nam ở trong và ngòai nước. Thơ ông sâu thẳm, cô đọng, kiến trúc chữ cầu kỳ đẹp cấp cao. Tạp Ghi Ở Paris của Thi Vũ là một tác phẩm độc đáo của một người Việt ăn dầm ở dề với Paris lâu và thơ văn thành phố qua trang chữ Việt. Ông có một số trước tác quan trọng như Nguyễn Trãi Sinh Thức Và Hành Động, Luận Chiến Nước Ngòai. Nhưng với tôi, con người trí thức và đời sống ông lôi cuốn hơn tác phẩm của ông. Ông thuộc tầng lớp trí thức ưu tú Miền Nam đi du học ở Âu Châu trước năm 1975, thời điểm Nam - Bắc Việt Nam bị cưa đôi bởi ý thức hệ Quốc Gia Cộng Sản. Ông khác với nhiều bậc trí thức Việt Nam cùng thời cùng đám, là ông đã chọn lựa cái vị thế cô đơn của một trí thức Việt xa nhà không thể xu thời theo trí thức Tả Tây Tả Mỹ, làm những điều gây nên những tội ác cho quê hương ông . Điều đó không có nghĩa là ông hòan tòan Hữu. Nhưng ông giữ được một cách thế Trí Thức Độc Lập mặc cho khuynh hướng trí thức thời đại Tây Tàu nổi mạnh và dẫn đường thế giới đến đâu. Ông gây cho tôi sự chú ý vì phong thái Trí Thức Độc Lập ấy. Điều mà lâu nay tôi thấy hơi yếu và đuội ở giới trí thức Việt Nam nổi tiếng. Ông làm cho thế hệ đàn em hải ngoại chúng tôi hãnh diện lớp đàn anh du học có những người như Thi Vũ Võ Văn Ái, một trí thức Việt thông thái đầy bản lĩnh dám làm một nhà lãnh đạo đấu tranh cho Nhân Quyền trên các chính trường Quốc Tế.
Ông có cái dáng vẻ trí thức lẻ loi, cả khi ông nhập vào đám đông để đấu tranh cho họ, đấu tranh cùng với họ. Thi Vũ Võ Văn Ái là một tác phẩm sống, mà một kẻ - có định mệnh bị xô đẩy đi lôi kéo tiểu thuyết về gia phả vào đời mình vào đời thường, chứ không phải là đem đời mình và đời thường thêu dệt nên tác phẩm tiểu thuyết như tôi - rất tò mò muốn khám phá về ông… Mãi đên khi hoàn tất bản phỏng vấn, tôi vẫn chưa bao giờ gặp mặt ông, chưa bao giờ nói chuyện điện thoại với ông. Cuộc phỏng vấn được được thực hiện qua điện thư . Mọi chuyện xảy ra đôi khi giống như là tôi đang được đối thoại với một … nhân vật rất tiểu thuyết. (lê thị huệ –tháng 11/2009)
1.
Lê Thị Huệ: Chào nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, câu hỏi đầu tiên tôi muốn hỏi, là ông chọn làm một nhà tranh đấu hay hoàn cảnh đã đưa đẩy ông trở thành một nhà đấu tranh cho nhân quyền và Phật Giáo Việt Nam ?
Võ Văn Ái : Tranh đấu là phản ứng, không phải chọn lựa. Hai nghìn năm lịch sử con người Việt là chuỗi phản ứng trước nạn xâm lăng nước ngoài, trước những bất công, đàn áp đến từ vua chúa và các chế độ bất nhân bên trong. Tức ngoại xâm và nội xâm. Người ta bảo con trùn còn phải oằn khi bị giày xéo, thì con người làm gì khi bản thân, gia đình, xóm giềng bị bức hiếp ?
Tôi sinh ra dưới thời Pháp thuộc. Thân phụ tôi làm cho nhà giây thép Pháp, nhưng tinh thần ông chống Pháp gây ảnh hưởng sang tôi. Thế hệ chúng tôi không có thời thơ ấu vì mới chào đời đã tiếp cận nô lệ, loạn lạc, chiến tranh. Vừa mới biết nhìn đời đã gặp đệ nhị thế chiến, chiến xa Pháp tập trận, quân đội Nhật kéo vào Đông Dương.
Hình ảnh đánh động tâm tư tôi thời bé những năm 40 là chiến xa Pháp tập trận ủi vào cây vải nhà tôi ở Bến Ngự, Huế, tước một mảng vỏ bày ra thớ thịt cây vàng thẩm như máu ối. Tôi đã đau xót như cây.
Thời đó mẹ tôi thui thủi trong căn phòng hiu quạnh lúc cha tôi đi làm xa trên biên giới Việt Hoa. Mỗi năm một bận ông về thăm một hai ngày. Thỉnh thoảng bà ngâm thơ khe khẽ, tôi chỉ nhớ hai câu “Chồng hỡi chồng, con hỡi con… cùng nhau xa cách mấy năm tròn…”. Câu thơ đeo đuổi tôi rất lâu. Phải chăng đó là hồn thơ mẹ gieo vào lòng, khiến tôi chỉ muốn là người làm thơ trong đời này ? Lớn lên mới biết đó là thơ Thượng Tân Thị làm thay vợ vua Thành Thái khi chồng bị Tây đày sang Madagascar.
Tôi sinh ra trên dãy Hoàng Liên Sơn vùng biên giới Việt Hoa, về Hà Nội những năm đầu học vỡ lòng rồi theo cha mẹ vào Saigon, Nhatrang, Bình Định. Năm 5 tuổi mới về Huế ở Bến Ngự. Những bài học khai tâm là chữ Hán do một đệ tử cụ Phan Bội Châu dạy. Rất sớm tôi đã đọc Cụ Phan Bội Châu. Tiếng gọi giống nòi qua văn thơ Cụ Phan thâm nhập tôi những năm 9, 10 tuổi. Tất cả tiền mẹ cho ăn quà tôi dành mua các sách Cụ Phan tại tiệm sách ông bà Đào Duy Anh ở Huế. Thưở ấy, khi đưa đẩy tao nôi ru em thay mẹ, tôi hát thơ cụ Phan - Á Tế Á, Sống, Bài ca chúc Tết thanh niên, Ái quốc ca, Ai cáo Nam Kỳ…
Hết làm cho Pháp, thân phụ tôi mở căn hàng xén ở Huế. Giữa thập niên 40, tôi chứng kiến hai kỷ niệm khắc sâu. Lần đầu là tên Tàu phù (quân Tàu vàng sang giải giới quân Nhật), lần sau là tên lính Pháp. Cả hai lần bọn chúng cướp giật hàng khi ngã giá. Chúng đánh cha tôi khi ông phản ứng. Còn quá nhỏ để làm được gì, tôi uất hận, đau đớn và tự nhủ lòng phải làm gì để bọn ngoại nhân không còn quyền đánh đập dân Việt.
Sau đó tôi đi theo kháng chiến. Năm 13 tuổi bị bắt và vào tù. Nhờ thân phụ tôi có người bạn học thưở nhỏ làm sĩ quan trong quân đội Pháp, nên ông được phép vào nhà lao thăm tôi. Nhân dịp tôi xin cha tôi mang vào những bộ kinh Phật. Tôi đọc hết các bộ kinh Phật trọng yếu vào thời gian bé bỏng arikasūtra), Kim Cang) ấy, như các bộ Pháp Hoa (Saddharmapun (Vajracchedikā-prajñāpāramitāsūtra), v.v… Tôi chấn động với hình ảnh Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Quán Thế Âm.
Kỷ niệm chưa phai trong tôi thời ấy khi chứng kiến ở phòng tra tấn. Tên chủ sự ngồi bàn giữa quan sát ba thuộc cấp hỏi cung. Hắn bắt một văn công ngồi cạnh hát những bài ca kháng chiến, trong khi ba tên kia vừa hỏi cung vừa tra tấn tù nhân. Trong số này có một chị nữ và một mẹ già. Tinh thần kháng chiến tự dưng bốc cao trong tôi. Làm sao quên những tiếng thét, tiếng khóc trộn lẫn vào giọng ca khi bi hùng, khi tình tự của anh văn công bị bắt. Tôi không hiểu vì sao anh có thể điềm nhiên hát, tên chủ sự có thể điềm nhiên nghe giữa tiếng khóc gào, lăn lộn ? Một cảnh trạng kỳ lạ mà não nùng. Tôi lập tâm phải cứu những người tù ra khỏi ngục.
Từ đó trở về sau, cuộc đời tôi đi vào đấu tranh như con cá giữa dòng nước.
Bồ tát là người giác ngộ, đạt quả vị Phật, nhưng tự ý cư trú cõi trần gian bi lụy, phát nguyện sống đạo giữa đời thường để cứu độ con người. Bồ tát Địa Tạng phát nguyện bao lâu còn một chúng sinh trong địa ngục, ngài thề chưa thành Phật. Địa ngục đâu phải ở cõi âm ? Những Gulag nơi hoang mạc Siberia, trại Lao cải ở Trung quốc, trại Cải tạo ở Việt Nam, trại Tập trung thời Đức quốc xã… không là địa ngục ư ? Chiến tranh không là địa ngục ư ?
Địa ngục tiếng Phạn là Nakura, có nghĩa là nơi chịu khổ, loài chịu khổ. Địa ngục Phật giáo khác địa ngục trần gian ở chỗ do thân thể nhỏ yếu, tinh thần lung lạc lúc phải chịu đựng quả báo do mình gây ra nhân ác mà khổ. Thập điện Diêm phương ta thấy sau hậu liêu các chùa chỉ là lời cảnh báo những ai ngoan cố, gây nhân ác, làm hại người để họ biết sợ mà hối cải. Trái lại, địa ngục trần gian có người cai quản - quản giáo, có người giam nhốt, có người hành phạt, có người tra tấn, giết chóc.
Bồ tát Quán Thế Âm là người lắng nghe tiếng khổ đau nơi thế gian và hiện tới cứu độ. Không trong hình thái thần linh, thiên thần đầy phép lạ và quyền uy, mà ngài hiện thân qua 30 hình thái tượng trưng các giới người trong xã hội để cứu cấp. Nếu người kêu cầu là một phụ nữ, ngài hiện thân ra phụ nữ đến cứu. Nếu người kêu cứu là một vị tướng, một người ngoại đạo, một trong các giai cấp xã hội, một trong các loài trong vũ trụ vô biên… thì ngài liền hóa thân thành thân phận kẻ bị khổ nhục, tội đồ, nạn nhân để cứu cấp. Là người đồng cảnh mới cứu độ kẻ đồng cảnh.
Phật tử là người mang hạnh nguyện quán thế âm - lắng nghe tiếng thế gian cầu cứu mà hiện đến giải vây, giải phóng con người.
Có lẽ những năm trẻ tuổi trong tù, tôi được khai thị về giáo lý Vô Ngã của đạo Phật dưới đáy sâu lòng mình vào lúc nào không hay, làm nên sợi chỉ đỏ của tâm hồn cho những cuộc dấn thân không ngừng nghỉ về sau. Cứ tự bảo hết kháng chiến, hết chiến tranh, hết cộng sản giày xéo dân lành… mình về lại cuộc đời làm thơ, viết văn, nghiên cứu. Nhưng có gì hết đâu như thân phận trần gian khổ lụy trên dải đất hình chữ S kéo dài từng nghìn năm.
Nghĩa đen vô ngã (anātman) là không ta, không có cái ta. Nhưng nội hàm mang nghĩa tương sinh tương duyên. Trong vũ trụ chẳng có chi tồn tại biệt lập và bất biến, mọi sự mọi vật đều do tổ hợp của nhiều yếu tố duyên ra. Cây lúa kia không thuần túy là một cây lúa biệt lập, tự tại, miên viễn. Cây lúa là một quá trình tương hợp của hạt giống là nhân, cộng với cái duyên của đất, nước, mặt trời, phân bón và sức nông dân lao động để thành quả lúa. Tất cả những yếu tố ấy duyên khởi ra cây lúa. Thiếu bất cứ yếu tố nào, lúa không thành lúa. Đây là hàm nghĩa của vô ngã. Phân tích về con người cũng vậy.
Vô ngã, là lý nhân duyên sinh trong không gian; và Vô thường (anitya) là lý nhân duyên sinh trong thời gian. Từ ý thức nhân duyên sinh, tôi không là cái ta biệt lập mà tương sinh tương dự với người khác. Cho nên sự khổ đau của người khác, người khác bị áp bức cũng là sự khổ đau, áp bức cho bản thân tôi. Tinh hoa của đạo Phật là ở lý duyên khởi hay duyên sinh này, làm cho đạo Phật khác với tất cả mọi hệ thống suy tưởng của các tôn giáo khác. Tự thân của sinh thức này là sự giải phóng và tự do tối hậu cho con người trần lụy và mọi loài trong tam thiên đại thiên thế giới (1) tức vũ trụ.
Một ngày nọ Bồ tát Văn Thù (Mañjurī) đến thăm bệnh Cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakīrti). Hỏi ông bệnh gì ? Cư sĩ Duy Ma Cật đáp : Chúng sinh bệnh nên tôi bệnh. Thuật ngữ Phật giáo của từ chúng sinh bao hàm tất cả các loài hữu tình, chứ không trỏ riêng loài người. Tất cả những chi kết hợp thành sự sống gọi là chúng sinh (chúng duyên nhi sinh). Bệnh của Bồ tát tương lân với bệnh chúng sinh. Nên Bồ tát ra công cứu độ chúng sinh.
Trong bản kinh Phật Việt Nam đầu tiên, Lục độ tập kinh, xuất hiện ở Giao châu vào thế kỷ thứ III Tây lịch, có một câu ứng cho câu hỏi về tác phong Phật giáo của chị: “Bồ tát thấy dân kêu ca liền gạt lệ xông vào nơi chính trường hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than”. Đạo Phật Việt Nam ở thế kỷ thứ III đã là như thế.
2.
Lê Thị Huệ: Nếu nói thành tích của Võ Văn Ái là một trong vài nhà tranh đấu nhân quyền có tầm vóc quốc tế, giữ được ngọn lửa đấu tranh cho Việt Nam từ 1975 cho đến nay ? Ông nghĩ thế nào ?
Võ Văn Ái : Tôi bắt đầu sinh hoạt thế giới khi tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên năm 1958 ở Bodensee bên Đức (Die Erste Internationale Jugendtagung der Fraternitas – Für Eine Brüderliche Welt) bao gồm đại biểu các nước Á châu, Phi châu và Châu Âu. Sau này do tôi hoạt động sớm cho Việt Nam ở Tây phương từ năm 1963 với nhiều dự án có tính quốc tế, rồi có mặt trong tư thế phát biểu thường niên cho nhân quyền Việt Nam tại Ủy hội Nhân quyền LHQ từ năm 1985. Đặc biệt qua các cuộc vận động quốc tế, tôi có dịp tiếp cận giới nhà văn, học giả, nhân sĩ có danh trong thế giới, nên được truyền thông báo chí quốc tế nhắc nhở. Kỳ thực có hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu người Việt giữ lửa đấu tranh cho Việt Nam suốt thế kỷ XX vừa qua. Nhưng ít được nhắc nên không ai biết. Tôi chỉ là một người Việt trong số trăm, nghìn, triệu người Việt vô danh khác đã đứng lên trong bóng tối chống thực dân, chống độc tài, và đòi hỏi Quyền làm Người Việt Nam.
3.
Lê Thị Huệ: Là một phật tử trí thức tích cực dấn thân, theo ông đâu là ưu và khuyết điểm của Phật Giáo Việt Nam ?
Võ Văn Ái : Cái ưu của Phật giáo Việt Nam là con đường tu và hành theo Đại thừa giáo còn gọi Bắc tông (Mahāyāna) được phát triển rất đặc thù và có sáng tạo theo hướng dân tộc bản địa từ trung tâm Luy Lâu trước và sau các thế kỷ bản lề Tây lịch.
Tu thì thực hiện sự giác ngộ cho bản thân, đồng lúc cưu mang giác ngộ cho kẻ khác (tự giác nhi giác tha). Hành động thì không rời việc cứu khổ quần sinh trên mặt đất. Cần thâm nhập chữ khổ kha) theo(((duh giáo lý đạo Phật. Khổ đây không là cái khổ thể xác của con lừa suốt ngày đi quay vòng theo cối xay hay người thợ lao lực nơi công xưởng, mà là không biết đến hệ lụy của vòng tròn miên viễn cột dính mình vào thế phận trầm luân. Cái không biết ấy gọi là vô minh (avidyā). Vô minh mới chính là mối khổ ách của nhân sinh. Quán sát nhân duyên con người, đức Phật dạy 12 nhân duyên phát khởi ra luân hồi như một dây chuyền liên tục từ khâu này sang khâu khác (thập nhị nhân duyên : vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử), thì vô minh (mê muội, không sáng suốt) là điểm khởi phát cho mọi trầm luân, hệ lụy. Đối với ngoại cảnh, vì vô minh nên không chân nhận được thực tướng vô ngã, vô thường của sự vật. Đối với nội tâm, vì vô minh nên quay cuồng theo sự phân biệt, vong thức. Giải quyết được vô minh là giải quyết tất cả.
Nói về vô minh của loài người hôm nay đây, vào năm 2009, thì phát kiến khoa học được bao trùm đến chân tơ kẽ tóc, nhưng đứng trước vũ trụ vô biên, khoa học vẫn còn ở vị thế vô minh. Chúng ta, tức khoa học, chỉ mới nắm vững trên phạm vi kiến thức 10% vật chất trong vũ trụ mà thôi. 90% cái gọi là “Vật Đen” (Dark matter/Matière noire) hùng cứ trong vũ trụ mà các nhà khoa học mới có khái niệm vào những năm 30 thế kỷ XX. Vật Đen vẫn còn là dấu hỏi lớn, vẫn còn trong dạng vô hình, chưa nắm bắt, hiểu biết. Vũ trụ còn che giấu 90% khối lượng nguyên tử của nó, nên chúng ta còn vô minh về 90% khối lượng (vật đen) hiện hữu. Kiến thức nhân loại về vũ trụ chỉ mới đạt ở mức độ 10% mà thôi. Dễ sợ cho những ai dương dương tự đắc về sự hiểu biết hay thông tuệ của mình.
Từ điểm ưu Phật giáo nói trên mà Việt Nam đào luyện ra những con người biết đối ứng với cuộc thế một cách sáng tạo và hùng tráng, như Sư bà Thiều Hoa (một bà Ni, tức nữ tu sĩ) năm 36 Tây lịch mộ 500 quân đến ứng chiến với Hai Bà Trưng, rồi tới những Phật tử tham gia 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Phật tử Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), các đạo sư, thiền sư, cư sĩ Phật tử như Đinh Bộ Lĩnh, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trải, v.v… qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê trong việc dựng nước, giữ nước và cứu người.
Một ưu điểm hiếm thấy so với các quốc gia Phật giáo Á châu khác, là vai trò nổi bật của người Cư sĩ Phật giáo trên hai lĩnh vực đạo và đời. Cư sĩ là các nam, nữ Phật tử tu tại gia. Đức Phật Thích Ca xây dựng Cộng đoàn Phật giáo trên bốn tập thể (tứ chúng) : Tăng (nam tu sĩ), Ni (nữ tu sĩ), nam Cư sĩ tu tại gia và nữ Cư sĩ tu tại gia. Nhìn vào các phổ hệ thiền tại Việt Nam sẽ thấy điểm nổi bật ấy. Thường các phổ hệ thiền của các môn phái Phật giáo chỉ thấy tên tuổi đắc pháp của các bậc thiền sư, tức tăng sĩ (các vị xuất gia).
Nhưng tại Việt Nam, xuất hiện nhiều Cư sĩ đắc pháp trong các phổ hệ thiền.
Vì pháp lý bình đẳng (chữ Phạn là sama) trong giới người theo đạo Phật bị sa sút, nên ngày nay mới có hiện tượng Tăng sĩ xem Cư sĩ như người sai vặt, kẻ thủ từ, người mang lại két tiền cho các chùa. Chứ xưa kia, Cư sĩ không như thế. Vai trò Cư sĩ ở thời đại lập quốc Việt Nam vừa đảm nhiệm vai trò Hộ Pháp (bảo vệ giáo lý giác ngộ), còn hoàn tất cự phách việc Hộ Dân (cứu dân) và Hộ Quốc (bảo vệ nước). Cư sĩ xông vào thế sự - chứ không là thế tục - giải quyết việc thế giới. Chất thế lấn át chất tục trong con người Cư sĩ Phật giáo.
Dòng thiền Pháp Vân của ngài Tì Ni Đa Lưu Chi kéo dài từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII gồm toàn các tăng sĩ đắc pháp (nắm bắt chân lý giác ngộ của đạo Phật). Sang đến dòng thiền Kiến Sơ của ngài Vô Ngôn Thông, từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIII, thì 13% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ (người tu tại gia). Dòng thiền Thảo Đường từ thế kỷ XI đến một thế kỷ rưởi sau có 50% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ. Sau đấy một dòng thiền đặc thù và tổng hợp của Phật giáo Việt Nam là dòng thiền Trúc Lâm Yên tử, đỉnh cao của giới Cư sĩ tham dự trong đời sống giác ngộ đạo cũng như hoàn mãn việc thế sự, được biết dưới chủ trương Cư trần lạc đạo - sống tại thế nhằm thể hiện đạo - đúng theo phong thái của Phật giáo đại thừa “Phật giáo không lìa thế gian để hoàn thành sự giác ngộ” (Phật giáo bất ly thế gian giác). Điều này có nghĩa là tất cả các pháp (sự lý trong đời) đều là Phật Pháp. Một đạo Phật như thế hẳn nhiên là sự chung dự thiết tha và thiết yếu với đời sống con người trên mặt đất. Tôi quan niệm và tin tưởng một đạo Phật như thế.
Vua Trần Nhân Tông hai lần cầm quân chống Nguyên Mông và đại thắng, là một Cư sĩ Phật giáo. Sau trở thành Thiền tổ của dòng Thiền Trúc Lâm. Trần Hưng Đạo là một cư sĩ, Tuệ Trung thượng sĩ là một thiền sư nhưng vẫn cầm quân giữ nước chống Nguyên Mông, xong việc nước mới trở về chùa viện. Sự tham dự của người Cư sĩ Phật giáo vào các lĩnh vực chính trị, văn hóa, ngoại giao, kinh bang tế thế rất phổ biến và đặc thù trong quá trình dựng nước, giữ nước, cứu người, từ cuộc kháng chiến vệ quốc của Hai Bà Trưng tiếp đến các triều đại lâu sau.
Điểm khuyết của Phật giáo Việt Nam ở thời hiện đại, là người học đạo thì nhiều, nhưng người chứng đạo không bao lăm. Người thuyết pháp nhiều, nhưng người thể hiện giáo lý đạo Phật vào cuộc đời hằng nhật quá hiếm hoi. Nói tóm, tu đạo thì có, hóa đạo còn sơ sài.
Đặc biệt là sự vắng bóng của giới Cư sĩ Phật giáo trên chính trường nước Việt. Một thiệt thòi cơ bản cho sự phát triển Việt Nam.
Đương nhiên giới Cư sĩ Phật giáo rất đông. Song họ chuyên tu đạo Phật hơn hành động Phật giáo. Đến khi hành động họ tham gia các phong trào phi Phật giáo hoặc phản Phật giáo, thay vì gia công hình thành con đường hành động mới, dựa trên lòng từ bi và trí tuệ. Năm 1963 cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng thành công, là cơ hội bằng vàng cho Phật giáo trở thành giải pháp mới đem lại tự do, bình đẳng, công lý trước ý thức hệ thảm sát của Cộng sản. Nhưng giới lãnh đạo Phật giáo đã đánh mất cơ hội này. Từ năm 1966 trở đi cuộc phân hóa trong cộng đồng Phật giáo trở nên trầm trọng cho tới hôm nay, 2009. Khởi từ sự phân hóa trong giới Tăng lữ lãnh đạo nên mất trí tuệ điều hành cuộc chống trả các thế lực áp đảo bên ngoài nhằm mở ra viễn kiến dân tộc và nhân loại.
Do thiếu kiến thức về thế giới, mắc cạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nên một số lãnh đạo Phật giáo không có giải pháp thời thế, bị các thế lực đảng phái khuynh loát, là những nguyên nhân phân hóa giới lãnh đạo Phật giáo làm cho khối lượng quần chúng vạm vỡ Phật giáo không phát triển và tê liệt theo.
Tôi có cảm tưởng ngày nay đa số người tu đạo Phật phục vụ cái chết nhiều hơn sự sống. Tiêu đích họ nhắm là xin chiếu khán vào Niết Bàn, chứ không truyền thừa con đường cứu khổ - trừ diệt vô minh - của đạo Phật, đặc biệt là sinh thức “Cư trần lạc đạo” của nền Phật giáo dân tộc. Mặt khác do quan điểm thời gian vô hạn, sống nhiều kiếp, nên quán tính lần lữa, trì hoãn, bó tay không cho họ giải quyết việc đời : Kiếp này không thực hiện được thì chờ kiếp sau, kiếp này không lấy nhau được thì hẹn kiếp lai sinh… đại khái như thế. Trong khi người phương Tây chỉ có tối đa 100 năm để sống, nên họ thu xếp thực hiện mọi sự cho kỳ được nơi cõi trăm năm.
Do có thời gian mênh mông của nhiều kiếp nên trong giới Phật tử còn ít người chú tâm gầy dựng cảnh nhân gian tịnh độ trên trái đất và trước hiện tiền. Họ quên bẵng một cõi Nhân gian tịnh độ có thể thiết lập trên mặt đất. Họ khoán trắng cõi Tịnh độ cho đức Phật A Di Đà nơi cõi Tây phương Cực lạc. Khí thế Phật giáo Lý – Trần chỉ được nhắc nhở, đề cao nhằm thoa vuốt mối tự hào hão, nhưng không được hồi sinh, tái tạo trong Ý thức Dung hóa với xu thế toàn cầu và những tiến bộ ngất trời của nhân loại.
Trong phong trào Chấn hưng Phật giáo khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, tôi chỉ thấy một Cư sĩ Phật giáo gương mẫu có ý thức và có hành động thiết lập cõi Nhân gian tịnh độ là Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Văn Kha ở đất Thăng long. Nhưng ông đã bị Việt Minh bức tử trong phong trào Cải Cách Ruộng đất.
Nhân tổ chức phòng triển lãm tranh tại Paris năm 1967, Henry Miller từ Hoa Kỳ đến thăm tôi, mang một tấm tranh tặng cháu Ái Anh, cháu gái đầu lòng mới sinh. Anh là cha đỡ đầu cho cháu. Henry Miller nói một câu làm tôi giật mình và suy gẫm nhiều năm sau : “Ba nghìn năm qua có ai thành Phật sau đức Thích Ca không ?”.
4.
Lê Thị Huệ: Ông có thể cho biết những đóng góp nổi bật nào của văn hoá Phật Giáo vào trong văn hóa Việt Nam từ trước đến nay ?
Võ Văn Ái : Trong nền văn hóa chủ lưu dân tộc, sắc thái văn hóa Phật giáo rất đậm nét. Nhìn vào kho tàng ca dao, tục ngữ, là mức suy tưởng bộc trực của quần chúng mà ta có thể gọi như nền triết lý đối ứng chưa hệ thống thành triết học, cho đến các tác phẩm bác học đủ minh chứng cho nhận định này. Tâm thức cũng như hành hoạt con người Việt gắn kết với định luật nhân quả (ác giả ác báo) và lòng a - mang'thương người (lòng từ, thuật ngữ Phật giáo gọi lòng từ bi - kārun nghĩa từ là cho vui, bi là cứu khổ). Hiển nhiên nước nào lại không công nhận hay đề cao lòng thương người, lòng bác ái, vậy Việt Nam có gì ngoại lệ ? Thế nhưng, thể hiện lòng thương theo đạo lý nhị nguyên, hay lòng thương là vật tự thân của nguyên lý bất nhị, khác nhau lắm trong tiến trình tư tưởng và hành động. Một bên có chủ đích, một bên bất vụ lợi. Câu nói bình dân “thương người như thể thương thân” đại biểu cho ý thức Phật giáo thấm vào lòng ý thức dân tộc. Qua câu này giáo lý Vô ngã, tức giáo lý duyên khởi, duyên sinh cơ bản của Phật giáo được thể hiện một cách tự nhiên và đầm ấm, chứ không là khẩu hiệu hô hoán hay động viên.
Tuy nhiên cần cảnh giác lý nhân quả để đừng biến nó thành chủ nghĩa định mệnh. Nhân nào quả ấy, ai gây nhân kẻ ấy gặt quả, là đúng. Nhưng một số Phật tử thụ động ngồi chờ cái sự “ác giả ác báo” ấy như một thứ Phán xét cuối cùng (Jugement dernier), mà chẳng ra tay ngăn cản những nhân ác hoành hành. Trên kia tôi nó nhắc biểu tượng cây lúa. Hạt lúa là nhân, cây lúa là quả. Nhưng để cho nhân hình thành ra quả cần thêm những duyên. Duyên tuy phụ nhưng không có sẽ không thành quả. Duyên đây là đất, nước, gió thuận, mưa hòa, phân bón và sức lao động người nông dân. Không có các duyên này, cây lúa không thành. Cũng thế, nhân tốt là tình yêu, nhưng không có duyên bảo vệ, chia sẻ thì quả hạnh phúc vợ chồng khó hiện hữu. Cho nên có nhân có quả còn phải có duyên lành, mà ta cần nhấn mạnh như NHÂN DUYÊN QUẢ để không rơi vào thái độ yếm thế biến NHÂN QUẢ thành chủ nghĩa định mệnh, chờ thời.
Nhân Cộng sản xấu ác đưa tới Quả địa ngục cho Việt Nam. Hẳn phải như thế, khi không có sự chung dự của những biệt nghiệp lành (karma individuel, nghiệp của từng cá nhân) của những cá thể nhằm chuyển hóa cộng nghiệp xấu ác (karma collectif, nghiệp của tập thể, cộng đồng). Vì vậy, Quả tự do cho một nước Việt Nam vẫn có thể thực hữu nếu duyên dấn thân của Người Việt can dự để chuyển Nhân xấu ác Cộng sản thành Quả tự do, dân chủ cho đất nước. Luật Nhân quả cần một khoảng thời gian chuyển biến như một tiến trình. Tiến trình ấy ngắn hay dài tùy thuộc vào duyên can dự. Phật giáo còn quan niệm một Nhân-Quả-đồng-thời, đủ biết khả năng thiên hình vạn trạng mà ý chí con người có thể tham dự để biến khổ đau thành hạnh phúc, nô lệ thành tự do.
Văn hóa Phật giáo là Văn hóa Giác ngộ và Cứu khổ, tiền đề cho Ý thức Sáng tạo trong đời sống và Ý thức Cấp cứu khi nguy biến. Lịch sử dân tộc là một chuỗi dài tham dự cứu nguy của toàn thể quần chúng các giới nhờ thấm nhuần tư tưởng đạo Phật trên ba nguyên lý từ bi a),'(kārun trí tuệ (prajñā), bình đẳng (sama). Pháp bình đẳng rất chủ yếu trong đạo Phật. Từ nhận thức chúng sinh đều có tính Phật (Phật tính) nên mọi người đều đồng đẳng, không phân biệt cao thấp, oán thân, giai cấp. Do pháp bình đẳng, lúc sinh thời Đức Phật Thích Ca đã phủ nhận chế độ giai cấp (tứ tính bình đẳng) ở Ấn độ. Trong kinh sách Phật giáo còn phát triển pháp lý bình đẳng từ xã hội lên đến lĩnh vực tư tưởng và tâm linh, như Chân như bình đẳng, Trí bình đẳng, Bình đẳng pháp thân, Bình đẳng đại bi, Bình đẳng đại tuệ, v.v… sakasūtra) nêu ra mười thứ bình đẳng : 1. Hết thảy chúng"Kinh Hoa Nghiêm (Avatam sinh bình đẳng ; 2. Hết thảy pháp bình đẳng ; 3. Hết thảy cõi nước bình đẳng ; 4. Hết thảy tâm sâu xa bình đẳng ; 5. Hết thảy thiện căn bình đẳng ; 6. Hết thảy Bồ tát bình đẳng ; 7. Hết thảy nguyện bình đẳng ; 8. Hết thảy Ba la mật bình đẳng ; 9. Hết thảy hạnh bình đẳng ; 10. Hết thảy Phật bình đẳng.
5.
Lê Thị Huệ: Ông là người có các quan hệ về công việc với các nhà lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam như thiền sư Nhất Hạnh, Hoà thượng Quảng Độ, ông có thể cho biết nhận định của ông về hai vị tu sĩ Phật Giáo này?
Võ Văn Ái : Hai vị cùng xuất phát từ môi trường tu học Phật giáo. Nhưng động lực xã hội thì lại khác. Động lực của Sư Ông Nhất Hạnh có tính cách cá nhân, Phật pháp chỉ là phương tiện phục vụ danh và lợi cá nhân. Động lực của Hòa thượng Quảng Độ bao trùm tính dân tộc và tính nhân loại, Phật pháp là động cơ thăng hoa nhân sinh. Vô tình tên đạo của Hòa thượng lại thể hiện cuộc sống 80 năm qua của ngài như kinh viết : “Quảng độ chúng sinh mãn bồ đề nguyện” - Độ khắp tất cả chúng sinh để thành tựu viên mãn đại nguyện bồ đề (bồ đề là giác ngộ)
6.
Lê Thị Huệ: Ông nghĩ gì về vai trò Phật Giáo trong cuộc đảo chính 1.11.1963
Võ Văn Ái : Vai trò Phật giáo hướng dẫn con đường dân tộc vượt thoát luồng tư tưởng nhị nguyên Tây phương nổ ra qua cuộc tranh chấp ý thức hệ phân đôi thế giới giữa Cộng sản và Tư bản.
Giới tướng lãnh quân nhân làm cuộc đảo chính 1.11.1063 theo chỉ thị của Hoa Kỳ để thực hiện chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Đáng tiếc vai trò Phật giáo tuy thành công trên phương diện tín ngưỡng, nhưng thất bại trên phương diện xã hội. Một phần vì giới trí thức Phật giáo không được chuẩn bị, phần khác lực lượng quần chúng Phật giáo không được tổ chức để đối ứng với tình hình thế sự. Nên đã bị các thế lực chính trị khuynh loát.
7.
Lê Thị Huệ: Theo ông thì cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam còn cần những yếu tố nào để đưa đến thành công ?
Võ Văn Ái : Cần hai yếu tố : Yếu tố Cư sĩ và Yếu tố Quốc tế. Cần liên kết khối Phật giáo tại Á châu và trên thế giới thành lực lượng Hòa bình. Nếu ta mường tượng lại những năm đầu thế kỷ XX và so với ngày nay thì Phật giáo đã phát triển mạnh và phổ biến tại các nước Âu Mỹ như một giải pháp tương lai chận đứng cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng ngày nay ở phương Tây. Công lao ngài Thái Hư Đại sư, người Trung quốc, mở ra những Hội Học Phật Âu Mỹ đầu thế kỷ XX, rồi tiếp đến ba bộ Essays in Zen Buddhism /Thiền luận của ngài Linh Mộc Đại Chuyết (Daisetz Teitaro Suzuki), người Nhật bản, khai thị tri thức Tây phương. Đó là nói phía Á châu. Còn phải kể công đầu của rất nhiều học giả phương Tây ưu tú trong công trình dịch thuật kinh Phật như Edward Conze, Étienne Lamotte, G. Tucci, v.v… So việc dịch thuật và thấm nhuần kinh sách Phật giáo của các học giả Âu Mỹ từ thế kỷ XIX trở đi, học giả người Việt kể cả một số vị Tăng sĩ có học còn ngắn hơi, sơ sài, chẳng thấm vào đâu.
Trên đây là phương diện học thuật, tư tưởng. Nay cần kết tinh qua hành động như một lực lượng Hòa bình thế giới trước nạn độc tài, quân phiệt và khủng bố. Pháp môn Cư sĩ của Phật giáo Việt Nam rất có tương lai, trên mặt hành động chính trị, văn hóa, xã hội, tại các quốc gia Âu Mỹ, nếu được giới thiệu và phát huy. Cho tới nay tại phương Tây mới được phổ biến các Pháp môn Thiền và Nhật Liên tông (Sokagakai) đến từ Nhật Bản, và Phật giáo Tây Tạng.
Do giáo luật Phật chế, Tăng sĩ không được làm chính trị, không được tham gia thế sự. Hiện nay một số Tăng sĩ trong Giáo hội Nhà nước tham gia làm đại biểu Quốc hội cộng sản là họ đã phạm trọng giới chiếu theo giới luật Phật chế. Tăng sĩ chỉ lo việc truyền pháp và phát triển đời sống tâm linh cho tín đồ. Cho nên đối diện với thế sự chỉ còn giới Cư sĩ là những người tu tại gia, thế học cao, không bị gò bó, không bị ảnh hưởng giới luật cấm tham chính nên có khả năng chuyển vận giáo lý vào đời. Mặt khác, có chung đụng và đối diện với việc đời mới giải quyết cuộc nhân sinh trên bình diện xã hội. Cần nhớ Cư sĩ là trữ lượng cho Tăng sĩ, đồng thời cũng là trữ lượng cho những nhà chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân văn, bác học, khoa học. Cư sĩ là bánh xe chở Đạo, chớ coi thường như xưa nay.
Đem những thuyết giáo cao cả trong kinh sách làm “quốc văn giáo khoa thư” cho những giải pháp xã hội mà không biết khế cơ, khế lý, không có khả năng tham dự thì cũng ảo tưởng như chủ thuyết Cộng sản đại đồng trước bao khổ ách, bất công của nhân loại. Cho nên cần có sự phân công hợp tác giữa Tăng sĩ và Cư sĩ để giải quyết thế sự và nhân sinh. Giới Tăng sĩ ngày nay phải xem đây như Công án(2) để phát huy đạo Phật vào thời đại. Cần phân biệt thấu đáo hai vị trí, là Tăng sĩ như một vị thầy dạy đạo và hướng dẫn tâm linh tín đồ, và vị trí Tăng đoàn như một trong ba pháp bảo (Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng). Người hay hiểu lầm và đánh lộn sòng một vị Tăng / Tăng sĩ với tập thể Tăng là Tăng đoàn tức Tăng bảo trong Tam bảo. Mặt khác, cần hiểu yếu tính của Tam bảo(3) như tự tính bản lai, chứ không là những ngôi vị cá thể mà đông đảo Phật tử ngày nay ngộ nhận. Xu thế giáo dục Tăng sĩ, từ Ngũ minh(4) cho đến xu thế toàn cầu hiện đại, cũng như vai trò Tăng sĩ trong cộng đồng Phật giáo và cộng đồng thế giới cần khế hợp, chuyển hóa để thích nghi. Thích nghi mà hoằng đạo, chứ không phải thích nghi để biến tướng. Quan niệm thiển cận của chư Tăng đối với Cư sĩ lâu nay cũng phải thay đổi.
Năm mười thế kỷ trước do trình độ giáo dục và kiến thức của quần chúng Phật tử còn mông muội, nên Tăng sĩ vừa là thầy dạy đạo, còn là thầy học, thầy thuốc, cố vấn chỉ đạo trên mọi lĩnh vực của đời sống. Ngôi chùa thời Lý Trần là một trung tâm giáo dục, một đại học. Người cư sĩ thưở ấy cần một vị Thầy toàn diện, và thưở xa xưa ấy, ngoài nội điển (kinh sách Phật giáo), trình độ Ngũ minh của Tăng sĩ cũng rất cao. Ngày nay trình độ tiến hóa của khoa học và các bộ môn kiến thức xã hội, nhân văn tiến những bước hài nghìn dặm và thay thế vai trò Tăng sĩ trên các lĩnh vực này. Đời sống văn minh, dân chủ, hệ thống giáo dục, y khoa, ngôn ngữ đem lại những kiến thức rốt ráo cho đa số Cư sĩ. Họ không còn dốt như xưa. Vì vậy sự trông chờ của người cư sĩ ở một Tăng sĩ cũng đã khác lắm. Họ trông chờ ở người Tăng sĩ như một nhà bác học tâm linh, hơn là một ông thầy chỉ giỏi cúng kiến, xem xăm, chấm tử vi. Dân quê nước ta đầu thế kỷ XX tin và chỉ có phương thức chữa bệnh duy nhất là đốt bùa lấy tro hòa nước uống. Nhưng khi y học Pháp đem lại viên thuốc Quinine, rồi lâu sau Penicilline, thì tín ngưỡng đồng bóng bị đẩy lùi vào bóng tối quá khứ.
Chính trị là một khoa học, chứ không là mưu đồ. Chính trị tại nước ta 64 năm qua (1945-2009) còn quanh quẩn trong những mưu đồ; chưa được khoa học hóa để phục vụ xã hội con người. Sự vắng mặt của giới Cư sĩ Phật giáo trên ba lĩnh vực chính trị, văn hóa và xã hội là một trong những nguyên do gây pháp nạn cho Phật giáo nói riêng, và quốc nạn cho dân tộc nói chung.
Hiển nhiên người Cư sĩ Phật giáo có mặt khắp nơi, trong các hội đoàn, đảng phái, phía cộng sản cũng như phía quốc gia. Thế nhưng họ có mặt trong vai vế thừa sai. Chứ không ở vị trí chủ động của một nhà văn hóa chống chủ nghĩa ngu dân, một nhà chính trị phát huy chính sách khoan dung và hòa bình.
8.
Lê Thị Huệ: Ông phát biểu như thế nào về vai trò Phật giáo trong sinh mệnh của Việt Nam ? Phật giáo phải sửa đổi như thế nào để không sống làng nhàng, mà làm cho Việt Nam phát triển lên ?
Võ Văn Ái : Chị dùng chữ “sống làng nhàng” là khoan hồng đấy. Đúng với thực tại phải nói là “sống nhập nhằng” - ba phải. Chẳng những ba phải mà nghìn phải !
Trong hoàn cảnh lịch sử 2000 năm Việt Nam, sinh mệnh Phật giáo và sinh mệnh Việt Nam gắn liền nhau. Ở thời kỳ lập quốc, yếu tố Phật giáo đã hòa hài để hoàn chỉnh nền văn hiến Việt. Hiển nhiên còn hai yếu tố Khổng giáo và Lão giáo. Nhưng Khổng giáo hoạt động ở bộ máy nhà nước, lại đại biểu cho nền văn hóa nô dịch của Bắc phương nên có phần hạn chế trên mặt dân tộc. Lão giáo bị bỏ rơi khía cạnh triết lý hành xử, trở thành nhánh tu tiên, ưu tư thuật trường sinh, cuối cùng trở thành dạng hoạt động bùa phép, phù thủy. Mối ưu tư trường sinh qua việc luyện đan và tu dưỡng của Lão giáo chỉ tích cực ở mặt phát triển hóa học và y học cổ đại tuy còn thô sơ.
Mâu Tử, một nhà Nho người Hoa lánh nạn sang Giao châu vào cuối thế kỷ II Tây lịch rồi quy y theo đạo Phật ở Việt Nam, đã đánh giá đạo Phật trong cuốn Lý Hoặc Luận của ông như sau : “Bản chất đạo Phật là ở nhà có thể đem mà thờ cha mẹ, giúp nước có thể đem mà giáo hóa dân, sống một mình có thể đem mà trị thân”. Lý Hoặc Luận là bản luận văn của Mâu Tử đề cao con đường Phật Việt tại Giao châu, và chống lại nền văn hóa nô dịch Bắc phương, nơi ông sinh thành.
Ngoài việc hướng dẫn và phát triển đời sống tâm linh, đạo Phật Việt là tư tưởng chỉ đạo văn hóa chống các luồng ý thức hệ ngoại lai suy đồi hoặc phi nhân, và chỉ đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, để bảo vệ chủ quyền và văn hóa dân tộc, bảo vệ tự do, no ấm và hạnh phúc cho nhân dân, mà sử sách còn lưu dấu qua tác động của Hai Bà Trưng (năm 40 TL.) ; 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (suốt thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), v.v... tạo tiền đề cho sự kiến lập huy hoàng nền móng quốc gia Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê.
Cách “sống làng nhàng” làm cho “Việt Nam không phát triển” như chị nói không đến riêng từ Phật giáo, mà còn đến từ bộ máy cầm quyền, từ các triều chính theo quan niệm Tống Nho, rồi hai chính quyền đến từ Tây phương, là thực dân Pháp và Cộng sản.
Đồng ý là dù muốn dù không, giới trí thức Cư sĩ Phật giáo cũng phải chịu trách nhiệm trong sự phát triển cách “sống làng nhàng” này. Vì giới Cư sĩ Phật giáo đã không sử dụng tối đa biệt nghiệp (karma của mỗi cá nhân) họ để giải vây cộng nghiệp (karma của tập thể, cộng đồng) quốc gia.
Đây là hậu quả cuộc khủng hoảng văn hóa trầm trọng của Việt Nam từ hơn ba thế kỷ. Nghĩa là từ cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn cho đến cuộc phân tranh Quốc Cộng. Sông Gianh hay sông Bến Hải vẫn là nhát kiếm vô hình cắt đôi tâm thức Việt.
Hệ lụy ngày nay của người Phật tử Việt là đánh mất truyền thống “tầm sư học đạo” của hành giả đông phương. Tầm sư học đạo mang ý nghĩa mở mang trí tuệ trong cuộc truy tìm kiến thức và chân lý do tự thân chọn lựa và điều hướng. Người học cần Thầy nên đi tìm thầy giúp họ giải phóng khỏi vô minh, mê vọng. Tìm Thầy nói lên tính cách chủ động chọn lựa có trí tuệ độc lập, đồng thời với ý chí cầu thị. Thầy không ngang tầm với kiến thức, với chân lý, thì hành giả tiếp tục đi tìm thầy khác. Thế là có phê phán và biết đánh giá khách quan, mà mục tiêu nhắm khai mở kiến thức giác ngộ. Nhờ vậy không trở thành cố tín, giáo điều, bè phái, cục bộ. Người sinh viên Âu Mỹ chọn đại học ngày nay vô hình trung thể hiện tinh thần “tầm sư học đạo” của phương Đông ? Tôi ít thấy các sinh viên Âu Mỹ bảo vệ đến chết “ông Thầy của mình” hoặc bảo vệ đến phun nước bọt rồi thượng cẳng tay hạ cẳng chân với những ai không quỳ lạy “ông Thầy của mình” như người Việt Nam. Đặc biệt người Phật tử Việt Nam cuồng tín tin theo các vị Thầy của họ nên chẳng cần lý tới kiến thức hạn chế của Thầy mình.
Ngày nay “tầm sư học đạo” sa sút thành “y sư chối đạo”. Người ta tin thầy hơn chân lý, hơn đạo. Cho nên gần đây có hiện tượng phân hóa, chia rẽ đến gây thành tranh chấp trong cộng đồng Phật giáo trong, ngoài nước. Ai cũng hiểu là có bàn tay lông lá của Cộng sản áp dụng thủ thuật “chia để trị”, lấy “gậy ông đập lưng ông”, rõ ra là “dùng Sư đánh Sư, dùng Phật tử nện Phật tử”. Kiểu trai cò mổ nhau, ngư ông cộng sản đắc lợi. Nhưng chuyện đau lòng là họ không chịu thâm nhập Ba tạng Kinh điển cao siêu kia, khiến mắc mưu kẻ tà giáo ?
Bên trong và phía sau là bàn tay của ngoại đạo xúc xiểm, đâm bị thóc chọc bị gạo. Nhưng hiện tượng nổi, là người Phật tử tranh chấp nhau, không vì phủ nhận giáo lý đạo Phật, phủ nhận đức Thích Ca, mà tranh chấp để bảo vệ “Ông Thầy của mình”. Bởi “Thầy của mình” cao cả nhất, vĩ đại nhất, thiền sư nhất, đạo sư nhất. Cái gì cũng “nhất” ! Do “Thầy của mình” là nhất, nên giáo lý cứu khổ của đạo Phật thành thứ yếu, đức Thích Ca đứng xếp hàng sau lưng “Thầy của mình”, Ba tạng kinh điển mờ mịt trước xảo ngôn, mị ngữ của “Thầy mình”… Còn quần chúng khổ đau, bị áp bức, đất nước điêu linh, thế giới lâm nạn khủng bố, sinh thái địa cầu bị uy hiếp hay khủng hoảng văn hóa không còn trong tầm nhắm, tầm tiên ưu của người Phật tử.
Bi kịch của giới Tăng sĩ hay Phật tử ngày nay là chối bỏ Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) để tôn thờ Nhất bảo là “ông Thầy của mình”.
Người ta quên chuyện chính yếu để phục vụ cái phụ, cái thứ yếu, cái hạng hai. Dường như đây cũng là quán tính “nhất” của dân tộc ta ? Việt Nam là “nhất” trên địa cầu, bốn nghìn năm văn hiến Việt lớn lao “nhất” cõi nhân loại, người Việt là số Một ! Nhưng khi hành xử thì người Việt khinh thị dân mình, qụy lụy ông tây bà đầm. Một thứ chủ nghĩa tân-nô-lệ của “Yes, Sir”. Đến như cái dốt họ cũng thậm xưng dưới hình thức tự tôn là “dốt nhất” !
Hiện tượng “y sư chối đạo” ngày nay của một số Phật tử đang đồng lõa với các thế lực gian manh, gian tà, phá đổ nền Phật giáo dân tộc. Thảm hơn, khi những ông “Thầy của họ” lại như như bất động, im lặng dung dưỡng sự thờ lạy ngẫu tưởng của tín đồ mình, dù các “ông Thầy này” thuộc lòng và ngày ngày vẫn ung dung thuyết pháp cho đồ chúng kinh bản Kālāma (5).
9.
Lê Thị Huệ: Người ta nói 4 dân tộc cùng một nền văn hóa là Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn , thì ba nước kia tiến hết rồi, trừ Việt Nam. Cùng một nét Khổng Học, thì cái gì khác giữa VN với 3 nước kia ? Việt Nam nên rút bài học nào ?
Võ Văn Ái : Phê bình chung về Khổng giáo tại Việt Nam và vài nước Á châu, tôi đã biểu thị trong sách “Nguyễn Trãi, Sinh thức và Hành động” do Nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris ấn hành năm 1981.
Theo tôi nghĩ, Nhật Bản không áp dụng cứng nhắc cái học hủ Nho Chu – Trình thời Tống như Việt Nam, mà dựa vào Khổng học thực dụng của Vương Dương Minh. Hai yếu tố quan trọng làm cho nước Nhật tân tiến nhất Á châu và đứng ngang hàng Tây phương ngày nay. Một là yếu tố Phật giáo, hai là sự sáng suốt cầu học của giới sĩ phu, đại biểu là Minh Trị Thiên hoàng. Ông dám thoát ly tư tưởng “ao nhà” so với chính sách đà điểu, bế môn tỏa cảng của các ông vua Tàu và Tự Đức cùng thời.
Ta biết đạo Phật truyền vào Nhật thế kỷ VI Tây lịch, thấm nhuần vào một Phật tử kỳ vĩ là Thái tử Thánh Đức (Shotoku). Thái tử khai mở một Hiến chương chính trị đầu tiên tại Châu Á gồm 17 điểm dựng trên chữ Hòa của Phật giáo. Tương tự như sau này các vua thời Lý - Trần thực hiện chữ Hòa vào chính trị, tạo ra một quốc gia văn hiến, phồn thịnh, nhân dân hạnh phúc. Biểu lộ đặc thù ngay trong lĩnh vực hình sự : thường xuyên bỏ án tử hình và xá tội.
Trung quốc tuy theo Cộng sản như Hà Nội, nhưng do bản chất thực dụng cố hữu của người Tàu nên sớm biết phải bắt tay với “Con Cọp Giấy” Hoa Kỳ mà Mao Trạch Đông phỉ nhổ trước đó, rồi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Không như Việt Nam “Chống Mỹ mút mùa” nay đành đổi sang lạy lục cúc bái Mỹ một cách trễ tràng lại thiếu thông minh. Nhất là không biết kết liên các thành phần dân tộc làm lá chắn chiến lược tại Đông Nam Á và hội nhập vào công cuộc phát triển toàn cầu.
Sau ngày Saigon thất thủ, năm 1977 và 1978 Hoa Kỳ muốn bình thường hóa quan hệ không điều kiện với Hà Nội. Nhưng người Cộng sản kiêu binh đã khước từ theo chủ trương “có ba trăm lạng việc này mới xong”, ý ra điều kiện muốn thương thảo thì Hoa Kỳ phải trả 7 tỷ Mỹ kim tái thiết Bắc Việt như Tổng thống Nixon đã hứa trong thời gian hòa hội Paris. Cái ngu về xử thế chính trị và dốt nát về kiến thức thế giới của Hà Nội khiến Hoa Kỳ bỏ rơi[1]. Sau này lạy lục cúc bái bao năm mới thiết lập được quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ năm 1995. Việt Nam mất cơ hội kiến thiết 19 năm ! Đến nỗi những năm 80, Nguyễn Khắc Viện la trời “có nguy cơ mất nước”.
Đa số thành phần lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thất học, dù chưa phải lỗi họ. Dưới thời Pháp thuộc, vì lòng yêu nước họ tham gia đấu tranh rất sớm khi mới qua ngưỡng cửa tiểu học hay trung học, rồi bị bắt vào tù. Kiến thức học đường ngừng lại từ đó, không phát triển thêm. Ý chí đấu tranh cao, lòng căm thù lớn, nhưng kiến thức nông cạn, khiếm khuyết. Kịp đến khi đảm đương việc nước năm 1945, sở học khiếm khuyết chẳng khác chi anh chột trong đám người mù. Quá tự đắc nên không biết nguyên tắc cầu người hiền, cầu người tài của những ông vua thời trước để xây dựng bộ máy nhà nước theo tác phong “trắc tịch cầu hiền”. Vua chỉ ngồi nửa ghế (trắc tịch), nửa ghế kia giành chờ người tài đến ngồi. Ngày nay dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo Cộng sản chẳng những giành trọn ghế mà còn giành hết các dãy ghế trong rạp hát chính trị. Là người học trò ngoan ngoãn của Trung Cộng, nhưng các điều hay bên Trung quốc lại không biết, không học. Thử nhìn vào chính sách kinh tế và đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay thì rõ.
Chị ở Hoa Kỳ ắt biết thế giới thầm lặng của giới trí thức và chuyên viên tư vấn thông qua hệ thống đại học và các Sáng hội think-tank quan trọng chừng nào. Chính họ hoạch định chính sách của chính phủ Hoa Kỳ trong hai vấn đề nội chính và đối ngoại, chứ không riêng Tổng thống và các bộ trưởng. Số lượng chuyên viên tư vấn ở Hoa Kỳ có khoảng mười nghìn người. Tại Anh chỉ là số trăm, còn toàn Châu Âu là số ngàn. Trong khi ấy Trung quốc lên tới số trăm nghìn. Không phải Bộ Chính trị hay chính phủ ông Hồ Cẩm Đào hoạch định chính sách bành trướng của Trung quốc đâu, mà là một tập thể mênh mông những trí thức và chuyên viên tư vấn hoạch định. Viện Khoa học Xã hội Trung quốc ở Bắc kinh bao gồm 50 trung tâm nghiên cứu quốc sách với 260 bộ môn do 4000 nhà nghiên cứu điều hành, mà Trung quốc có hàng chục viện như thế.
Khác với các thể chế dân chủ y cứ vào trưng cầu dân ý hoặc sự góp ý của toàn dân theo chủ nghĩa dân túy, chủ trương độc tài đảng trị của Trung quốc đang dựa vào yếu tố trung tâm của sự hoạch định chính sách thông qua khảo cứu ở cấp chuyên viên tư vấn. Tôi gọi đây là hiện tượng Gia Cát Lượng hiện đại. Đọc Tam quốc chí ta biết Lưu Bị muốn dấy nghiệp lớn đã phải kiên nhẫn, khiêm cung tam cố thảo lư, ba lần chờ chực gặp xin Gia Cát Lượng làm quân sư. Hiện tượng Gia Cát Lượng ngày nay là hàng trăm nghìn chuyên viên tư vấn đang giải quyết tại Trung quốc sự dằn co giữa Chủ nghĩa Xã hội lỗi thời, sai lạc, với chủ nghĩa Tư bản rừng rú. Để làm chi ? - Để xây dựng một trật tự thế giới theo mô hình Trung quốc nhằm đánh đổ Hoa Kỳ, tức giấc mộng đại cường quốc xưa cũ của Hán tộc. Chúng ta sẽ chứng kiến việc này chừng 20 năm tới. Trong khi ấy Việt Nam không hề có viễn kiến thế giới. Tệ hơn, không đào tạo nổi giới trí thức và chuyên gia tư vấn trong nước, lại còn xài xạc, tự thị với khoảng nửa triệu chất xám Việt Nam ở hải ngoại.
Năm 1988 tôi được Bắc Kinh mời tham quan Trung quốc hai tuần lễ. Thực ra thì họ mời tôi từ năm 1982, nhưng vì băn khoăn, do dự nên không đáp nhận. Mãi đến 1988 sau khi tham khảo một số nhân sĩ trong nước, ngoài nước và được sự đồng tình tôi mới nhận lời đi. Thời điểm ấy “tình môi hở răng lạnh” Trung Việt đang suy sụp xiểng liểng thành tranh chấp như sừng với đuôi. Hà Nội chửi bới chủ nghĩa bành trướng Đại Hán qua hằng loạt sách tố cáo chuyện cổ kim, hệt như ngày nay họ đang chửi rủa thế “lực phản động” người Việt nước ngoài, mà tôi là một tên “đầu sỏ”. Còn phía Trung quốc thì tiếp cận giới chống Cộng tại ba nước Đông Dương cũ theo chủ trương “kẻ thù của kẻ thù là bạn”. Thời gian thăm viếng có tính cách tuyên truyền phô trương một Trung quốc đang trên đà cải tiến.
Qua Trung quốc tôi lấy làm lạ đi đến đâu, gặp ai, họ đều mời xem bữa ăn của gia đình, chỉ vào nồi cơm và mấy đĩa thịt cá. Ở Nam Ninh, mấy giáo sư dẫn tôi qua cầu chỉ xuống dòng nước nói rằng thời Cách mạng văn hóa nhiều giáo sư, sinh viên đã bị vứt xuống đây. Họ cũng bảo thưở ấy đói lắm, chỉ ăn cháo qua ngày, họa hoằn một hai lần trong tháng mới ăn cơm. Không thịt. Rồi than rằng thế mà thời ấy Trung quốc viện trợ gạo cho Việt Nam đánh giặc đấy, ai ngờ ngày nay…
Thăm thành phố Nam Ninh dựng từ thời Bắc Tống tôi động lòng nhớ các dãy phố Hà Nội và nghĩ rằng Lý Thường Kiệt đã đến đây viết văn “lộ bố” ở Châu Khâm, Châu Ung. Tôi xin đi thăm mộ cụ Nguyễn Thiện Thuật, một trong hai mươi chủ tướng phong trào Cần Vương thuộc cánh quân Bãi Sậy. Việc khó khăn, vì tài liệu của sử gia Trần Huy Liệu viết sai địa điểm ở phía Tây. Tốn công mới tìm ra mộ nằm ở phía Đông bắc thành phố nhờ một giáo sư ở Viện Dân tộc học Quảng Tây. Lạ thật, Nam Ninh là hậu cứ của ông Hồ và cán bộ cao cấp Hà Nội nườm nượp sang bồi dưỡng. Thế mà chả ai ngó ngàng ngôi mộ vị anh hùng. Kiếm chẳng đâu ra một thẻ hương, tôi phủ phục trên đất lạy cụ ba lạy trước sự ngạc nhiên của các cán bộ hướng dẫn. Về Paris viết trên Quê Mẹ tôi ngậm ngùi tả cảnh tiêu điều của ngôi mộ trên sườn đồi nằm chung với mươi ngôi mả đẹt, may còn bia đá khắc dòng chữ “Việt Nam Cách mạng cố Tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật chi mộ”. Rồi nêu câu hỏi các nhà lãnh đạo Hà Nội làm cách mạng cho ai ? Vài tháng sau tôi nghe tin ông Hoàng Văn Hoan viết thư xin Trung quốc xây lại mộ cho cụ.
Nhờ chuyến đi tôi có dịp tọa đàm với giới nghiên cứu, giáo sư ở Viện nghiên cứu Đông Dương đại học Nam Ninh, đại học Quảng Châu và đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh. Tôi có phần ngạc nhiên khi thấy tạp chí Quê Mẹ tại các thư viện Đại học nằm bên cạnh sách báo của Hà Nội. Qua các cuộc trao đổi với một số giáo sư, sinh viên, tôi cảm nhận không khí bùng nổ tất yếu khó tránh khỏi, mà chúng ta chứng kiến sự biến Thiên An Môn vào tháng sáu 1989. Chuyến đi này cho tôi thấy sự động não của giới trí thức Tàu như một đối lực trước chủ trương co kín của đảng Cộng sản, mà sau này theo dõi tôi phát hiện bước tiến theo như trình bày lúc nãy. Những đặc khu kinh tế mà tôi chứng kiến hay thăm dò trong chuyến đi cho thấy tính thực dụng của người Tàu trong việc tiếp cận nền kinh tế thị trường. Khác với kiểu kinh tế nhập nhằng “định hướng XHCN” của Hà Nội.
Kể từ năm 2007 ta thấy rõ Trung quốc đang xuất cảng mô thức Đặc khu kinh tế sang Phi châu. Họ đã hay đang thực hiện tại Zambia, Mauritania và Tanzania. Một số nước Nam Mỹ cũng đang học đòi mô thức phát triển Trung quốc. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì đang có 3000 dự án Trung quốc phát triển tại 120 quốc gia. Chưa ai quên giai thoại Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF) thương thuyết nhiều năm với chính quyền Angola về một hiệp ước chống tham nhũng thì mới cho vay lãi nhẹ. Thế nhưng vài giờ trước khi ký kết (năm 2004) Angola tuyên bố chẳng cần tiền của Qũy Tiền tệ Quốc tế nữa, vì Trung quốc vừa cho vay 2 tỉ Mỹ kim với chế độ ưu đãi.
Tư tưởng quyền lực nhuyễn (Soft power) là phát kiến của nhà khoa học chính trị Mỹ Joseph Nye năm 1990, đang được Bắc kinh áp dụng triệt để hơn tại các nước Âu Mỹ. Mặt khác giới trí thức Tàu kể cả những người bảo thủ trong đảng Cộng sản cũng đang quy mô nghiên cứu lại tư tưởng cổ đại Trung quốc.
Khắp nơi, Trung quốc đang rao hàng “chính sách hòa bình” của họ, và đã thiết lập Tổ chức “Hợp tác Thượng Hải” nhằm đánh bật Hoa Kỳ ra khỏi các cộng đồng Châu Á. Ảnh hưởng Trung quốc ngay tại LHQ không phải nhỏ, mà chúng ta thấy rõ sau cuộc chiến Iraq, qua việc xúi giục các nước Phi châu cản ngăn Nhật bản vào ngồi ghế Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An, hay đẩy các quốc gia Hồi giáo làm suy yếu và biến tướng vai trò nhân quyền thực hữu của Hội đồng Nhân quyền LHQ thay thế Ủy hội Nhân quyền LHQ trước kia. Tất cả đó nhằm suy yếu ảnh hưởng Hoa Kỳ tại diễn đàn quốc tế này. Tại Đại hội đồng LHQ phiếu bầu cho Hoa Kỳ tụt từ 50,6% năm 1995 xuống 23,6% năm 2006. Về nhân quyền tại LHQ, Trung quốc tăng vọt từ 43% lên 82%, trong khi Hoa Kỳ từ 53% tụt xuống 22% !
Hẳn nhiên chế độ độc tôn độc đảng tại Trung quốc chóng chầy sẽ sụp đổ. Nhưng hiện tại Bắc Kinh vận dụng tất cả mọi phương tiện tinh vi cổ kim để kéo dài mạng sống và chận đứng sự nổi loạn của quần chúng.
Đem chủ nghĩa Duy vật vô thần và phi tôn giáo xích hóa nước Tàu từ năm 1949, nhưng nay tiên kiến bước đi của lịch sử cùng tiềm năng châu Á, nên ngày 16.4.2006 Bắc kinh tổ chức “Đại hội Phật giáo Thế giới” mời 36 nước đến tham dự.
Từ thập niên 90, Trung quốc đã có trào lưu phục hồi Nho giáo do giới học giả nghiên cứu Quốc học đề xướng. Rút bài học từ sự kiện thập niên 90 Cộng sản quốc tế sụp đổ, mẫu quốc Liên xô tan vỡ, khoảng trống ý thức hằn sâu tại các quốc gia theo Cộng gây thành cuộc khủng hoảng ý thức hệ không tiền khoáng hậu. Một số trong giới trí thức Trung quốc nhận định không thể phủ nhận nội dung chính của hiện đại hóa và toàn cầu hóa đang do văn minh phương Tây lãnh đạo. Với tâm thức nước lớn, Trung quốc tự biết không thể khư khư trình làng ý thức hệ lỗi thời Mác – Lê – Mao nữa. Họ quay về cầu cứu Quốc học, đem ông Khổng Tử ra chào hàng. Hiện đang có trào lưu đòi đem Tứ thư, Ngũ kinh vào dạy ở các bậc tiểu học và trung học tại Hoa lục. Đối ngoại thì Bắc Kinh đã bỏ hang tỉ bạc mở 100 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới dạy chữ Hán và văn hóa cổ Trung quốc cho người nước ngoài. Minh thị cho trào lưu này là hiện tượng Vu Đan xẩy ra hồi tháng 10.2006. Bà Vu Đan, 41 tuổi, giáo sư Triết tại Đại học Sư phạm Bắc kinh lên Đài Truyền hình Trung ương thuyết giảng 7 buổi về đề tài “Thu hoạch đọc sách Luận Ngữ” thu hút hàng triệu người nghe nhìn. Sau in thành sách đợt đầu bán một triệu cuốn, vài tháng sau tái bản bán 3 triệu cuốn. Một kỷ lục trong ngành xuất bản sách, mà lại là cổ thư bị Mao đốt bỏ mấy mươi năm trước.
Trong khi ấy phục hồi quốc học ở Việt Nam là gì ? – Đưa một tay hành động như Hồ Chí Minh lên thành nhà “tư tưởng” (sic), cho ra vài cuốn viết về Khổng học sơ sài, không phát kiến. Còn Phật giáo là nền tảng từ cổ đại, trung đại đến hiện đại trên mặt tư tưởng và hành động thì bị đàn áp không nương tay. Ngoại trừ thứ Phật giáo công cụ do đảng nặn ra làm bình phong. Còn lại chỉ thấy toàn những nghìn luợt lễ hội đánh trống khua chuông, ăn mặt áo mão cải lương, hát bộ, nói là của thời “Hùng vương”, “Nguyễn Huệ” cốt thu hút khách du lịch làm tiền ! Đua đòi cái mã lòe loẹt bên ngoài nhưng nội dung và thực chất vắng bóng. Mới đây, tôi đọc trên Gió O bài trả lời của nhà văn Cộng sản Nguyên Ngọc công tâm nói về văn hóa Việt. Tôi xin trích vài lời của ông Nguyên Ngọc :
“Nỗi lo lớn bây giờ là dù kinh tế có đang khá lên, nhưng văn hóa đã không khá theo, thậm chí còn sa sút. Đang có hiện tượng cả xã hội lao đi làm kinh tế, nhưng kể cả trong tầng lớp "khá giả" nhất của xã hội cũng rất ít người quan tâm đến văn hóa, quan tâm tới cách ứng xử có văn hóa. Văn hóa trọc phú đang tràn ngập trong xã hội. (…) Đặc trưng của chùa miền Bắc là sự thâm u, trầm tư, yên tĩnh. Kể cả những ngôi chùa nằm giữa phố, bước vào chùa là một không gian khác hẳn, khiến con người ta lắng lại. Nhưng giờ thì đâu đâu cũng thi đua trùng tu, mở rộng chùa. (…) Hình thái kiến trúc đã "hỏng", cách ứng xử trong các không gian tôn nghiêm ấy cũng có quá nhiều chuyện đáng buồn. Đã có lần tôi cùng nhạc sĩ Dương Thụ đến chùa Tháp Bút, thấy tình trạng "hát kinh" có nhạc đệm, giống như trong nhà thờ. Cách tụng kinh Phật chậm rãi, nhấn nhá ê, a không có chút gì giống với nhạc đệm nhà thờ ở phương Tây cả. Tết năm ngoái tôi lên chùa Phật Tích, đi từ ngoài vào tới sân trong toàn thấy mùi... mực nướng !”.
Trường hợp Đại Hàn cũng như Nhật Bản là hai quốc gia dân chủ. Chúng ta có thể thẩm kết mà không sợ sai lạc, là các quốc gia theo thể chế dân chủ, tự do mới có hoàn cảnh phát triển. Các nước độc tài toàn trị, quân phiệt, phát xít, thì thiểu số lãnh đạo trở thành triệu phú bên cạnh khối đại đa dân chúng ngày càng bần hàn, thất học. Ví dụ quá rõ khi ta so sánh một dân tộc Triều Tiên, mà Nam Hàn dân chủ phát triển mù trời, Bắc Hàn theo Cộng sản dân chúng đói meo.
Người Việt phục vụ giỏi khi đứng lẻ, khi gánh vác việc người khác. Các công sở Âu Mỹ thường khen sự chăm chỉ, giỏi dang, cần cù của người Việt. Nhưng giữa chúng ta với nhau thì lại khắc khẩu, khắc ý, đưa tới xỉ vả nhau kinh niên. Những ai còn lưu tâm đến sinh mệnh con cháu Vua Hùng, cần tập làm việc chung giữa hai người, ba người, rồi bốn người lên tới cộng đồng…
Sử gia nổi danh Arnold Toynbee, người Anh, tiên liệu thiên niên kỷ thứ ba sẽ là thiên kỷ của Á châu hay Phi châu. Âu châu đang đi xuống vì tranh chấp nội bộ, mất viễn tượng thế giới sau giai kỳ đế quốc xâm lược. Nhìn vào hiện cảnh phát triển của Nhật bản, Trung quốc và Ấn Độ, chúng ta có cơ sở để tin rằng Á châu sẽ là điểm phát xuất cho một thời kỳ lịch sử mới. Bởi vậy muốn thoát khỏi vị trí địa chính bất lợi như Việt Nam từ hai nghìn năm qua, người Việt cần chuẩn bị nhanh và khôn kế hoạch phát triển chiến lược Châu Á cho một trăm năm tới trên các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, nhân văn, kinh tế, khoa học. Đó là nói trên phạm vi tại thế. Còn vấn đề trọng thiết hơn cả : một chân đạp đầu núi, một chân đạp hải triều, chúng ta hiện thế ra sao trước cuộc sụp đổ của hai nền triết lý Tây phương của Platon và của Mác-Lênin ?
Người Việt phải gặp nhau trên đỉnh đầu nhân loại !
Chị hỏi Việt Nam nên rút bài học nào để phát triển ?
Câu trả lời dứt khoát là vứt hệ thống nhà nước và ý thức hệ Cộng sản vào hố rác, như thế giới đã vứt chủ nghĩa Cộng sản vào hố rác lịch sử đầu thập niên 90. Trời đã cho Lénine, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh 73 năm thí nghiệm Cộng sản như một giải pháp phát triển dân sinh (1917 – 1990). Nhưng 73 năm ấy các ông chỉ làm hai động tác vô sản hóa dân nghèo và thảm sát giới trí thức. Thế thì đeo đuổi làm chi sự hủ bại lão suy ?
(còn tiếp 4 kỳ nữa)
(kỳ tới: Phật Giáo đấu tranh, Thích Đôn Hậu, Văn Hóa Việt và đề tài Nhân Quyền, trí thức Tây Phương của Aldré Malraux, Herman Hess, Karl Jasper, Jean-François Revel…)
phụ chú:
1 Tam thiên đại thiên thế giới (chữ Phạn Tri-sāhasra-mahā-sāhasra-loka-dhātu) là ba nghìn thế giới đại thiên, vũ trụ quan của người Ấn Độ xưa. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, bao quanh có 4 đại châu, 9 dãy núi và 8 lớp biển bao bọc gọi là một Tiểu thế giới. 1000 Tiểu thế giới hình thành một Tiểu thiên thế giới. 1000 Tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới. 1000 Trung thiên thế giới họp thành một Đại thiên thế giới. Vậy Tam thiên đại thiên thế giới (Tiểu thiên thế giới + Trung thiên thế giới + Đại thiên thế giới) gồm nghìn trăm ức thế giới, chứ không phải nói chung chung là vô số vô biên thế giới. Theo kinh điển Phật giáo, Tam thiên thế giới là lĩnh vực hóa độ do một đức Phật giáo hóa.
2 Công án, nghĩa đen là án lệ do quan lại phán quyết. Trong thiền học gọi chung sự kiện khi dùng một chữ, một câu nói cho người học đạo tham cứu gọi là “thoại đầu”. Ví dụ hỏi “Con chó có tính Phật không ?” Trả lời : “Không !”. Đối thoại như thế gọi là một tắc Công án. Xưa nay có khoảng năm trăm Công án thường dùng trong số gần hai nghìn công án. Công án không thể đem luận lý mà giải thích, vì tinh thần Thiền siêu việt nói năng, ngôn ngữ, suy tư. Dùng cái Phi luận lý tính để khơi dậy trực giác tiềm ẩn trong vô thức giúp người học đạo thể chứng chân tính.
Nội dung Công án làm công cụ cho sự ngộ Thiền, làm phương pháp khảo nghiệm, làm vật tin cho sự ấn chứng và tiêu điểm giác ngộ. Công án là đối tượng để suy xét, trích từ lời nói và việc làm của các bậc cao tăng làm kim chỉ nam cho người tu thiền. Các sách Công án quan trọng gồm có Bích Nham lục, Vô môn quan, Chính pháp nhãn tạng, Cảnh đức truyền đăng lục, v.v…
3 Tam bảo là ba bảo vật của đạo Phật gồm : Tự tính bản lai không nhiễm ô, không còn vô minh, là Phật bảo; Tự tính bình đẳng, không sai khác nhưng biến hiện ra tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, là Pháp bảo; Tự tính có diệu dụng vô lượng vô biên, mang khả lực hằng hà sa công đức, thực hiện vô số Phật sự, là Tăng bảo. Phật tử là người quay về và nương dựa (quy y) với Tam bảo, tức tự tính bản lai. Chữ pháp thế gian và xuất thế gian nói đây không có nghĩa sai lạc như nhiều người lầm tưởng là nhập thế và xuất thế. Pháp thế gian là hiểu rõ nhân quả, nghiệp báo. Pháp xuất thế gian là tu đạo giải thoát (từ bi, hỷ xả, cứu chúng sinh, giác ngộ thành Phật).
4 Ngũ minh (Pañca vidyā-sthānāni) là 5 môn học gồm Thanh minh (môn học ngôn ngữ, văn chương), Công xảo minh (môn học công nghệ, kỹ thuật, lịch toán), Y phương minh (môn học y dược), Nhân minh (môn học về lý luận), và Nội minh (môn học về tông chỉ, giáo lý của phái mình).
5 Sự tự do tư tưởng của Phật giáo bộc lộ qua câu chuyện này. Một hôm đức Phật đến thị trấn Kesaputta thuộc Vương quốc Kosala, Ấn Độ, dân trong thành được gọi là người Kālāmas đến gặp Phật và hỏi ngài rằng : “Bạch đức Thế tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà La Môn đến viếng Kesaputta. Họ giảng giải và đề cao lý thuyết của họ, đồng thời lên án, bài xích lý thuyết của những người khác. Bạch Thế tôn, phần chúng con, chúng con hoang mang, hoài nghi, không biết vị nào trong các nhà ẩn sĩ và Bà Là Môn nói sự thật, vị nào nói sai quấy ? Đức Phật liền đáp :
-“Hỡi những người Kālāmas, các người hoài nghi và hoang mang là phải, vì các vấn đề này rất đáng hoài nghi. Hỡi những người Kālāmas, đừng để những lời thuật lại, những lời đồn hay những lời truyền thống lôi cuốn ta. Đừng để những uy quyền của kinh điển, những lý luận suông, các điều xét đoán bề ngoài, các điều thích thú với những quan niệm võ đoán, những gì có vẻ đáng tin, hay những ý nghĩ “đây là Thầy ta”, dẫn dắc ta. Nhưng hỡi những người Kālāmas, khi nào các người tự biết mình rằng những gì đó là ác, sai, xấu, thì hãy vứt bỏ chúng. Và khi các người tự mình biết rằng những gì đó là thiện, là tốt thì hãy chấp nhận và theo chúng”.
6 Xem thêm “Hồi ức và suy nghĩ” của ông Trần Quang Cơ, Thứ trưởng ngoại giao Hà Nội, tr. 16-17 : “Với tư cách là Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Bộ Ngoại giao, trực tiếp tham gia phái đoàn đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mỹ ở Pa-ri năm 1977 rồi ở Nữu Ước năm 1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình “From Third world to First”, Lý Quang Diệu đã nhận xét :”Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Băng-cốc. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”. Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hóa quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một chiến lược “thêm bạn – bớt thù” thực sự cầu thị hơn ? Việc bình thường hóa với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật. (…) Việc ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ lúc này đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung quốc đầy tham vọng”.
đọc thêm về Thi Vũ Võ Văn Ái tại 2 địa chỉ:
http://www.gio-o.com/ThiVu.html
http://www.queme.net
© gio-o.com 2009
lê thị huệ,
chủ biên gio-o.com thực hiện
http://www.gio-o.com/LeThiHuePhongVanThiVuVoVanAi1.htm
Tờ Quê Mẹ ở Pháp do ông tạo dựng cùng với tờ Người Việt Tự Do của sinh viên Ngô Chí Dũng ở Nhật là hai cánh cổng lớn mở đường cho biểu tượng trí thức Việt hải ngoại dấn thân từ năm 1975 đến nay. Giờ đã là những ngày tháng về muộn cuối năm 2009, Võ Văn Ái và Quê Mẹ vẫn là một trong những thủ lĩnh nòng cốt chỉ huy các đấu trường Nhân Quyền Quốc Tế cho người Việt Nam ở trong và ngòai nước. Thơ ông sâu thẳm, cô đọng, kiến trúc chữ cầu kỳ đẹp cấp cao. Tạp Ghi Ở Paris của Thi Vũ là một tác phẩm độc đáo của một người Việt ăn dầm ở dề với Paris lâu và thơ văn thành phố qua trang chữ Việt. Ông có một số trước tác quan trọng như Nguyễn Trãi Sinh Thức Và Hành Động, Luận Chiến Nước Ngòai. Nhưng với tôi, con người trí thức và đời sống ông lôi cuốn hơn tác phẩm của ông. Ông thuộc tầng lớp trí thức ưu tú Miền Nam đi du học ở Âu Châu trước năm 1975, thời điểm Nam - Bắc Việt Nam bị cưa đôi bởi ý thức hệ Quốc Gia Cộng Sản. Ông khác với nhiều bậc trí thức Việt Nam cùng thời cùng đám, là ông đã chọn lựa cái vị thế cô đơn của một trí thức Việt xa nhà không thể xu thời theo trí thức Tả Tây Tả Mỹ, làm những điều gây nên những tội ác cho quê hương ông . Điều đó không có nghĩa là ông hòan tòan Hữu. Nhưng ông giữ được một cách thế Trí Thức Độc Lập mặc cho khuynh hướng trí thức thời đại Tây Tàu nổi mạnh và dẫn đường thế giới đến đâu. Ông gây cho tôi sự chú ý vì phong thái Trí Thức Độc Lập ấy. Điều mà lâu nay tôi thấy hơi yếu và đuội ở giới trí thức Việt Nam nổi tiếng. Ông làm cho thế hệ đàn em hải ngoại chúng tôi hãnh diện lớp đàn anh du học có những người như Thi Vũ Võ Văn Ái, một trí thức Việt thông thái đầy bản lĩnh dám làm một nhà lãnh đạo đấu tranh cho Nhân Quyền trên các chính trường Quốc Tế.
Ông có cái dáng vẻ trí thức lẻ loi, cả khi ông nhập vào đám đông để đấu tranh cho họ, đấu tranh cùng với họ. Thi Vũ Võ Văn Ái là một tác phẩm sống, mà một kẻ - có định mệnh bị xô đẩy đi lôi kéo tiểu thuyết về gia phả vào đời mình vào đời thường, chứ không phải là đem đời mình và đời thường thêu dệt nên tác phẩm tiểu thuyết như tôi - rất tò mò muốn khám phá về ông… Mãi đên khi hoàn tất bản phỏng vấn, tôi vẫn chưa bao giờ gặp mặt ông, chưa bao giờ nói chuyện điện thoại với ông. Cuộc phỏng vấn được được thực hiện qua điện thư . Mọi chuyện xảy ra đôi khi giống như là tôi đang được đối thoại với một … nhân vật rất tiểu thuyết. (lê thị huệ –tháng 11/2009)
1.
Lê Thị Huệ: Chào nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, câu hỏi đầu tiên tôi muốn hỏi, là ông chọn làm một nhà tranh đấu hay hoàn cảnh đã đưa đẩy ông trở thành một nhà đấu tranh cho nhân quyền và Phật Giáo Việt Nam ?
Võ Văn Ái : Tranh đấu là phản ứng, không phải chọn lựa. Hai nghìn năm lịch sử con người Việt là chuỗi phản ứng trước nạn xâm lăng nước ngoài, trước những bất công, đàn áp đến từ vua chúa và các chế độ bất nhân bên trong. Tức ngoại xâm và nội xâm. Người ta bảo con trùn còn phải oằn khi bị giày xéo, thì con người làm gì khi bản thân, gia đình, xóm giềng bị bức hiếp ?
Tôi sinh ra dưới thời Pháp thuộc. Thân phụ tôi làm cho nhà giây thép Pháp, nhưng tinh thần ông chống Pháp gây ảnh hưởng sang tôi. Thế hệ chúng tôi không có thời thơ ấu vì mới chào đời đã tiếp cận nô lệ, loạn lạc, chiến tranh. Vừa mới biết nhìn đời đã gặp đệ nhị thế chiến, chiến xa Pháp tập trận, quân đội Nhật kéo vào Đông Dương.
Hình ảnh đánh động tâm tư tôi thời bé những năm 40 là chiến xa Pháp tập trận ủi vào cây vải nhà tôi ở Bến Ngự, Huế, tước một mảng vỏ bày ra thớ thịt cây vàng thẩm như máu ối. Tôi đã đau xót như cây.
Thời đó mẹ tôi thui thủi trong căn phòng hiu quạnh lúc cha tôi đi làm xa trên biên giới Việt Hoa. Mỗi năm một bận ông về thăm một hai ngày. Thỉnh thoảng bà ngâm thơ khe khẽ, tôi chỉ nhớ hai câu “Chồng hỡi chồng, con hỡi con… cùng nhau xa cách mấy năm tròn…”. Câu thơ đeo đuổi tôi rất lâu. Phải chăng đó là hồn thơ mẹ gieo vào lòng, khiến tôi chỉ muốn là người làm thơ trong đời này ? Lớn lên mới biết đó là thơ Thượng Tân Thị làm thay vợ vua Thành Thái khi chồng bị Tây đày sang Madagascar.
Tôi sinh ra trên dãy Hoàng Liên Sơn vùng biên giới Việt Hoa, về Hà Nội những năm đầu học vỡ lòng rồi theo cha mẹ vào Saigon, Nhatrang, Bình Định. Năm 5 tuổi mới về Huế ở Bến Ngự. Những bài học khai tâm là chữ Hán do một đệ tử cụ Phan Bội Châu dạy. Rất sớm tôi đã đọc Cụ Phan Bội Châu. Tiếng gọi giống nòi qua văn thơ Cụ Phan thâm nhập tôi những năm 9, 10 tuổi. Tất cả tiền mẹ cho ăn quà tôi dành mua các sách Cụ Phan tại tiệm sách ông bà Đào Duy Anh ở Huế. Thưở ấy, khi đưa đẩy tao nôi ru em thay mẹ, tôi hát thơ cụ Phan - Á Tế Á, Sống, Bài ca chúc Tết thanh niên, Ái quốc ca, Ai cáo Nam Kỳ…
Hết làm cho Pháp, thân phụ tôi mở căn hàng xén ở Huế. Giữa thập niên 40, tôi chứng kiến hai kỷ niệm khắc sâu. Lần đầu là tên Tàu phù (quân Tàu vàng sang giải giới quân Nhật), lần sau là tên lính Pháp. Cả hai lần bọn chúng cướp giật hàng khi ngã giá. Chúng đánh cha tôi khi ông phản ứng. Còn quá nhỏ để làm được gì, tôi uất hận, đau đớn và tự nhủ lòng phải làm gì để bọn ngoại nhân không còn quyền đánh đập dân Việt.
Sau đó tôi đi theo kháng chiến. Năm 13 tuổi bị bắt và vào tù. Nhờ thân phụ tôi có người bạn học thưở nhỏ làm sĩ quan trong quân đội Pháp, nên ông được phép vào nhà lao thăm tôi. Nhân dịp tôi xin cha tôi mang vào những bộ kinh Phật. Tôi đọc hết các bộ kinh Phật trọng yếu vào thời gian bé bỏng arikasūtra), Kim Cang) ấy, như các bộ Pháp Hoa (Saddharmapun (Vajracchedikā-prajñāpāramitāsūtra), v.v… Tôi chấn động với hình ảnh Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Quán Thế Âm.
Kỷ niệm chưa phai trong tôi thời ấy khi chứng kiến ở phòng tra tấn. Tên chủ sự ngồi bàn giữa quan sát ba thuộc cấp hỏi cung. Hắn bắt một văn công ngồi cạnh hát những bài ca kháng chiến, trong khi ba tên kia vừa hỏi cung vừa tra tấn tù nhân. Trong số này có một chị nữ và một mẹ già. Tinh thần kháng chiến tự dưng bốc cao trong tôi. Làm sao quên những tiếng thét, tiếng khóc trộn lẫn vào giọng ca khi bi hùng, khi tình tự của anh văn công bị bắt. Tôi không hiểu vì sao anh có thể điềm nhiên hát, tên chủ sự có thể điềm nhiên nghe giữa tiếng khóc gào, lăn lộn ? Một cảnh trạng kỳ lạ mà não nùng. Tôi lập tâm phải cứu những người tù ra khỏi ngục.
Từ đó trở về sau, cuộc đời tôi đi vào đấu tranh như con cá giữa dòng nước.
Bồ tát là người giác ngộ, đạt quả vị Phật, nhưng tự ý cư trú cõi trần gian bi lụy, phát nguyện sống đạo giữa đời thường để cứu độ con người. Bồ tát Địa Tạng phát nguyện bao lâu còn một chúng sinh trong địa ngục, ngài thề chưa thành Phật. Địa ngục đâu phải ở cõi âm ? Những Gulag nơi hoang mạc Siberia, trại Lao cải ở Trung quốc, trại Cải tạo ở Việt Nam, trại Tập trung thời Đức quốc xã… không là địa ngục ư ? Chiến tranh không là địa ngục ư ?
Địa ngục tiếng Phạn là Nakura, có nghĩa là nơi chịu khổ, loài chịu khổ. Địa ngục Phật giáo khác địa ngục trần gian ở chỗ do thân thể nhỏ yếu, tinh thần lung lạc lúc phải chịu đựng quả báo do mình gây ra nhân ác mà khổ. Thập điện Diêm phương ta thấy sau hậu liêu các chùa chỉ là lời cảnh báo những ai ngoan cố, gây nhân ác, làm hại người để họ biết sợ mà hối cải. Trái lại, địa ngục trần gian có người cai quản - quản giáo, có người giam nhốt, có người hành phạt, có người tra tấn, giết chóc.
Bồ tát Quán Thế Âm là người lắng nghe tiếng khổ đau nơi thế gian và hiện tới cứu độ. Không trong hình thái thần linh, thiên thần đầy phép lạ và quyền uy, mà ngài hiện thân qua 30 hình thái tượng trưng các giới người trong xã hội để cứu cấp. Nếu người kêu cầu là một phụ nữ, ngài hiện thân ra phụ nữ đến cứu. Nếu người kêu cứu là một vị tướng, một người ngoại đạo, một trong các giai cấp xã hội, một trong các loài trong vũ trụ vô biên… thì ngài liền hóa thân thành thân phận kẻ bị khổ nhục, tội đồ, nạn nhân để cứu cấp. Là người đồng cảnh mới cứu độ kẻ đồng cảnh.
Phật tử là người mang hạnh nguyện quán thế âm - lắng nghe tiếng thế gian cầu cứu mà hiện đến giải vây, giải phóng con người.
Có lẽ những năm trẻ tuổi trong tù, tôi được khai thị về giáo lý Vô Ngã của đạo Phật dưới đáy sâu lòng mình vào lúc nào không hay, làm nên sợi chỉ đỏ của tâm hồn cho những cuộc dấn thân không ngừng nghỉ về sau. Cứ tự bảo hết kháng chiến, hết chiến tranh, hết cộng sản giày xéo dân lành… mình về lại cuộc đời làm thơ, viết văn, nghiên cứu. Nhưng có gì hết đâu như thân phận trần gian khổ lụy trên dải đất hình chữ S kéo dài từng nghìn năm.
Nghĩa đen vô ngã (anātman) là không ta, không có cái ta. Nhưng nội hàm mang nghĩa tương sinh tương duyên. Trong vũ trụ chẳng có chi tồn tại biệt lập và bất biến, mọi sự mọi vật đều do tổ hợp của nhiều yếu tố duyên ra. Cây lúa kia không thuần túy là một cây lúa biệt lập, tự tại, miên viễn. Cây lúa là một quá trình tương hợp của hạt giống là nhân, cộng với cái duyên của đất, nước, mặt trời, phân bón và sức nông dân lao động để thành quả lúa. Tất cả những yếu tố ấy duyên khởi ra cây lúa. Thiếu bất cứ yếu tố nào, lúa không thành lúa. Đây là hàm nghĩa của vô ngã. Phân tích về con người cũng vậy.
Vô ngã, là lý nhân duyên sinh trong không gian; và Vô thường (anitya) là lý nhân duyên sinh trong thời gian. Từ ý thức nhân duyên sinh, tôi không là cái ta biệt lập mà tương sinh tương dự với người khác. Cho nên sự khổ đau của người khác, người khác bị áp bức cũng là sự khổ đau, áp bức cho bản thân tôi. Tinh hoa của đạo Phật là ở lý duyên khởi hay duyên sinh này, làm cho đạo Phật khác với tất cả mọi hệ thống suy tưởng của các tôn giáo khác. Tự thân của sinh thức này là sự giải phóng và tự do tối hậu cho con người trần lụy và mọi loài trong tam thiên đại thiên thế giới (1) tức vũ trụ.
Một ngày nọ Bồ tát Văn Thù (Mañjurī) đến thăm bệnh Cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakīrti). Hỏi ông bệnh gì ? Cư sĩ Duy Ma Cật đáp : Chúng sinh bệnh nên tôi bệnh. Thuật ngữ Phật giáo của từ chúng sinh bao hàm tất cả các loài hữu tình, chứ không trỏ riêng loài người. Tất cả những chi kết hợp thành sự sống gọi là chúng sinh (chúng duyên nhi sinh). Bệnh của Bồ tát tương lân với bệnh chúng sinh. Nên Bồ tát ra công cứu độ chúng sinh.
Trong bản kinh Phật Việt Nam đầu tiên, Lục độ tập kinh, xuất hiện ở Giao châu vào thế kỷ thứ III Tây lịch, có một câu ứng cho câu hỏi về tác phong Phật giáo của chị: “Bồ tát thấy dân kêu ca liền gạt lệ xông vào nơi chính trường hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than”. Đạo Phật Việt Nam ở thế kỷ thứ III đã là như thế.
2.
Lê Thị Huệ: Nếu nói thành tích của Võ Văn Ái là một trong vài nhà tranh đấu nhân quyền có tầm vóc quốc tế, giữ được ngọn lửa đấu tranh cho Việt Nam từ 1975 cho đến nay ? Ông nghĩ thế nào ?
Võ Văn Ái : Tôi bắt đầu sinh hoạt thế giới khi tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên năm 1958 ở Bodensee bên Đức (Die Erste Internationale Jugendtagung der Fraternitas – Für Eine Brüderliche Welt) bao gồm đại biểu các nước Á châu, Phi châu và Châu Âu. Sau này do tôi hoạt động sớm cho Việt Nam ở Tây phương từ năm 1963 với nhiều dự án có tính quốc tế, rồi có mặt trong tư thế phát biểu thường niên cho nhân quyền Việt Nam tại Ủy hội Nhân quyền LHQ từ năm 1985. Đặc biệt qua các cuộc vận động quốc tế, tôi có dịp tiếp cận giới nhà văn, học giả, nhân sĩ có danh trong thế giới, nên được truyền thông báo chí quốc tế nhắc nhở. Kỳ thực có hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu người Việt giữ lửa đấu tranh cho Việt Nam suốt thế kỷ XX vừa qua. Nhưng ít được nhắc nên không ai biết. Tôi chỉ là một người Việt trong số trăm, nghìn, triệu người Việt vô danh khác đã đứng lên trong bóng tối chống thực dân, chống độc tài, và đòi hỏi Quyền làm Người Việt Nam.
3.
Lê Thị Huệ: Là một phật tử trí thức tích cực dấn thân, theo ông đâu là ưu và khuyết điểm của Phật Giáo Việt Nam ?
Võ Văn Ái : Cái ưu của Phật giáo Việt Nam là con đường tu và hành theo Đại thừa giáo còn gọi Bắc tông (Mahāyāna) được phát triển rất đặc thù và có sáng tạo theo hướng dân tộc bản địa từ trung tâm Luy Lâu trước và sau các thế kỷ bản lề Tây lịch.
Tu thì thực hiện sự giác ngộ cho bản thân, đồng lúc cưu mang giác ngộ cho kẻ khác (tự giác nhi giác tha). Hành động thì không rời việc cứu khổ quần sinh trên mặt đất. Cần thâm nhập chữ khổ kha) theo(((duh giáo lý đạo Phật. Khổ đây không là cái khổ thể xác của con lừa suốt ngày đi quay vòng theo cối xay hay người thợ lao lực nơi công xưởng, mà là không biết đến hệ lụy của vòng tròn miên viễn cột dính mình vào thế phận trầm luân. Cái không biết ấy gọi là vô minh (avidyā). Vô minh mới chính là mối khổ ách của nhân sinh. Quán sát nhân duyên con người, đức Phật dạy 12 nhân duyên phát khởi ra luân hồi như một dây chuyền liên tục từ khâu này sang khâu khác (thập nhị nhân duyên : vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử), thì vô minh (mê muội, không sáng suốt) là điểm khởi phát cho mọi trầm luân, hệ lụy. Đối với ngoại cảnh, vì vô minh nên không chân nhận được thực tướng vô ngã, vô thường của sự vật. Đối với nội tâm, vì vô minh nên quay cuồng theo sự phân biệt, vong thức. Giải quyết được vô minh là giải quyết tất cả.
Nói về vô minh của loài người hôm nay đây, vào năm 2009, thì phát kiến khoa học được bao trùm đến chân tơ kẽ tóc, nhưng đứng trước vũ trụ vô biên, khoa học vẫn còn ở vị thế vô minh. Chúng ta, tức khoa học, chỉ mới nắm vững trên phạm vi kiến thức 10% vật chất trong vũ trụ mà thôi. 90% cái gọi là “Vật Đen” (Dark matter/Matière noire) hùng cứ trong vũ trụ mà các nhà khoa học mới có khái niệm vào những năm 30 thế kỷ XX. Vật Đen vẫn còn là dấu hỏi lớn, vẫn còn trong dạng vô hình, chưa nắm bắt, hiểu biết. Vũ trụ còn che giấu 90% khối lượng nguyên tử của nó, nên chúng ta còn vô minh về 90% khối lượng (vật đen) hiện hữu. Kiến thức nhân loại về vũ trụ chỉ mới đạt ở mức độ 10% mà thôi. Dễ sợ cho những ai dương dương tự đắc về sự hiểu biết hay thông tuệ của mình.
Từ điểm ưu Phật giáo nói trên mà Việt Nam đào luyện ra những con người biết đối ứng với cuộc thế một cách sáng tạo và hùng tráng, như Sư bà Thiều Hoa (một bà Ni, tức nữ tu sĩ) năm 36 Tây lịch mộ 500 quân đến ứng chiến với Hai Bà Trưng, rồi tới những Phật tử tham gia 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Phật tử Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), các đạo sư, thiền sư, cư sĩ Phật tử như Đinh Bộ Lĩnh, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trải, v.v… qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê trong việc dựng nước, giữ nước và cứu người.
Một ưu điểm hiếm thấy so với các quốc gia Phật giáo Á châu khác, là vai trò nổi bật của người Cư sĩ Phật giáo trên hai lĩnh vực đạo và đời. Cư sĩ là các nam, nữ Phật tử tu tại gia. Đức Phật Thích Ca xây dựng Cộng đoàn Phật giáo trên bốn tập thể (tứ chúng) : Tăng (nam tu sĩ), Ni (nữ tu sĩ), nam Cư sĩ tu tại gia và nữ Cư sĩ tu tại gia. Nhìn vào các phổ hệ thiền tại Việt Nam sẽ thấy điểm nổi bật ấy. Thường các phổ hệ thiền của các môn phái Phật giáo chỉ thấy tên tuổi đắc pháp của các bậc thiền sư, tức tăng sĩ (các vị xuất gia).
Nhưng tại Việt Nam, xuất hiện nhiều Cư sĩ đắc pháp trong các phổ hệ thiền.
Vì pháp lý bình đẳng (chữ Phạn là sama) trong giới người theo đạo Phật bị sa sút, nên ngày nay mới có hiện tượng Tăng sĩ xem Cư sĩ như người sai vặt, kẻ thủ từ, người mang lại két tiền cho các chùa. Chứ xưa kia, Cư sĩ không như thế. Vai trò Cư sĩ ở thời đại lập quốc Việt Nam vừa đảm nhiệm vai trò Hộ Pháp (bảo vệ giáo lý giác ngộ), còn hoàn tất cự phách việc Hộ Dân (cứu dân) và Hộ Quốc (bảo vệ nước). Cư sĩ xông vào thế sự - chứ không là thế tục - giải quyết việc thế giới. Chất thế lấn át chất tục trong con người Cư sĩ Phật giáo.
Dòng thiền Pháp Vân của ngài Tì Ni Đa Lưu Chi kéo dài từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII gồm toàn các tăng sĩ đắc pháp (nắm bắt chân lý giác ngộ của đạo Phật). Sang đến dòng thiền Kiến Sơ của ngài Vô Ngôn Thông, từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIII, thì 13% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ (người tu tại gia). Dòng thiền Thảo Đường từ thế kỷ XI đến một thế kỷ rưởi sau có 50% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ. Sau đấy một dòng thiền đặc thù và tổng hợp của Phật giáo Việt Nam là dòng thiền Trúc Lâm Yên tử, đỉnh cao của giới Cư sĩ tham dự trong đời sống giác ngộ đạo cũng như hoàn mãn việc thế sự, được biết dưới chủ trương Cư trần lạc đạo - sống tại thế nhằm thể hiện đạo - đúng theo phong thái của Phật giáo đại thừa “Phật giáo không lìa thế gian để hoàn thành sự giác ngộ” (Phật giáo bất ly thế gian giác). Điều này có nghĩa là tất cả các pháp (sự lý trong đời) đều là Phật Pháp. Một đạo Phật như thế hẳn nhiên là sự chung dự thiết tha và thiết yếu với đời sống con người trên mặt đất. Tôi quan niệm và tin tưởng một đạo Phật như thế.
Vua Trần Nhân Tông hai lần cầm quân chống Nguyên Mông và đại thắng, là một Cư sĩ Phật giáo. Sau trở thành Thiền tổ của dòng Thiền Trúc Lâm. Trần Hưng Đạo là một cư sĩ, Tuệ Trung thượng sĩ là một thiền sư nhưng vẫn cầm quân giữ nước chống Nguyên Mông, xong việc nước mới trở về chùa viện. Sự tham dự của người Cư sĩ Phật giáo vào các lĩnh vực chính trị, văn hóa, ngoại giao, kinh bang tế thế rất phổ biến và đặc thù trong quá trình dựng nước, giữ nước, cứu người, từ cuộc kháng chiến vệ quốc của Hai Bà Trưng tiếp đến các triều đại lâu sau.
Điểm khuyết của Phật giáo Việt Nam ở thời hiện đại, là người học đạo thì nhiều, nhưng người chứng đạo không bao lăm. Người thuyết pháp nhiều, nhưng người thể hiện giáo lý đạo Phật vào cuộc đời hằng nhật quá hiếm hoi. Nói tóm, tu đạo thì có, hóa đạo còn sơ sài.
Đặc biệt là sự vắng bóng của giới Cư sĩ Phật giáo trên chính trường nước Việt. Một thiệt thòi cơ bản cho sự phát triển Việt Nam.
Đương nhiên giới Cư sĩ Phật giáo rất đông. Song họ chuyên tu đạo Phật hơn hành động Phật giáo. Đến khi hành động họ tham gia các phong trào phi Phật giáo hoặc phản Phật giáo, thay vì gia công hình thành con đường hành động mới, dựa trên lòng từ bi và trí tuệ. Năm 1963 cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng thành công, là cơ hội bằng vàng cho Phật giáo trở thành giải pháp mới đem lại tự do, bình đẳng, công lý trước ý thức hệ thảm sát của Cộng sản. Nhưng giới lãnh đạo Phật giáo đã đánh mất cơ hội này. Từ năm 1966 trở đi cuộc phân hóa trong cộng đồng Phật giáo trở nên trầm trọng cho tới hôm nay, 2009. Khởi từ sự phân hóa trong giới Tăng lữ lãnh đạo nên mất trí tuệ điều hành cuộc chống trả các thế lực áp đảo bên ngoài nhằm mở ra viễn kiến dân tộc và nhân loại.
Do thiếu kiến thức về thế giới, mắc cạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nên một số lãnh đạo Phật giáo không có giải pháp thời thế, bị các thế lực đảng phái khuynh loát, là những nguyên nhân phân hóa giới lãnh đạo Phật giáo làm cho khối lượng quần chúng vạm vỡ Phật giáo không phát triển và tê liệt theo.
Tôi có cảm tưởng ngày nay đa số người tu đạo Phật phục vụ cái chết nhiều hơn sự sống. Tiêu đích họ nhắm là xin chiếu khán vào Niết Bàn, chứ không truyền thừa con đường cứu khổ - trừ diệt vô minh - của đạo Phật, đặc biệt là sinh thức “Cư trần lạc đạo” của nền Phật giáo dân tộc. Mặt khác do quan điểm thời gian vô hạn, sống nhiều kiếp, nên quán tính lần lữa, trì hoãn, bó tay không cho họ giải quyết việc đời : Kiếp này không thực hiện được thì chờ kiếp sau, kiếp này không lấy nhau được thì hẹn kiếp lai sinh… đại khái như thế. Trong khi người phương Tây chỉ có tối đa 100 năm để sống, nên họ thu xếp thực hiện mọi sự cho kỳ được nơi cõi trăm năm.
Do có thời gian mênh mông của nhiều kiếp nên trong giới Phật tử còn ít người chú tâm gầy dựng cảnh nhân gian tịnh độ trên trái đất và trước hiện tiền. Họ quên bẵng một cõi Nhân gian tịnh độ có thể thiết lập trên mặt đất. Họ khoán trắng cõi Tịnh độ cho đức Phật A Di Đà nơi cõi Tây phương Cực lạc. Khí thế Phật giáo Lý – Trần chỉ được nhắc nhở, đề cao nhằm thoa vuốt mối tự hào hão, nhưng không được hồi sinh, tái tạo trong Ý thức Dung hóa với xu thế toàn cầu và những tiến bộ ngất trời của nhân loại.
Trong phong trào Chấn hưng Phật giáo khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, tôi chỉ thấy một Cư sĩ Phật giáo gương mẫu có ý thức và có hành động thiết lập cõi Nhân gian tịnh độ là Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Văn Kha ở đất Thăng long. Nhưng ông đã bị Việt Minh bức tử trong phong trào Cải Cách Ruộng đất.
Nhân tổ chức phòng triển lãm tranh tại Paris năm 1967, Henry Miller từ Hoa Kỳ đến thăm tôi, mang một tấm tranh tặng cháu Ái Anh, cháu gái đầu lòng mới sinh. Anh là cha đỡ đầu cho cháu. Henry Miller nói một câu làm tôi giật mình và suy gẫm nhiều năm sau : “Ba nghìn năm qua có ai thành Phật sau đức Thích Ca không ?”.
4.
Lê Thị Huệ: Ông có thể cho biết những đóng góp nổi bật nào của văn hoá Phật Giáo vào trong văn hóa Việt Nam từ trước đến nay ?
Võ Văn Ái : Trong nền văn hóa chủ lưu dân tộc, sắc thái văn hóa Phật giáo rất đậm nét. Nhìn vào kho tàng ca dao, tục ngữ, là mức suy tưởng bộc trực của quần chúng mà ta có thể gọi như nền triết lý đối ứng chưa hệ thống thành triết học, cho đến các tác phẩm bác học đủ minh chứng cho nhận định này. Tâm thức cũng như hành hoạt con người Việt gắn kết với định luật nhân quả (ác giả ác báo) và lòng a - mang'thương người (lòng từ, thuật ngữ Phật giáo gọi lòng từ bi - kārun nghĩa từ là cho vui, bi là cứu khổ). Hiển nhiên nước nào lại không công nhận hay đề cao lòng thương người, lòng bác ái, vậy Việt Nam có gì ngoại lệ ? Thế nhưng, thể hiện lòng thương theo đạo lý nhị nguyên, hay lòng thương là vật tự thân của nguyên lý bất nhị, khác nhau lắm trong tiến trình tư tưởng và hành động. Một bên có chủ đích, một bên bất vụ lợi. Câu nói bình dân “thương người như thể thương thân” đại biểu cho ý thức Phật giáo thấm vào lòng ý thức dân tộc. Qua câu này giáo lý Vô ngã, tức giáo lý duyên khởi, duyên sinh cơ bản của Phật giáo được thể hiện một cách tự nhiên và đầm ấm, chứ không là khẩu hiệu hô hoán hay động viên.
Tuy nhiên cần cảnh giác lý nhân quả để đừng biến nó thành chủ nghĩa định mệnh. Nhân nào quả ấy, ai gây nhân kẻ ấy gặt quả, là đúng. Nhưng một số Phật tử thụ động ngồi chờ cái sự “ác giả ác báo” ấy như một thứ Phán xét cuối cùng (Jugement dernier), mà chẳng ra tay ngăn cản những nhân ác hoành hành. Trên kia tôi nó nhắc biểu tượng cây lúa. Hạt lúa là nhân, cây lúa là quả. Nhưng để cho nhân hình thành ra quả cần thêm những duyên. Duyên tuy phụ nhưng không có sẽ không thành quả. Duyên đây là đất, nước, gió thuận, mưa hòa, phân bón và sức lao động người nông dân. Không có các duyên này, cây lúa không thành. Cũng thế, nhân tốt là tình yêu, nhưng không có duyên bảo vệ, chia sẻ thì quả hạnh phúc vợ chồng khó hiện hữu. Cho nên có nhân có quả còn phải có duyên lành, mà ta cần nhấn mạnh như NHÂN DUYÊN QUẢ để không rơi vào thái độ yếm thế biến NHÂN QUẢ thành chủ nghĩa định mệnh, chờ thời.
Nhân Cộng sản xấu ác đưa tới Quả địa ngục cho Việt Nam. Hẳn phải như thế, khi không có sự chung dự của những biệt nghiệp lành (karma individuel, nghiệp của từng cá nhân) của những cá thể nhằm chuyển hóa cộng nghiệp xấu ác (karma collectif, nghiệp của tập thể, cộng đồng). Vì vậy, Quả tự do cho một nước Việt Nam vẫn có thể thực hữu nếu duyên dấn thân của Người Việt can dự để chuyển Nhân xấu ác Cộng sản thành Quả tự do, dân chủ cho đất nước. Luật Nhân quả cần một khoảng thời gian chuyển biến như một tiến trình. Tiến trình ấy ngắn hay dài tùy thuộc vào duyên can dự. Phật giáo còn quan niệm một Nhân-Quả-đồng-thời, đủ biết khả năng thiên hình vạn trạng mà ý chí con người có thể tham dự để biến khổ đau thành hạnh phúc, nô lệ thành tự do.
Văn hóa Phật giáo là Văn hóa Giác ngộ và Cứu khổ, tiền đề cho Ý thức Sáng tạo trong đời sống và Ý thức Cấp cứu khi nguy biến. Lịch sử dân tộc là một chuỗi dài tham dự cứu nguy của toàn thể quần chúng các giới nhờ thấm nhuần tư tưởng đạo Phật trên ba nguyên lý từ bi a),'(kārun trí tuệ (prajñā), bình đẳng (sama). Pháp bình đẳng rất chủ yếu trong đạo Phật. Từ nhận thức chúng sinh đều có tính Phật (Phật tính) nên mọi người đều đồng đẳng, không phân biệt cao thấp, oán thân, giai cấp. Do pháp bình đẳng, lúc sinh thời Đức Phật Thích Ca đã phủ nhận chế độ giai cấp (tứ tính bình đẳng) ở Ấn độ. Trong kinh sách Phật giáo còn phát triển pháp lý bình đẳng từ xã hội lên đến lĩnh vực tư tưởng và tâm linh, như Chân như bình đẳng, Trí bình đẳng, Bình đẳng pháp thân, Bình đẳng đại bi, Bình đẳng đại tuệ, v.v… sakasūtra) nêu ra mười thứ bình đẳng : 1. Hết thảy chúng"Kinh Hoa Nghiêm (Avatam sinh bình đẳng ; 2. Hết thảy pháp bình đẳng ; 3. Hết thảy cõi nước bình đẳng ; 4. Hết thảy tâm sâu xa bình đẳng ; 5. Hết thảy thiện căn bình đẳng ; 6. Hết thảy Bồ tát bình đẳng ; 7. Hết thảy nguyện bình đẳng ; 8. Hết thảy Ba la mật bình đẳng ; 9. Hết thảy hạnh bình đẳng ; 10. Hết thảy Phật bình đẳng.
5.
Lê Thị Huệ: Ông là người có các quan hệ về công việc với các nhà lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam như thiền sư Nhất Hạnh, Hoà thượng Quảng Độ, ông có thể cho biết nhận định của ông về hai vị tu sĩ Phật Giáo này?
Võ Văn Ái : Hai vị cùng xuất phát từ môi trường tu học Phật giáo. Nhưng động lực xã hội thì lại khác. Động lực của Sư Ông Nhất Hạnh có tính cách cá nhân, Phật pháp chỉ là phương tiện phục vụ danh và lợi cá nhân. Động lực của Hòa thượng Quảng Độ bao trùm tính dân tộc và tính nhân loại, Phật pháp là động cơ thăng hoa nhân sinh. Vô tình tên đạo của Hòa thượng lại thể hiện cuộc sống 80 năm qua của ngài như kinh viết : “Quảng độ chúng sinh mãn bồ đề nguyện” - Độ khắp tất cả chúng sinh để thành tựu viên mãn đại nguyện bồ đề (bồ đề là giác ngộ)
6.
Lê Thị Huệ: Ông nghĩ gì về vai trò Phật Giáo trong cuộc đảo chính 1.11.1963
Võ Văn Ái : Vai trò Phật giáo hướng dẫn con đường dân tộc vượt thoát luồng tư tưởng nhị nguyên Tây phương nổ ra qua cuộc tranh chấp ý thức hệ phân đôi thế giới giữa Cộng sản và Tư bản.
Giới tướng lãnh quân nhân làm cuộc đảo chính 1.11.1063 theo chỉ thị của Hoa Kỳ để thực hiện chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Đáng tiếc vai trò Phật giáo tuy thành công trên phương diện tín ngưỡng, nhưng thất bại trên phương diện xã hội. Một phần vì giới trí thức Phật giáo không được chuẩn bị, phần khác lực lượng quần chúng Phật giáo không được tổ chức để đối ứng với tình hình thế sự. Nên đã bị các thế lực chính trị khuynh loát.
7.
Lê Thị Huệ: Theo ông thì cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam còn cần những yếu tố nào để đưa đến thành công ?
Võ Văn Ái : Cần hai yếu tố : Yếu tố Cư sĩ và Yếu tố Quốc tế. Cần liên kết khối Phật giáo tại Á châu và trên thế giới thành lực lượng Hòa bình. Nếu ta mường tượng lại những năm đầu thế kỷ XX và so với ngày nay thì Phật giáo đã phát triển mạnh và phổ biến tại các nước Âu Mỹ như một giải pháp tương lai chận đứng cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng ngày nay ở phương Tây. Công lao ngài Thái Hư Đại sư, người Trung quốc, mở ra những Hội Học Phật Âu Mỹ đầu thế kỷ XX, rồi tiếp đến ba bộ Essays in Zen Buddhism /Thiền luận của ngài Linh Mộc Đại Chuyết (Daisetz Teitaro Suzuki), người Nhật bản, khai thị tri thức Tây phương. Đó là nói phía Á châu. Còn phải kể công đầu của rất nhiều học giả phương Tây ưu tú trong công trình dịch thuật kinh Phật như Edward Conze, Étienne Lamotte, G. Tucci, v.v… So việc dịch thuật và thấm nhuần kinh sách Phật giáo của các học giả Âu Mỹ từ thế kỷ XIX trở đi, học giả người Việt kể cả một số vị Tăng sĩ có học còn ngắn hơi, sơ sài, chẳng thấm vào đâu.
Trên đây là phương diện học thuật, tư tưởng. Nay cần kết tinh qua hành động như một lực lượng Hòa bình thế giới trước nạn độc tài, quân phiệt và khủng bố. Pháp môn Cư sĩ của Phật giáo Việt Nam rất có tương lai, trên mặt hành động chính trị, văn hóa, xã hội, tại các quốc gia Âu Mỹ, nếu được giới thiệu và phát huy. Cho tới nay tại phương Tây mới được phổ biến các Pháp môn Thiền và Nhật Liên tông (Sokagakai) đến từ Nhật Bản, và Phật giáo Tây Tạng.
Do giáo luật Phật chế, Tăng sĩ không được làm chính trị, không được tham gia thế sự. Hiện nay một số Tăng sĩ trong Giáo hội Nhà nước tham gia làm đại biểu Quốc hội cộng sản là họ đã phạm trọng giới chiếu theo giới luật Phật chế. Tăng sĩ chỉ lo việc truyền pháp và phát triển đời sống tâm linh cho tín đồ. Cho nên đối diện với thế sự chỉ còn giới Cư sĩ là những người tu tại gia, thế học cao, không bị gò bó, không bị ảnh hưởng giới luật cấm tham chính nên có khả năng chuyển vận giáo lý vào đời. Mặt khác, có chung đụng và đối diện với việc đời mới giải quyết cuộc nhân sinh trên bình diện xã hội. Cần nhớ Cư sĩ là trữ lượng cho Tăng sĩ, đồng thời cũng là trữ lượng cho những nhà chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân văn, bác học, khoa học. Cư sĩ là bánh xe chở Đạo, chớ coi thường như xưa nay.
Đem những thuyết giáo cao cả trong kinh sách làm “quốc văn giáo khoa thư” cho những giải pháp xã hội mà không biết khế cơ, khế lý, không có khả năng tham dự thì cũng ảo tưởng như chủ thuyết Cộng sản đại đồng trước bao khổ ách, bất công của nhân loại. Cho nên cần có sự phân công hợp tác giữa Tăng sĩ và Cư sĩ để giải quyết thế sự và nhân sinh. Giới Tăng sĩ ngày nay phải xem đây như Công án(2) để phát huy đạo Phật vào thời đại. Cần phân biệt thấu đáo hai vị trí, là Tăng sĩ như một vị thầy dạy đạo và hướng dẫn tâm linh tín đồ, và vị trí Tăng đoàn như một trong ba pháp bảo (Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng). Người hay hiểu lầm và đánh lộn sòng một vị Tăng / Tăng sĩ với tập thể Tăng là Tăng đoàn tức Tăng bảo trong Tam bảo. Mặt khác, cần hiểu yếu tính của Tam bảo(3) như tự tính bản lai, chứ không là những ngôi vị cá thể mà đông đảo Phật tử ngày nay ngộ nhận. Xu thế giáo dục Tăng sĩ, từ Ngũ minh(4) cho đến xu thế toàn cầu hiện đại, cũng như vai trò Tăng sĩ trong cộng đồng Phật giáo và cộng đồng thế giới cần khế hợp, chuyển hóa để thích nghi. Thích nghi mà hoằng đạo, chứ không phải thích nghi để biến tướng. Quan niệm thiển cận của chư Tăng đối với Cư sĩ lâu nay cũng phải thay đổi.
Năm mười thế kỷ trước do trình độ giáo dục và kiến thức của quần chúng Phật tử còn mông muội, nên Tăng sĩ vừa là thầy dạy đạo, còn là thầy học, thầy thuốc, cố vấn chỉ đạo trên mọi lĩnh vực của đời sống. Ngôi chùa thời Lý Trần là một trung tâm giáo dục, một đại học. Người cư sĩ thưở ấy cần một vị Thầy toàn diện, và thưở xa xưa ấy, ngoài nội điển (kinh sách Phật giáo), trình độ Ngũ minh của Tăng sĩ cũng rất cao. Ngày nay trình độ tiến hóa của khoa học và các bộ môn kiến thức xã hội, nhân văn tiến những bước hài nghìn dặm và thay thế vai trò Tăng sĩ trên các lĩnh vực này. Đời sống văn minh, dân chủ, hệ thống giáo dục, y khoa, ngôn ngữ đem lại những kiến thức rốt ráo cho đa số Cư sĩ. Họ không còn dốt như xưa. Vì vậy sự trông chờ của người cư sĩ ở một Tăng sĩ cũng đã khác lắm. Họ trông chờ ở người Tăng sĩ như một nhà bác học tâm linh, hơn là một ông thầy chỉ giỏi cúng kiến, xem xăm, chấm tử vi. Dân quê nước ta đầu thế kỷ XX tin và chỉ có phương thức chữa bệnh duy nhất là đốt bùa lấy tro hòa nước uống. Nhưng khi y học Pháp đem lại viên thuốc Quinine, rồi lâu sau Penicilline, thì tín ngưỡng đồng bóng bị đẩy lùi vào bóng tối quá khứ.
Chính trị là một khoa học, chứ không là mưu đồ. Chính trị tại nước ta 64 năm qua (1945-2009) còn quanh quẩn trong những mưu đồ; chưa được khoa học hóa để phục vụ xã hội con người. Sự vắng mặt của giới Cư sĩ Phật giáo trên ba lĩnh vực chính trị, văn hóa và xã hội là một trong những nguyên do gây pháp nạn cho Phật giáo nói riêng, và quốc nạn cho dân tộc nói chung.
Hiển nhiên người Cư sĩ Phật giáo có mặt khắp nơi, trong các hội đoàn, đảng phái, phía cộng sản cũng như phía quốc gia. Thế nhưng họ có mặt trong vai vế thừa sai. Chứ không ở vị trí chủ động của một nhà văn hóa chống chủ nghĩa ngu dân, một nhà chính trị phát huy chính sách khoan dung và hòa bình.
8.
Lê Thị Huệ: Ông phát biểu như thế nào về vai trò Phật giáo trong sinh mệnh của Việt Nam ? Phật giáo phải sửa đổi như thế nào để không sống làng nhàng, mà làm cho Việt Nam phát triển lên ?
Võ Văn Ái : Chị dùng chữ “sống làng nhàng” là khoan hồng đấy. Đúng với thực tại phải nói là “sống nhập nhằng” - ba phải. Chẳng những ba phải mà nghìn phải !
Trong hoàn cảnh lịch sử 2000 năm Việt Nam, sinh mệnh Phật giáo và sinh mệnh Việt Nam gắn liền nhau. Ở thời kỳ lập quốc, yếu tố Phật giáo đã hòa hài để hoàn chỉnh nền văn hiến Việt. Hiển nhiên còn hai yếu tố Khổng giáo và Lão giáo. Nhưng Khổng giáo hoạt động ở bộ máy nhà nước, lại đại biểu cho nền văn hóa nô dịch của Bắc phương nên có phần hạn chế trên mặt dân tộc. Lão giáo bị bỏ rơi khía cạnh triết lý hành xử, trở thành nhánh tu tiên, ưu tư thuật trường sinh, cuối cùng trở thành dạng hoạt động bùa phép, phù thủy. Mối ưu tư trường sinh qua việc luyện đan và tu dưỡng của Lão giáo chỉ tích cực ở mặt phát triển hóa học và y học cổ đại tuy còn thô sơ.
Mâu Tử, một nhà Nho người Hoa lánh nạn sang Giao châu vào cuối thế kỷ II Tây lịch rồi quy y theo đạo Phật ở Việt Nam, đã đánh giá đạo Phật trong cuốn Lý Hoặc Luận của ông như sau : “Bản chất đạo Phật là ở nhà có thể đem mà thờ cha mẹ, giúp nước có thể đem mà giáo hóa dân, sống một mình có thể đem mà trị thân”. Lý Hoặc Luận là bản luận văn của Mâu Tử đề cao con đường Phật Việt tại Giao châu, và chống lại nền văn hóa nô dịch Bắc phương, nơi ông sinh thành.
Ngoài việc hướng dẫn và phát triển đời sống tâm linh, đạo Phật Việt là tư tưởng chỉ đạo văn hóa chống các luồng ý thức hệ ngoại lai suy đồi hoặc phi nhân, và chỉ đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, để bảo vệ chủ quyền và văn hóa dân tộc, bảo vệ tự do, no ấm và hạnh phúc cho nhân dân, mà sử sách còn lưu dấu qua tác động của Hai Bà Trưng (năm 40 TL.) ; 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (suốt thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), v.v... tạo tiền đề cho sự kiến lập huy hoàng nền móng quốc gia Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê.
Cách “sống làng nhàng” làm cho “Việt Nam không phát triển” như chị nói không đến riêng từ Phật giáo, mà còn đến từ bộ máy cầm quyền, từ các triều chính theo quan niệm Tống Nho, rồi hai chính quyền đến từ Tây phương, là thực dân Pháp và Cộng sản.
Đồng ý là dù muốn dù không, giới trí thức Cư sĩ Phật giáo cũng phải chịu trách nhiệm trong sự phát triển cách “sống làng nhàng” này. Vì giới Cư sĩ Phật giáo đã không sử dụng tối đa biệt nghiệp (karma của mỗi cá nhân) họ để giải vây cộng nghiệp (karma của tập thể, cộng đồng) quốc gia.
Đây là hậu quả cuộc khủng hoảng văn hóa trầm trọng của Việt Nam từ hơn ba thế kỷ. Nghĩa là từ cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn cho đến cuộc phân tranh Quốc Cộng. Sông Gianh hay sông Bến Hải vẫn là nhát kiếm vô hình cắt đôi tâm thức Việt.
Hệ lụy ngày nay của người Phật tử Việt là đánh mất truyền thống “tầm sư học đạo” của hành giả đông phương. Tầm sư học đạo mang ý nghĩa mở mang trí tuệ trong cuộc truy tìm kiến thức và chân lý do tự thân chọn lựa và điều hướng. Người học cần Thầy nên đi tìm thầy giúp họ giải phóng khỏi vô minh, mê vọng. Tìm Thầy nói lên tính cách chủ động chọn lựa có trí tuệ độc lập, đồng thời với ý chí cầu thị. Thầy không ngang tầm với kiến thức, với chân lý, thì hành giả tiếp tục đi tìm thầy khác. Thế là có phê phán và biết đánh giá khách quan, mà mục tiêu nhắm khai mở kiến thức giác ngộ. Nhờ vậy không trở thành cố tín, giáo điều, bè phái, cục bộ. Người sinh viên Âu Mỹ chọn đại học ngày nay vô hình trung thể hiện tinh thần “tầm sư học đạo” của phương Đông ? Tôi ít thấy các sinh viên Âu Mỹ bảo vệ đến chết “ông Thầy của mình” hoặc bảo vệ đến phun nước bọt rồi thượng cẳng tay hạ cẳng chân với những ai không quỳ lạy “ông Thầy của mình” như người Việt Nam. Đặc biệt người Phật tử Việt Nam cuồng tín tin theo các vị Thầy của họ nên chẳng cần lý tới kiến thức hạn chế của Thầy mình.
Ngày nay “tầm sư học đạo” sa sút thành “y sư chối đạo”. Người ta tin thầy hơn chân lý, hơn đạo. Cho nên gần đây có hiện tượng phân hóa, chia rẽ đến gây thành tranh chấp trong cộng đồng Phật giáo trong, ngoài nước. Ai cũng hiểu là có bàn tay lông lá của Cộng sản áp dụng thủ thuật “chia để trị”, lấy “gậy ông đập lưng ông”, rõ ra là “dùng Sư đánh Sư, dùng Phật tử nện Phật tử”. Kiểu trai cò mổ nhau, ngư ông cộng sản đắc lợi. Nhưng chuyện đau lòng là họ không chịu thâm nhập Ba tạng Kinh điển cao siêu kia, khiến mắc mưu kẻ tà giáo ?
Bên trong và phía sau là bàn tay của ngoại đạo xúc xiểm, đâm bị thóc chọc bị gạo. Nhưng hiện tượng nổi, là người Phật tử tranh chấp nhau, không vì phủ nhận giáo lý đạo Phật, phủ nhận đức Thích Ca, mà tranh chấp để bảo vệ “Ông Thầy của mình”. Bởi “Thầy của mình” cao cả nhất, vĩ đại nhất, thiền sư nhất, đạo sư nhất. Cái gì cũng “nhất” ! Do “Thầy của mình” là nhất, nên giáo lý cứu khổ của đạo Phật thành thứ yếu, đức Thích Ca đứng xếp hàng sau lưng “Thầy của mình”, Ba tạng kinh điển mờ mịt trước xảo ngôn, mị ngữ của “Thầy mình”… Còn quần chúng khổ đau, bị áp bức, đất nước điêu linh, thế giới lâm nạn khủng bố, sinh thái địa cầu bị uy hiếp hay khủng hoảng văn hóa không còn trong tầm nhắm, tầm tiên ưu của người Phật tử.
Bi kịch của giới Tăng sĩ hay Phật tử ngày nay là chối bỏ Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) để tôn thờ Nhất bảo là “ông Thầy của mình”.
Người ta quên chuyện chính yếu để phục vụ cái phụ, cái thứ yếu, cái hạng hai. Dường như đây cũng là quán tính “nhất” của dân tộc ta ? Việt Nam là “nhất” trên địa cầu, bốn nghìn năm văn hiến Việt lớn lao “nhất” cõi nhân loại, người Việt là số Một ! Nhưng khi hành xử thì người Việt khinh thị dân mình, qụy lụy ông tây bà đầm. Một thứ chủ nghĩa tân-nô-lệ của “Yes, Sir”. Đến như cái dốt họ cũng thậm xưng dưới hình thức tự tôn là “dốt nhất” !
Hiện tượng “y sư chối đạo” ngày nay của một số Phật tử đang đồng lõa với các thế lực gian manh, gian tà, phá đổ nền Phật giáo dân tộc. Thảm hơn, khi những ông “Thầy của họ” lại như như bất động, im lặng dung dưỡng sự thờ lạy ngẫu tưởng của tín đồ mình, dù các “ông Thầy này” thuộc lòng và ngày ngày vẫn ung dung thuyết pháp cho đồ chúng kinh bản Kālāma (5).
9.
Lê Thị Huệ: Người ta nói 4 dân tộc cùng một nền văn hóa là Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn , thì ba nước kia tiến hết rồi, trừ Việt Nam. Cùng một nét Khổng Học, thì cái gì khác giữa VN với 3 nước kia ? Việt Nam nên rút bài học nào ?
Võ Văn Ái : Phê bình chung về Khổng giáo tại Việt Nam và vài nước Á châu, tôi đã biểu thị trong sách “Nguyễn Trãi, Sinh thức và Hành động” do Nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris ấn hành năm 1981.
Theo tôi nghĩ, Nhật Bản không áp dụng cứng nhắc cái học hủ Nho Chu – Trình thời Tống như Việt Nam, mà dựa vào Khổng học thực dụng của Vương Dương Minh. Hai yếu tố quan trọng làm cho nước Nhật tân tiến nhất Á châu và đứng ngang hàng Tây phương ngày nay. Một là yếu tố Phật giáo, hai là sự sáng suốt cầu học của giới sĩ phu, đại biểu là Minh Trị Thiên hoàng. Ông dám thoát ly tư tưởng “ao nhà” so với chính sách đà điểu, bế môn tỏa cảng của các ông vua Tàu và Tự Đức cùng thời.
Ta biết đạo Phật truyền vào Nhật thế kỷ VI Tây lịch, thấm nhuần vào một Phật tử kỳ vĩ là Thái tử Thánh Đức (Shotoku). Thái tử khai mở một Hiến chương chính trị đầu tiên tại Châu Á gồm 17 điểm dựng trên chữ Hòa của Phật giáo. Tương tự như sau này các vua thời Lý - Trần thực hiện chữ Hòa vào chính trị, tạo ra một quốc gia văn hiến, phồn thịnh, nhân dân hạnh phúc. Biểu lộ đặc thù ngay trong lĩnh vực hình sự : thường xuyên bỏ án tử hình và xá tội.
Trung quốc tuy theo Cộng sản như Hà Nội, nhưng do bản chất thực dụng cố hữu của người Tàu nên sớm biết phải bắt tay với “Con Cọp Giấy” Hoa Kỳ mà Mao Trạch Đông phỉ nhổ trước đó, rồi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Không như Việt Nam “Chống Mỹ mút mùa” nay đành đổi sang lạy lục cúc bái Mỹ một cách trễ tràng lại thiếu thông minh. Nhất là không biết kết liên các thành phần dân tộc làm lá chắn chiến lược tại Đông Nam Á và hội nhập vào công cuộc phát triển toàn cầu.
Sau ngày Saigon thất thủ, năm 1977 và 1978 Hoa Kỳ muốn bình thường hóa quan hệ không điều kiện với Hà Nội. Nhưng người Cộng sản kiêu binh đã khước từ theo chủ trương “có ba trăm lạng việc này mới xong”, ý ra điều kiện muốn thương thảo thì Hoa Kỳ phải trả 7 tỷ Mỹ kim tái thiết Bắc Việt như Tổng thống Nixon đã hứa trong thời gian hòa hội Paris. Cái ngu về xử thế chính trị và dốt nát về kiến thức thế giới của Hà Nội khiến Hoa Kỳ bỏ rơi[1]. Sau này lạy lục cúc bái bao năm mới thiết lập được quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ năm 1995. Việt Nam mất cơ hội kiến thiết 19 năm ! Đến nỗi những năm 80, Nguyễn Khắc Viện la trời “có nguy cơ mất nước”.
Đa số thành phần lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thất học, dù chưa phải lỗi họ. Dưới thời Pháp thuộc, vì lòng yêu nước họ tham gia đấu tranh rất sớm khi mới qua ngưỡng cửa tiểu học hay trung học, rồi bị bắt vào tù. Kiến thức học đường ngừng lại từ đó, không phát triển thêm. Ý chí đấu tranh cao, lòng căm thù lớn, nhưng kiến thức nông cạn, khiếm khuyết. Kịp đến khi đảm đương việc nước năm 1945, sở học khiếm khuyết chẳng khác chi anh chột trong đám người mù. Quá tự đắc nên không biết nguyên tắc cầu người hiền, cầu người tài của những ông vua thời trước để xây dựng bộ máy nhà nước theo tác phong “trắc tịch cầu hiền”. Vua chỉ ngồi nửa ghế (trắc tịch), nửa ghế kia giành chờ người tài đến ngồi. Ngày nay dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo Cộng sản chẳng những giành trọn ghế mà còn giành hết các dãy ghế trong rạp hát chính trị. Là người học trò ngoan ngoãn của Trung Cộng, nhưng các điều hay bên Trung quốc lại không biết, không học. Thử nhìn vào chính sách kinh tế và đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay thì rõ.
Chị ở Hoa Kỳ ắt biết thế giới thầm lặng của giới trí thức và chuyên viên tư vấn thông qua hệ thống đại học và các Sáng hội think-tank quan trọng chừng nào. Chính họ hoạch định chính sách của chính phủ Hoa Kỳ trong hai vấn đề nội chính và đối ngoại, chứ không riêng Tổng thống và các bộ trưởng. Số lượng chuyên viên tư vấn ở Hoa Kỳ có khoảng mười nghìn người. Tại Anh chỉ là số trăm, còn toàn Châu Âu là số ngàn. Trong khi ấy Trung quốc lên tới số trăm nghìn. Không phải Bộ Chính trị hay chính phủ ông Hồ Cẩm Đào hoạch định chính sách bành trướng của Trung quốc đâu, mà là một tập thể mênh mông những trí thức và chuyên viên tư vấn hoạch định. Viện Khoa học Xã hội Trung quốc ở Bắc kinh bao gồm 50 trung tâm nghiên cứu quốc sách với 260 bộ môn do 4000 nhà nghiên cứu điều hành, mà Trung quốc có hàng chục viện như thế.
Khác với các thể chế dân chủ y cứ vào trưng cầu dân ý hoặc sự góp ý của toàn dân theo chủ nghĩa dân túy, chủ trương độc tài đảng trị của Trung quốc đang dựa vào yếu tố trung tâm của sự hoạch định chính sách thông qua khảo cứu ở cấp chuyên viên tư vấn. Tôi gọi đây là hiện tượng Gia Cát Lượng hiện đại. Đọc Tam quốc chí ta biết Lưu Bị muốn dấy nghiệp lớn đã phải kiên nhẫn, khiêm cung tam cố thảo lư, ba lần chờ chực gặp xin Gia Cát Lượng làm quân sư. Hiện tượng Gia Cát Lượng ngày nay là hàng trăm nghìn chuyên viên tư vấn đang giải quyết tại Trung quốc sự dằn co giữa Chủ nghĩa Xã hội lỗi thời, sai lạc, với chủ nghĩa Tư bản rừng rú. Để làm chi ? - Để xây dựng một trật tự thế giới theo mô hình Trung quốc nhằm đánh đổ Hoa Kỳ, tức giấc mộng đại cường quốc xưa cũ của Hán tộc. Chúng ta sẽ chứng kiến việc này chừng 20 năm tới. Trong khi ấy Việt Nam không hề có viễn kiến thế giới. Tệ hơn, không đào tạo nổi giới trí thức và chuyên gia tư vấn trong nước, lại còn xài xạc, tự thị với khoảng nửa triệu chất xám Việt Nam ở hải ngoại.
Năm 1988 tôi được Bắc Kinh mời tham quan Trung quốc hai tuần lễ. Thực ra thì họ mời tôi từ năm 1982, nhưng vì băn khoăn, do dự nên không đáp nhận. Mãi đến 1988 sau khi tham khảo một số nhân sĩ trong nước, ngoài nước và được sự đồng tình tôi mới nhận lời đi. Thời điểm ấy “tình môi hở răng lạnh” Trung Việt đang suy sụp xiểng liểng thành tranh chấp như sừng với đuôi. Hà Nội chửi bới chủ nghĩa bành trướng Đại Hán qua hằng loạt sách tố cáo chuyện cổ kim, hệt như ngày nay họ đang chửi rủa thế “lực phản động” người Việt nước ngoài, mà tôi là một tên “đầu sỏ”. Còn phía Trung quốc thì tiếp cận giới chống Cộng tại ba nước Đông Dương cũ theo chủ trương “kẻ thù của kẻ thù là bạn”. Thời gian thăm viếng có tính cách tuyên truyền phô trương một Trung quốc đang trên đà cải tiến.
Qua Trung quốc tôi lấy làm lạ đi đến đâu, gặp ai, họ đều mời xem bữa ăn của gia đình, chỉ vào nồi cơm và mấy đĩa thịt cá. Ở Nam Ninh, mấy giáo sư dẫn tôi qua cầu chỉ xuống dòng nước nói rằng thời Cách mạng văn hóa nhiều giáo sư, sinh viên đã bị vứt xuống đây. Họ cũng bảo thưở ấy đói lắm, chỉ ăn cháo qua ngày, họa hoằn một hai lần trong tháng mới ăn cơm. Không thịt. Rồi than rằng thế mà thời ấy Trung quốc viện trợ gạo cho Việt Nam đánh giặc đấy, ai ngờ ngày nay…
Thăm thành phố Nam Ninh dựng từ thời Bắc Tống tôi động lòng nhớ các dãy phố Hà Nội và nghĩ rằng Lý Thường Kiệt đã đến đây viết văn “lộ bố” ở Châu Khâm, Châu Ung. Tôi xin đi thăm mộ cụ Nguyễn Thiện Thuật, một trong hai mươi chủ tướng phong trào Cần Vương thuộc cánh quân Bãi Sậy. Việc khó khăn, vì tài liệu của sử gia Trần Huy Liệu viết sai địa điểm ở phía Tây. Tốn công mới tìm ra mộ nằm ở phía Đông bắc thành phố nhờ một giáo sư ở Viện Dân tộc học Quảng Tây. Lạ thật, Nam Ninh là hậu cứ của ông Hồ và cán bộ cao cấp Hà Nội nườm nượp sang bồi dưỡng. Thế mà chả ai ngó ngàng ngôi mộ vị anh hùng. Kiếm chẳng đâu ra một thẻ hương, tôi phủ phục trên đất lạy cụ ba lạy trước sự ngạc nhiên của các cán bộ hướng dẫn. Về Paris viết trên Quê Mẹ tôi ngậm ngùi tả cảnh tiêu điều của ngôi mộ trên sườn đồi nằm chung với mươi ngôi mả đẹt, may còn bia đá khắc dòng chữ “Việt Nam Cách mạng cố Tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật chi mộ”. Rồi nêu câu hỏi các nhà lãnh đạo Hà Nội làm cách mạng cho ai ? Vài tháng sau tôi nghe tin ông Hoàng Văn Hoan viết thư xin Trung quốc xây lại mộ cho cụ.
Nhờ chuyến đi tôi có dịp tọa đàm với giới nghiên cứu, giáo sư ở Viện nghiên cứu Đông Dương đại học Nam Ninh, đại học Quảng Châu và đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh. Tôi có phần ngạc nhiên khi thấy tạp chí Quê Mẹ tại các thư viện Đại học nằm bên cạnh sách báo của Hà Nội. Qua các cuộc trao đổi với một số giáo sư, sinh viên, tôi cảm nhận không khí bùng nổ tất yếu khó tránh khỏi, mà chúng ta chứng kiến sự biến Thiên An Môn vào tháng sáu 1989. Chuyến đi này cho tôi thấy sự động não của giới trí thức Tàu như một đối lực trước chủ trương co kín của đảng Cộng sản, mà sau này theo dõi tôi phát hiện bước tiến theo như trình bày lúc nãy. Những đặc khu kinh tế mà tôi chứng kiến hay thăm dò trong chuyến đi cho thấy tính thực dụng của người Tàu trong việc tiếp cận nền kinh tế thị trường. Khác với kiểu kinh tế nhập nhằng “định hướng XHCN” của Hà Nội.
Kể từ năm 2007 ta thấy rõ Trung quốc đang xuất cảng mô thức Đặc khu kinh tế sang Phi châu. Họ đã hay đang thực hiện tại Zambia, Mauritania và Tanzania. Một số nước Nam Mỹ cũng đang học đòi mô thức phát triển Trung quốc. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì đang có 3000 dự án Trung quốc phát triển tại 120 quốc gia. Chưa ai quên giai thoại Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF) thương thuyết nhiều năm với chính quyền Angola về một hiệp ước chống tham nhũng thì mới cho vay lãi nhẹ. Thế nhưng vài giờ trước khi ký kết (năm 2004) Angola tuyên bố chẳng cần tiền của Qũy Tiền tệ Quốc tế nữa, vì Trung quốc vừa cho vay 2 tỉ Mỹ kim với chế độ ưu đãi.
Tư tưởng quyền lực nhuyễn (Soft power) là phát kiến của nhà khoa học chính trị Mỹ Joseph Nye năm 1990, đang được Bắc kinh áp dụng triệt để hơn tại các nước Âu Mỹ. Mặt khác giới trí thức Tàu kể cả những người bảo thủ trong đảng Cộng sản cũng đang quy mô nghiên cứu lại tư tưởng cổ đại Trung quốc.
Khắp nơi, Trung quốc đang rao hàng “chính sách hòa bình” của họ, và đã thiết lập Tổ chức “Hợp tác Thượng Hải” nhằm đánh bật Hoa Kỳ ra khỏi các cộng đồng Châu Á. Ảnh hưởng Trung quốc ngay tại LHQ không phải nhỏ, mà chúng ta thấy rõ sau cuộc chiến Iraq, qua việc xúi giục các nước Phi châu cản ngăn Nhật bản vào ngồi ghế Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An, hay đẩy các quốc gia Hồi giáo làm suy yếu và biến tướng vai trò nhân quyền thực hữu của Hội đồng Nhân quyền LHQ thay thế Ủy hội Nhân quyền LHQ trước kia. Tất cả đó nhằm suy yếu ảnh hưởng Hoa Kỳ tại diễn đàn quốc tế này. Tại Đại hội đồng LHQ phiếu bầu cho Hoa Kỳ tụt từ 50,6% năm 1995 xuống 23,6% năm 2006. Về nhân quyền tại LHQ, Trung quốc tăng vọt từ 43% lên 82%, trong khi Hoa Kỳ từ 53% tụt xuống 22% !
Hẳn nhiên chế độ độc tôn độc đảng tại Trung quốc chóng chầy sẽ sụp đổ. Nhưng hiện tại Bắc Kinh vận dụng tất cả mọi phương tiện tinh vi cổ kim để kéo dài mạng sống và chận đứng sự nổi loạn của quần chúng.
Đem chủ nghĩa Duy vật vô thần và phi tôn giáo xích hóa nước Tàu từ năm 1949, nhưng nay tiên kiến bước đi của lịch sử cùng tiềm năng châu Á, nên ngày 16.4.2006 Bắc kinh tổ chức “Đại hội Phật giáo Thế giới” mời 36 nước đến tham dự.
Từ thập niên 90, Trung quốc đã có trào lưu phục hồi Nho giáo do giới học giả nghiên cứu Quốc học đề xướng. Rút bài học từ sự kiện thập niên 90 Cộng sản quốc tế sụp đổ, mẫu quốc Liên xô tan vỡ, khoảng trống ý thức hằn sâu tại các quốc gia theo Cộng gây thành cuộc khủng hoảng ý thức hệ không tiền khoáng hậu. Một số trong giới trí thức Trung quốc nhận định không thể phủ nhận nội dung chính của hiện đại hóa và toàn cầu hóa đang do văn minh phương Tây lãnh đạo. Với tâm thức nước lớn, Trung quốc tự biết không thể khư khư trình làng ý thức hệ lỗi thời Mác – Lê – Mao nữa. Họ quay về cầu cứu Quốc học, đem ông Khổng Tử ra chào hàng. Hiện đang có trào lưu đòi đem Tứ thư, Ngũ kinh vào dạy ở các bậc tiểu học và trung học tại Hoa lục. Đối ngoại thì Bắc Kinh đã bỏ hang tỉ bạc mở 100 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới dạy chữ Hán và văn hóa cổ Trung quốc cho người nước ngoài. Minh thị cho trào lưu này là hiện tượng Vu Đan xẩy ra hồi tháng 10.2006. Bà Vu Đan, 41 tuổi, giáo sư Triết tại Đại học Sư phạm Bắc kinh lên Đài Truyền hình Trung ương thuyết giảng 7 buổi về đề tài “Thu hoạch đọc sách Luận Ngữ” thu hút hàng triệu người nghe nhìn. Sau in thành sách đợt đầu bán một triệu cuốn, vài tháng sau tái bản bán 3 triệu cuốn. Một kỷ lục trong ngành xuất bản sách, mà lại là cổ thư bị Mao đốt bỏ mấy mươi năm trước.
Trong khi ấy phục hồi quốc học ở Việt Nam là gì ? – Đưa một tay hành động như Hồ Chí Minh lên thành nhà “tư tưởng” (sic), cho ra vài cuốn viết về Khổng học sơ sài, không phát kiến. Còn Phật giáo là nền tảng từ cổ đại, trung đại đến hiện đại trên mặt tư tưởng và hành động thì bị đàn áp không nương tay. Ngoại trừ thứ Phật giáo công cụ do đảng nặn ra làm bình phong. Còn lại chỉ thấy toàn những nghìn luợt lễ hội đánh trống khua chuông, ăn mặt áo mão cải lương, hát bộ, nói là của thời “Hùng vương”, “Nguyễn Huệ” cốt thu hút khách du lịch làm tiền ! Đua đòi cái mã lòe loẹt bên ngoài nhưng nội dung và thực chất vắng bóng. Mới đây, tôi đọc trên Gió O bài trả lời của nhà văn Cộng sản Nguyên Ngọc công tâm nói về văn hóa Việt. Tôi xin trích vài lời của ông Nguyên Ngọc :
“Nỗi lo lớn bây giờ là dù kinh tế có đang khá lên, nhưng văn hóa đã không khá theo, thậm chí còn sa sút. Đang có hiện tượng cả xã hội lao đi làm kinh tế, nhưng kể cả trong tầng lớp "khá giả" nhất của xã hội cũng rất ít người quan tâm đến văn hóa, quan tâm tới cách ứng xử có văn hóa. Văn hóa trọc phú đang tràn ngập trong xã hội. (…) Đặc trưng của chùa miền Bắc là sự thâm u, trầm tư, yên tĩnh. Kể cả những ngôi chùa nằm giữa phố, bước vào chùa là một không gian khác hẳn, khiến con người ta lắng lại. Nhưng giờ thì đâu đâu cũng thi đua trùng tu, mở rộng chùa. (…) Hình thái kiến trúc đã "hỏng", cách ứng xử trong các không gian tôn nghiêm ấy cũng có quá nhiều chuyện đáng buồn. Đã có lần tôi cùng nhạc sĩ Dương Thụ đến chùa Tháp Bút, thấy tình trạng "hát kinh" có nhạc đệm, giống như trong nhà thờ. Cách tụng kinh Phật chậm rãi, nhấn nhá ê, a không có chút gì giống với nhạc đệm nhà thờ ở phương Tây cả. Tết năm ngoái tôi lên chùa Phật Tích, đi từ ngoài vào tới sân trong toàn thấy mùi... mực nướng !”.
Trường hợp Đại Hàn cũng như Nhật Bản là hai quốc gia dân chủ. Chúng ta có thể thẩm kết mà không sợ sai lạc, là các quốc gia theo thể chế dân chủ, tự do mới có hoàn cảnh phát triển. Các nước độc tài toàn trị, quân phiệt, phát xít, thì thiểu số lãnh đạo trở thành triệu phú bên cạnh khối đại đa dân chúng ngày càng bần hàn, thất học. Ví dụ quá rõ khi ta so sánh một dân tộc Triều Tiên, mà Nam Hàn dân chủ phát triển mù trời, Bắc Hàn theo Cộng sản dân chúng đói meo.
Người Việt phục vụ giỏi khi đứng lẻ, khi gánh vác việc người khác. Các công sở Âu Mỹ thường khen sự chăm chỉ, giỏi dang, cần cù của người Việt. Nhưng giữa chúng ta với nhau thì lại khắc khẩu, khắc ý, đưa tới xỉ vả nhau kinh niên. Những ai còn lưu tâm đến sinh mệnh con cháu Vua Hùng, cần tập làm việc chung giữa hai người, ba người, rồi bốn người lên tới cộng đồng…
Sử gia nổi danh Arnold Toynbee, người Anh, tiên liệu thiên niên kỷ thứ ba sẽ là thiên kỷ của Á châu hay Phi châu. Âu châu đang đi xuống vì tranh chấp nội bộ, mất viễn tượng thế giới sau giai kỳ đế quốc xâm lược. Nhìn vào hiện cảnh phát triển của Nhật bản, Trung quốc và Ấn Độ, chúng ta có cơ sở để tin rằng Á châu sẽ là điểm phát xuất cho một thời kỳ lịch sử mới. Bởi vậy muốn thoát khỏi vị trí địa chính bất lợi như Việt Nam từ hai nghìn năm qua, người Việt cần chuẩn bị nhanh và khôn kế hoạch phát triển chiến lược Châu Á cho một trăm năm tới trên các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, nhân văn, kinh tế, khoa học. Đó là nói trên phạm vi tại thế. Còn vấn đề trọng thiết hơn cả : một chân đạp đầu núi, một chân đạp hải triều, chúng ta hiện thế ra sao trước cuộc sụp đổ của hai nền triết lý Tây phương của Platon và của Mác-Lênin ?
Người Việt phải gặp nhau trên đỉnh đầu nhân loại !
Chị hỏi Việt Nam nên rút bài học nào để phát triển ?
Câu trả lời dứt khoát là vứt hệ thống nhà nước và ý thức hệ Cộng sản vào hố rác, như thế giới đã vứt chủ nghĩa Cộng sản vào hố rác lịch sử đầu thập niên 90. Trời đã cho Lénine, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh 73 năm thí nghiệm Cộng sản như một giải pháp phát triển dân sinh (1917 – 1990). Nhưng 73 năm ấy các ông chỉ làm hai động tác vô sản hóa dân nghèo và thảm sát giới trí thức. Thế thì đeo đuổi làm chi sự hủ bại lão suy ?
(còn tiếp 4 kỳ nữa)
(kỳ tới: Phật Giáo đấu tranh, Thích Đôn Hậu, Văn Hóa Việt và đề tài Nhân Quyền, trí thức Tây Phương của Aldré Malraux, Herman Hess, Karl Jasper, Jean-François Revel…)
phụ chú:
1 Tam thiên đại thiên thế giới (chữ Phạn Tri-sāhasra-mahā-sāhasra-loka-dhātu) là ba nghìn thế giới đại thiên, vũ trụ quan của người Ấn Độ xưa. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, bao quanh có 4 đại châu, 9 dãy núi và 8 lớp biển bao bọc gọi là một Tiểu thế giới. 1000 Tiểu thế giới hình thành một Tiểu thiên thế giới. 1000 Tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới. 1000 Trung thiên thế giới họp thành một Đại thiên thế giới. Vậy Tam thiên đại thiên thế giới (Tiểu thiên thế giới + Trung thiên thế giới + Đại thiên thế giới) gồm nghìn trăm ức thế giới, chứ không phải nói chung chung là vô số vô biên thế giới. Theo kinh điển Phật giáo, Tam thiên thế giới là lĩnh vực hóa độ do một đức Phật giáo hóa.
2 Công án, nghĩa đen là án lệ do quan lại phán quyết. Trong thiền học gọi chung sự kiện khi dùng một chữ, một câu nói cho người học đạo tham cứu gọi là “thoại đầu”. Ví dụ hỏi “Con chó có tính Phật không ?” Trả lời : “Không !”. Đối thoại như thế gọi là một tắc Công án. Xưa nay có khoảng năm trăm Công án thường dùng trong số gần hai nghìn công án. Công án không thể đem luận lý mà giải thích, vì tinh thần Thiền siêu việt nói năng, ngôn ngữ, suy tư. Dùng cái Phi luận lý tính để khơi dậy trực giác tiềm ẩn trong vô thức giúp người học đạo thể chứng chân tính.
Nội dung Công án làm công cụ cho sự ngộ Thiền, làm phương pháp khảo nghiệm, làm vật tin cho sự ấn chứng và tiêu điểm giác ngộ. Công án là đối tượng để suy xét, trích từ lời nói và việc làm của các bậc cao tăng làm kim chỉ nam cho người tu thiền. Các sách Công án quan trọng gồm có Bích Nham lục, Vô môn quan, Chính pháp nhãn tạng, Cảnh đức truyền đăng lục, v.v…
3 Tam bảo là ba bảo vật của đạo Phật gồm : Tự tính bản lai không nhiễm ô, không còn vô minh, là Phật bảo; Tự tính bình đẳng, không sai khác nhưng biến hiện ra tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, là Pháp bảo; Tự tính có diệu dụng vô lượng vô biên, mang khả lực hằng hà sa công đức, thực hiện vô số Phật sự, là Tăng bảo. Phật tử là người quay về và nương dựa (quy y) với Tam bảo, tức tự tính bản lai. Chữ pháp thế gian và xuất thế gian nói đây không có nghĩa sai lạc như nhiều người lầm tưởng là nhập thế và xuất thế. Pháp thế gian là hiểu rõ nhân quả, nghiệp báo. Pháp xuất thế gian là tu đạo giải thoát (từ bi, hỷ xả, cứu chúng sinh, giác ngộ thành Phật).
4 Ngũ minh (Pañca vidyā-sthānāni) là 5 môn học gồm Thanh minh (môn học ngôn ngữ, văn chương), Công xảo minh (môn học công nghệ, kỹ thuật, lịch toán), Y phương minh (môn học y dược), Nhân minh (môn học về lý luận), và Nội minh (môn học về tông chỉ, giáo lý của phái mình).
5 Sự tự do tư tưởng của Phật giáo bộc lộ qua câu chuyện này. Một hôm đức Phật đến thị trấn Kesaputta thuộc Vương quốc Kosala, Ấn Độ, dân trong thành được gọi là người Kālāmas đến gặp Phật và hỏi ngài rằng : “Bạch đức Thế tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà La Môn đến viếng Kesaputta. Họ giảng giải và đề cao lý thuyết của họ, đồng thời lên án, bài xích lý thuyết của những người khác. Bạch Thế tôn, phần chúng con, chúng con hoang mang, hoài nghi, không biết vị nào trong các nhà ẩn sĩ và Bà Là Môn nói sự thật, vị nào nói sai quấy ? Đức Phật liền đáp :
-“Hỡi những người Kālāmas, các người hoài nghi và hoang mang là phải, vì các vấn đề này rất đáng hoài nghi. Hỡi những người Kālāmas, đừng để những lời thuật lại, những lời đồn hay những lời truyền thống lôi cuốn ta. Đừng để những uy quyền của kinh điển, những lý luận suông, các điều xét đoán bề ngoài, các điều thích thú với những quan niệm võ đoán, những gì có vẻ đáng tin, hay những ý nghĩ “đây là Thầy ta”, dẫn dắc ta. Nhưng hỡi những người Kālāmas, khi nào các người tự biết mình rằng những gì đó là ác, sai, xấu, thì hãy vứt bỏ chúng. Và khi các người tự mình biết rằng những gì đó là thiện, là tốt thì hãy chấp nhận và theo chúng”.
6 Xem thêm “Hồi ức và suy nghĩ” của ông Trần Quang Cơ, Thứ trưởng ngoại giao Hà Nội, tr. 16-17 : “Với tư cách là Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Bộ Ngoại giao, trực tiếp tham gia phái đoàn đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mỹ ở Pa-ri năm 1977 rồi ở Nữu Ước năm 1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình “From Third world to First”, Lý Quang Diệu đã nhận xét :”Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Băng-cốc. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”. Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hóa quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một chiến lược “thêm bạn – bớt thù” thực sự cầu thị hơn ? Việc bình thường hóa với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật. (…) Việc ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ lúc này đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung quốc đầy tham vọng”.
đọc thêm về Thi Vũ Võ Văn Ái tại 2 địa chỉ:
http://www.gio-o.com/ThiVu.html
http://www.queme.net
© gio-o.com 2009